Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 28/07/2011-15:08:00 PM
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện của các ngành thương mại – dịch vụ tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2011
Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 28 tháng 7 năm 2011
I. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 7 NĂM 2011
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Tháng 7 tiếp tục là tháng trong mùa du lịch cao điểm của nước ta đặc biệt là du lịch nghỉ dưỡng tắm biển. Thời gian này vẫn là thời điểm đi du lịch mùa hè và các công ty du lịch đưa ra nhiều gói tour hấp dẫn nên số lượng khách du lịch nội địa vẫn tăng. Bên cạnh đó các địa phương trên cả nước cũng nỗ lực thu hút khách du lịch bằng các hoạt động thiết thực như: lễ hội ẩm thực ba miền (Phú Yên), lễ hội "Lăng Cô - Vịnh đẹp thế giới" (Thừa Thiên Huế), lễ hội truyền thống Vân Đồn (Quảng Ninh)...
Cũng trong tháng 7, du thuyền 5 sao SuperStar Virgo thuộc Hãng tàu biển Star Cruises (Malaysia) tiếp tục đưa thêm 2.700 du khách và thuyền viên đến nước ta theo hành trình tham quan TP.HCM - Củ Chi - Mỹ Tho và khám phá văn hóa ẩm thực truyền thống Việt Nam.
Do tình hình kinh tế thế giới trong thời gian này có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là ảnh hưởng của khủng hoàng nợ công Châu Âu nên tốc độ tăng trưởng của khách du lịch quốc tế có phần chững lại. Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7/2011 ước đạt 421.160 lượt khách, tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái và đưa tổng số khách trong 7 tháng đầu năm lên hơn 3,38 triệu lượt khách. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 7 chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc, Úc, Hàn Quốc, Pháp, Mỹ.... Lượng khách du lịch đến từ Nhật Bản tiếp tục có dấu hiệu tăng trưởng tích cực.
Xét theo mục đích chuyến đi, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đi theo mục đích du lịch và nghỉ ngơi chiếm khoảng 62,4%, theo công việc khoảng 16,2%, thăm thân nhân 13,5% và theo mục đích khác 7,9%.
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 7 tháng chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tăng 8% so với tháng trước, khách du lịch đi bằng đường bộ giảm 2%, khách du lịch đi bằng đường biển giảm 5%.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 7 năm 2011 đạt 8,4 tỷ USD, giảm 0,7%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 3,75 tỷ USD.
7 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 51,5 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 32,8% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 7 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 4713 nghìn tấn, giảm 3,9% về lượng và tăng 39,1% về kim ngạch; than đá 10,32 triệu tấn, giảm 12,8% về lượng và tăng 8,1% về kim ngạch; dệt may 7559 triệu USD, tăng 29,4%; da giày 3620 triệu USD, tăng 30,7%; cao su 369 nghìn tấn, tăng 11,5% về lượng và tăng 77,2% về kim ngạch; gỗ và sản phẩm gỗ 2085 triệu USD, tăng 13,1%; linh kiện điện tử 2012 triệu USD, tăng 8,8%; thuỷ sản 3136 triệu USD, tăng 26,1%; gạo 4734 nghìn tấn, tăng 9% về lượng và 10,6% về kim ngạch; cà phê 920 nghìn tấn, tăng 18,1% về lượng và tăng 83,6% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 1691 nghìn tấn, tăng 38,7% về lượng và tăng 81,3% về kim ngạch...
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2011 so với cùng kỳ: giá hạt điều tăng 44,5%, cà phê tăng 55,5%, chè các loại tăng 4,9%, hạt tiêu tăng 68%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 30,9%, than đá tăng 23,4%, dầu thô tăng 44,7%, cao su tăng 58,9%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 3,3 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 20,1% và chiếm tỷ trọng 17,8%; xuất khẩu vào EU tăng 47,1% và chiếm tỷ trọng 17,1%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 20,8% và chiếm tỷ trọng 14,5%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 23,1% và chiếm tỷ trọng 9,9%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 57,7% và chiếm tỷ trọng hơn 10,5%.
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 7 năm 2011 ước đạt 8,6 tỷ USD, giảm 0,2% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 3,85 tỷ USD.
