I. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 6 NĂM 2011
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Tháng 6 là tháng khởi đầu của mùa hè của Việt Nam, là thời điểm học sinh, sinh viên được nghỉ hè, nhu cầu đi du lịch của lực lượng này và gia đình tăng lên đáng kể. Thêm vào đó, do thời tiết nắng nóng kéo dài cho nên các bãi biển trở nên quá tải trong dịp này, đặc biệt là khu vực phía Bắc như biển: Sầm Sơn, Cửa Lò, Bãi Cháy… Các trung tâm du lịch như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nha Trang, Quảng Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu... vẫn thu hút số lượng lớn khách du lịch trong nước và nước ngoài. Nhiều lễ hội, sự kiện quan trọng được tổ chức tại các địa phương như:Festival Biển “Nha Trang – Điểm hẹn” năm 2011, Liên hoan cồng chiêng khu vực Đông Gia Lai mở rộng, chương trình "Kỳ vĩ hang động Quảng Bình”...
Cũng trong tháng 6, một loại các đường bay được mở mới hoặc hoạt động trở lại như: đường bay thẳng Hà Nội-Kuala Lampur (Malaysia), Hải Phòng – Đà Nẵng của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) với tần suất 7 chuyến/tuần và TP.Hồ Chí Minh đến Mũi Né (TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) của công ty bay dịch vụ Hàng Không (VASCO) cùng Sea Links City – Amitour. Bên cạnh đó, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam bằng đường biển tiếp tục tăng. Chỉ riêng du thuyền 5 sao SuperStar Virgo thuộc Hãng tàu biển Star Cruises (Malaysia) đã đưa khoảng 5.400 du khách và thuyền viên đến nước ta trong 2 ngày 7/6 và 14/6 qua cảng Lotus, thành phố Hồ Chí Minh để tham quan và khám phá ẩm thực truyền thống Việt Nam.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 6/2011 ước đạt 487.436 lượt khách, tăng 1,36% so với tháng 5 và đưa tổng số khách trong 6 tháng đầu năm lên hơn 3 triệu lượt khách. Hầu hết thị trường khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm đều tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái như: Trung Quốc tăng 52%, Úc tăng 54%, Hàn quốc tăng 5%, Pháp 11%, Mỹ 6%... Bên cạnh đó, khách du lịch đến từ Nhật Bản đã có dấu hiệu tăng trở lại từ sau thảm họa động đất và sóng thần vào tháng 3 vừa qua. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đi theo mục đích du lịch và nghỉ ngơi chiếm khoảng 59,6%, theo công việc khoảng 16,6%, thăm thân nhân 17,5% và theo mục đích khác 6,3%.
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 6 và 6 tháng chủ yếu vẫn bằng đường hàng không tăng 12,2 %so với cùng kỳ năm ngoái, khách du lịch đi bằng đường bộ tăng 20%, lượngkhách du lịch đi bằng đường biển tăng 11% so với tháng trước.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 6 năm 2011 đạt 7,8 tỷ USD, tăng 7,8%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 3,46 tỷ USD.
6 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 42,3 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 19,6 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu 6 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 3944 nghìn tấn, giảm 10,5% về lượng và tăng 26,2% về kim ngạch; than đá 8772 nghìn tấn, giảm 17,4% về lượng và tăng 1,6% về kim ngạch; dệt may 6114 triệu USD, tăng 28,4%; da giày 2987 triệu USD, tăng 31%; cao su 284 nghìn tấn, tăng 17,8% về lượng và tăng 90,6% về kim ngạch; sản phẩm gỗ 1776 triệu USD, tăng 15,4%; linh kiện điện tử 1633 triệu USD, tăng 6,3%; thuỷ sản 2589 triệu USD, tăng 28%; gạo 4017 nghìn tấn, tăng 15,9% về lượng và 13,4% về kim ngạch; cà phê 878 nghìn tấn, tăng 29,1% về lượng và tăng gấp hơn 2 lần về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 1611 nghìn tấn, tăng 40,5% về lượng và tăng 86,5% về kim ngạch...
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu 6 tháng năm 2011 so với cùng kỳ: giá hạt điều tăng 40,9%, cà phê tăng 57,1%, chè các loại tăng 4,2%, hạt tiêu tăng 73,7%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 32,8%, than đá tăng 24,3%, dầu thô tăng 41%, cao su tăng 61,7%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 2,7 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 21,3% và chiếm tỷ trọng 18,1%; xuất khẩu vào EU tăng 49,1% và chiếm tỷ trọng 17,4%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 16,2% và chiếm tỷ trọng 14,5%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 32,4% và chiếm tỷ trọng 10,9%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 56,6% và chiếm tỷ trọng gần 11%.
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 6 năm 2011 ước đạt 8,2 tỷ USD, giảm 5,3% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 3,65 tỷ USD.