7 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 58,1 tỷ USD, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt hơn 25,4 tỷ USD, tăng 29,5%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 7 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 6813 nghìn tấn, tăng 8,6% về lượng và tăng 58,5% về kim ngạch; sắt thép các loại 4085 nghìn tấn, giảm 14,7% về lượng và tăng 7,8% về kim ngạch; phân bón 2161 nghìn tấn, tăng 31% về lượng và tăng 63,7% về kim ngạch; giấy các loại 605 nghìn tấn, tăng 14,2% về lượng và tăng 24,9% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1417 nghìn tấn, tăng 8,7% về lượng và tăng 29,7% về kim ngạch; máy móc thiết bị 8,3 tỷ USD, tăng 11,1%; máy tính và linh kiện 3272 triệu USD, tăng 26,3%; vải các loại 4020 triệu USD, tăng 36,9%; nguyên phụ liệu dệt may 1757 triệu USD, tăng 19,8%...
Cũng như xuất khẩu, giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 45,9%, khí đốt hóa lỏng tăng 25%, chất dẻo nguyên liệu tăng 19,3%, sợi các loại tăng 33,6%, sắt thép các loại tăng 26,5%, phân bón các loại tăng 24,9%, lúa mỳ tăng 39,8%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng hơn 4,5 tỷ USD.
7 tháng đầu năm 2011, nhập khẩu từ Châu Á chiếm gần 79% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 21,5%, tỷ trọng ước đạt 22,6%), ASEAN (tăng 31%, tỷ trọng 21%), Hàn Quốc (tăng 37,8%, chiếm tỷ trọng 12%), Nhật Bản (tăng 14,4%, chiếm tỷ trọng 9,6%) và EU (tăng 20,6%, chiếm tỷ trọng 7,2%).
Ước nhập siêu 7 tháng đầu năm 2011 là 6,64 tỷ USD, chiếm 12,9% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) nhập siêu hơn 1,7 tỷ USD. Nếu không tính kim ngạch xuất khẩu vàng vào tổng kim ngạch xuất khẩu, thì nhập siêu 7 tháng ước gần 8,5 tỷ USD, bằng 17% kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với khu vực Châu Á.
2.3. Nhận xét
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 7 tháng tiếp tục cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đã góp phần làm giảm dần tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu.
- Nhập siêu 7 tháng đầu năm 2011 giảm đáng kể còn 12,9% so với mức 15% của 6 tháng đầu năm 2011; nguyên nhân chủ yếu là do (i) xuất khẩu vàng trong tháng 7 tiếp tục ở mức cao; (ii) Nhà máy lọc dầu Dung Quất tạm dừng sản xuất để bảo dưỡng nên xuất khẩu dầu thô trong tháng 7 tăng so với các tháng trước.
- Hầu hết các mặt hàng nông sản giá đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái.
- 7 tháng đầu năm 2011, Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với các nước như Trung Quốc (ước đạt 7,6tỷ USD), ASEAN (4,4 tỷ USD), Hàn Quốc (hơn 4,4tỷ USD), Đài Loan (gần 4,2 tỷ USD).
Như vậy, kim ngạch xuất khẩu sẽ tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước và so với kế hoạch đề ra. Nhiều mặt hàng công nghiệp chủ yếu đã có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước và giá cả nhiều mặt hàng khoáng sản, nông sản tăng đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu không có việc xuất khẩu vàng trong 3 tháng gần đây thì tỷ lệ nhập siêu ở mức 17%, cao hơn 1% so với mức phấn đấu đề ra trong Nghị quyết số 11/NQ-CP.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 7/2011 ước đạt khoảng 154.367 tỷ đồng, tăng 0,92% so với tháng 6/2011. Tính cả 7 tháng đầu năm 2011, tổng mức bán lẻ cả nước ước đạt 1.065.804 tỷ đồng, tăng 22,33% so với cùng kỳ năm 2010.
Tính cả 7 tháng đầu năm 2011, trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 50,56%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 34,67% và 10,96%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,76%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1,05%.
(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2011 ước tăng 1,17% so với tháng 6/2011. Như vậy, tính cả 7 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã tăng khoảng 14,61% so với tháng 12/2010.
(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)
3.3. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Thị trường thế giới:
Bắt đầu từ cuối tháng 6 bước sang tháng 7/2011, giá dầu thô thế giới có xu hướng tăng và cho đến thời điểm 20/7, giá dầu dao động quanh mức 97 USD/thùng (dầu WTI). Nguyên nhân giá dầu tăng là do vấn đề nợ tại Mỹ có dấu hiệu bớt căng thẳng, kết hợp với đồng USD suy yếu so với đồng Euro và thông tin nguồn cung dầu thắt chặt tại quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới.
Thị trường trong nước:
Giá bán lẻ xăng dầu trong nước tháng 7 vẫn giữ ở mức như sau thời điểm tăng giá ngày 29/3/2011.
Theo số liệu sơ bộ, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 7 ước đạt 800 nghìn tấn, giảm 9,7% so với tháng 6, với trị giá khoảng 770 triệu USD; tính cả 7 tháng đầu năm 2011, ước đạt 6.813 nghìn tấn, trị giá khoảng 6.174 triệu USD, tăng 8,6% về lượng so với cùng kỳ năm 2010.
b) Sắt thép
Sản xuất và tiêu thụ thép trong tháng 7 giảm so với tháng 6/2011 do đầu tư công bị cắt giảm và lãi suất cao khiến nhiều dự án xây dựng nhà ở, văn phòng bị chững lại. Sản xuất thép xây dựng trong tháng 7 ước đạt 330.000 tấn, giảm 24,6% so với tháng 6. Tương tự, tiêu thụ thép trong tháng 7 ước chỉ đạt 270.000 tấn, giảm 30,7% so với tháng 6. Hiện lượng thép tồn kho thành phẩm là 430.000 tấn, tăng 6,9% so với tháng 6. Giá thép đang trong đà giảm và người mua có tâm lý đợi giá chạm đáy khiến giao dịch càng hạn chế. Giá thép cây tại các đại lý thép ở mức trung bình 17,5 triệu đồng/tấn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ, sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 6/2011 đạt 548 nghìn tấn, ước tháng 7/2011 đạt 580 nghìn tấn, tăng 5,8% về lượng so với tháng 6/2011 và đạt trị giá 520 triệu USD; tính cả 7 tháng đầu năm ước đạt 4.085 nghìn tấn, giảm 14,7% về lượng so với cùng kỳ năm 2010.
c) Phân bón
Thị trường quốc tế:
Sau khi tăng mạnh trong 2 tháng gần đây, giá phân bón thế giới, đặc biệt là ure đã giảm mạnh trong phiên giao dịch đầu tháng 7. Thị trường kỳ vọng giá ure sẽ tiếp tục giảm hơn nữa do nguồn cung tăng mạnh từ thị trường Trung Quốc, tuy nhiên, giá ure không có tín hiệu giảm sâu mà đã chững lại. Cụ thể, giá FOB ure tại một số thị trường vào ngày 16/7: Ure hạt trong tại Yuzhny: 450- 470 USD/tấn, tại Baltic: 440 - 460 USD/tấn,tại Brazil: 480 - 490 USD/tấn; Ure hạt đục tại Vịnh Ả Rập: 474 – 520USD/tấn, tại Ai Cập: 466 – 496 USD/tấn.
Thị trường trong nước:
Do ảnh hưởng của giá phân bón nhập khẩu cùng với việc chuẩn bị nguồn hàng cho vụ mùa, nên giá phân bón trong nước đang bắt đầu có xu hướng tăng lên, mức tăng phổ biến từ 2.000 - 3.000 đồng/kg. Hiện giá phân bón tại các địa phương phổ biến ở mức: Urê 9.500- 10.800 đồng/kg; DAP 14.000- 16.500 đồng/kg; kali 10.000-12.000 đồng/kg.
Theo số liệu sơ bộ, trong tháng 7/2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 320 nghìn tấn với trị giá 140 triệu USD (trong đó lượng ure nhập khẩu đạt 45 nghìn tấn, trị giá 15 triệu USD), tăng 7,7% so với tháng 6/2011. Tính cả 7 tháng đầu năm 2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 2.161 nghìn tấn với trị giá 856 triệu USD (trong đó ure đạt 413 nghìn tấn, trị giá 147 triệu USD), tăng 31,1% so với cùng kỳ năm 2010.
d) Xi măng
Thị trường xi măng đầu tháng 7 vẫn tiếp tục trầm lắng cùng với sự tảm đạm của thị trường bất động sản. Tuy nhiên, trong tuần đầu tháng 7, giá xi măng tại nhiều nhà máy đồng loạt tăng giá khoảng 120.000 – 150.000 đồng/tấn, theo đó giá xi măng bán lẻ trên thị trường từ đầu tuần cũng tăng trung bình 7.500 đồng/bao 50 kg, các mức điều chỉnh được áp dụng khác nhau tại từng đại lý bán lẻ.