6 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt gần 49 tỷ USD, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 21,4 tỷ USD, tăng 29,4%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 6 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 6116 nghìn tấn, tăng 16,5% về lượng và tăng 67,7% về kim ngạch; thép các loại 3518 nghìn tấn, giảm 15,5% về lượng và tăng 7% về kim ngạch; phân bón 1730 nghìn tấn, tăng 22% về lượng và tăng 48,1% về kim ngạch; giấy các loại 523 nghìn tấn, tăng 16,5% về lượng và tăng 28,4% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1214 nghìn tấn, tăng 10,7% về lượng và tăng 31,5% về kim ngạch; máy móc thiết bị 6,9 tỷ USD, tăng 10,9%; máy tính và linh kiện 2274 triệu USD, tăng 23,2%; vải các loại 3425 triệu USD, tăng 38%; nguyên phụ liệu dệt may 1503 triệu USD, tăng 20,7%...
Cũng như xuất khẩu, giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 44%, khí đốt hóa lỏng tăng 20,9%, chất dẻo nguyên liệu tăng 18,8%, sợi các loại tăng 37,1%, thép các loại tăng 26,6%, phân bón các loại tăng 21,3%, lúa mỳ tăng 40,7%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng gần 3,9 tỷ USD.
Tương tự như các năm trước, 6 tháng đầu năm 2011, nhập khẩu từ Châu Á vẫn chiếm hơn 61,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, trong đó riêng nhập siêu từ Đông Á (gồm các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc...) chiếm khoảng 53,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2011 là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 21,7%, tỷ trọng ước đạt 22,4%), ASEAN (tăng 36,1%, tỷ trọng ước đạt 21,1%), Hàn Quốc (tăng 41%, chiếm tỷ trọng 12,1%), Nhật Bản (tăng 10,8%, chiếm tỷ trọng 9,2%) và EU (tăng 17,4%, chiếm tỷ trọng 7,1%).
Ước nhập siêu 6 tháng đầu năm 2011 là gần 6,7 tỷ USD, chiếm 15,7% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) nhập siêu gần 1,8 tỷ USD. Nếu không tính kim ngạch xuất khẩu vàng vào tổng kim ngạch xuất khẩu, thì nhập siêu 6 tháng ước khoảng 7,5 tỷ USD, bằng 18% kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với khu vực Châu Á, trong đó nhập siêu từ Trung Quốc chiếm khoảng 82% tổng nhập siêu của cả nước.
2.3. Nhận xét:
- Nhập siêu 6 tháng đầu năm 2011 giảm đáng kể còn 15,7% so với mức 19% của 5 tháng đầu năm 2011.
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đều cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Hiện nay, tỷ lệ nhập siêu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) chiếm 26,9% nhập siêu của cả nước.
- Trong khi giá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông sản đều tăng và tăng mạnh thì giá gạo từ đầu năm đến nay vẫn giảm so với cùng kỳ năm trước. Giá gạo xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 giảm khoảng 2% so với cùng kỳ.
- 6 tháng đầu năm 2011, Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với các nước như Trung Quốc (ước đạt gần 6,5 tỷ USD), ASEAN (gần 4,2 tỷ USD), Hàn Quốc (3,8 tỷ USD), Đài Loan (3,7 tỷ USD), Thái Lan (hơn 2,2 tỷ USD).
Như vậy, kim ngạch xuất khẩu sẽ tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước và so với kế hoạch đề ra. Nhiều mặt hàng công nghiệp chủ yếu đã có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước và giá cả nhiều mặt hàng khoáng sản, nông sản tăng đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu không có việc xuất khẩu vàng trong 2 tháng 5 và 6 (với kim ngạch hơn 800 triệu USD), thì tỷ lệ nhập siêu ở mức 16% như Nghị quyết số 11/NQ-CP đề ra khó có thể đạt được.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 6/2011 ước đạt khoảng 153.596 tỷ đồng, tăng 0,76% so với tháng 5/2011. Tính cả 6 tháng đầu năm 2011, tổng mức bán lẻ cả nước ước đạt911.733 tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2010.
Tính cả 6 tháng đầu năm 2011, trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 50,58%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 34,67% và 10,91%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,75%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1,09%.
(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng Cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2011 tăng1,09% so với tháng 5/2011.
Trong tháng 6, chỉ có chỉ số giá nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Các nhóm hàng có tốc độ tăng giá cao gồm có: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,79% (trong đó thực phẩm tăng 2,47%); nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,77%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,76%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,72%; nhóm may mặc, đồ uống, thuốc lá tăng 0,62%; các nhóm hàng hóa còn lại có mức tăng dao động trong khoảng 0,25%- 0,86%.
Như vậy, tính cả 6 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã tăng khoảng 13,29% so với tháng 12/2010.