Trong bối cảnh tình hình tiêu thụ xi măng khá thấp như hiện nay, việc tăng giá xi măng là khá bất thường và được các nhà sản xuất lý giải là do chi phí đầu vào như clinke, dầu, than, phụ gia, chi phí vận chuyển đều tăng cao.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2011
1. Về phát triển ngành du lịch
- Nghiên cứu, phát triển các hình thức du lịch mới như MICE (du lịch kết hợp khen thưởng, hội nghị, khảo sát, team building…); du lịch mạo hiểm, du lịch nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái ...
- Chú trọng chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với đối tượng khách du lịch bằng đường biển về visa, thường gian lưu trú trên bờ, khoảng cách được phép đi sâu vào nội địa ...
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các đơn vị kinh doanh du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch trong và ngoài nước.
- Phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương liên quan lồng ghép các chương trình, các dự án đầu tư bảo vệ tôn tạo di tích văn hoá lịch sử, môi trường sinh thái, vui chơi giải trí kết hợp với du lịch,... trong các vùng, khu, điểm du lịch nhằm phát huy cao độ nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch thu hút khách du lịch nước ngoài.
- Xây dựng hình ảnh du lịch Việt Nam đối với du khách.
- Khuyến khích các nhà đầu tư các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng tổng hợp để thu hút và đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
- Tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong việc chú trong phát triển chất lượng dịch vụ.
- Phát triển hệ thống khách sạn, nhà hàng, đặc biệt là hệ thống khách sạn tiêu chuẩn quốc tế 4 sao, 5 sao, tập trung chủ yếu ở các trung tâm du lịch, các khu du lịch quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
2. Về điều hành xuất nhập khẩu
- Thực hiện có hiệu quả các quy hoạch phát triển ngành, đẩy nhanh tiến độ đầu tư của những dự án sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu để thay thế một số sản phẩm nông nghiệp hoặc khoáng sản có khả năng giảm hoặc không tăng sản lượng xuất khẩu (lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, than đá, dầu thô...) bằng những sản phẩm mới như cơ khí, dây điện và dây cáp, linh kiện điện tử, máy móc... và những mặt hàng đang nhập khẩu lớn như giấy, phân bón, thép tấm, nguyên phụ liệu dệt may, da giầy...
- Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ thông qua các chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, tập trung vào các ngành dệt may, da giày, điện tử, cơ khí.
- Phát triển các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí, điện tử...
- Rà soát cơ cấu đầu tư, xây dựng những chính sách nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu, hạn chế đầu tư vào khu vực phi sản xuất
- Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước, phục vụ tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP về 06 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội những tháng cuối năm 2011.
- Tập trung kiềm chế tốc độ tăng giá của các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lương thực, thực phẩm thông qua đẩy mạnh sản xuất nhằm đảm bảo nguồn cung.
-Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Rà soát các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu, đảm bảo phát hiện và giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc, sớm hoàn thành theo tiến độ để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
- Đẩy mạnh chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia, tăng cường tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Từ tháng 7/2011 nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ nghỉ bảo dưỡng trong hai tháng, do vậy Bộ Công Thương cần phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra, lên kế hoạch nhập khẩu đảm bảo nguồn cung xăng dầu trong nước.
- Các cơ quan chức năng nghiên cứu đưa ra các biện pháp hiệu quả cho việc đưa xăng sinh học E5 vào sử dụng thử nghiệm một cách rộng rãi.
b) Sắt thép
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, cũng như khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
c) Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.
d) Xi măng
- Các doanh nghiệp cần chú trọng công tác đầu tư công nghệ hiện đại vừa nâng cao năng suất và tiết kiệm nhiên liệu sản xuất./.

File đính kèm:
BC KTDichvuT7.11.pdf

Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1570
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)