(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)
3.3. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Đầu tháng 6, giá dầu thô thế giới tương đối ổn định, tuy nhiên về cuối tháng giá dầu có xu hướng giảm khá mạnh, về mức khoảng 92 USD/thùng (dầu WTI trên thị trường New York). Nguyên nhân giá dầu giảm là do các quốc gia đứng đầu về tiêu thụ nhiên liệu như Mỹ và Trung Quốc cùng các các quốc gia châu Á mới nổi có tốc độ tăng trưởng chậm lại và tiết giảm sử dụng nhiên liệu để giải quyết vấn đề lạm phát.
Trong nước, giá bán lẻ xăng dầu vẫn giữ ở mức như sau thời điểm tăng giá ngày 29/3/2011.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 6 ước đạt 980 nghìn tấn, giảm 1% so với tháng 5, với trị giá khoảng 895 triệu; tính cả 6 tháng đầu năm 2011, ước đạt 6.116 nghìn tấn, trị giá khoảng 5.486 triệu USD.
b) Sắt thép
Trong tháng 6, do các biện pháp cắt giảm đầu tư công và đã bước vào mùa mưa nên nhu cầu về thép xây dựng đã giảm mạnh, khoảng 40% so với tháng trước. Lượng thép tồn kho vào đầu tháng 6 là khoảng 500.000 tấn thép xây dựng và 600.000 tấn phôi thép. Tuy nhiên do giá nhiên liệu đầu vào như điện, than tăng, các doanh nghiệp vẫn giữ giá bán thép ở mức cao để không bị lỗ. Hiện nay thép xây dựng dao động trung bình 19 triệu đồng/tấn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu thực hiện tháng 6/2011 ước đạt 550 nghìn tấn, giảm 6% so với tháng 5/2011 và đạt trị giá 485 triệu USD.
c) Phân bón
Thị trường phân bón quốc tế nửa đầu tháng 6 diễn ra sôi động, đặc biệt là về giá cả khi giá phân bón tiếp tục tăng theo xu hướng hồi tháng trước. Cụ thể, giá FOB ure hạt trong ngày 18/6: tại Yuzhny: 455-485 USD/tấn; tại Baltic: 440-460 USD/tấn; tại Brazil: 475-485 USD/tấn, giá FOB ure hạt đục ngày 18/6: tại Iran: 425-435 USD/tấn; tại Ai Cập: 500-505 USD/tấn. .
Trong nước, thị trường phân bón chưa có đột biến. Nhu cầu sử dụng phân bón ở miền Bắc giảm mạnh do vừa thu hoạch xong vụ Đông Xuân, trong khi các tỉnh miền Nam lượng tiêu thụ phân bón tăng khá, giá phân bón tăng so với tháng 5, đặc biệt là ure và có khả năng tiếp tục tăng trong tháng tới khi nguồn cung hạn chế.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 210 nghìn tấn với trị giá 85 triệu USD, giảm 13% so với tháng 5/2011. Tính chung 6 tháng đầu năm 2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 1.730 nghìn tấn với trị giá 659 triệu USD.
d) Xi măng
Bước sang tháng 6, cũng như các loại vật liệu xây dựng khác, thị trường xi măng vẫn tiếp tục trầm lắng. Cung xi măng năm 2011dự báo sẽ vượt cầu khoảng 2-4 triệu tấn, các doanh nghiệp đang tích cực tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tuy nhiên đây cũng chỉ là giải pháp tạm thời bởi hiệu quả của xuất khẩu xi măng không cao (do chi phí vận tải lớn) cũng sẽ gây ra tiêu hao tài nguyên của đất nước trong khi nhu cầu xi măng trong nước những năm tới dự báo sẽ còn tiếp tục tăng.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2011
1. Về phát triển ngành du lịch
- Nghiên cứu, phát triển các hình thức du lịch mới như MICE (du lịch kết hợp khen thưởng, hội nghị, khảo sát, team building…); du lịch mạo hiểm, du lịch nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái ...
- Chú trọng chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với đối tượng khách du lịch bằng đường biển về visa, thường gian lưu trú trên bờ, khoảng cách được phép đi sâu vào nội địa ...
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các đơn vị kinh doanh du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch trong và ngoài nước.
- Phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương liên quan lồng ghép các chương trình, các dự án đầu tư bảo vệ tôn tạo di tích văn hoá lịch sử, môi trường sinh thái, vui chơi giải trí kết hợp với du lịch,... trong các vùng, khu, điểm du lịch nhằm phát huy cao độ nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch thu hút khách du lịch nước ngoài.
- Xây dựng hình ảnh du lịch Việt Nam đối với du khách.
- Khuyến khích các nhà đầu tư các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư phát triển các khu du lịch nghỉ dưỡng tổng hợp để thu hút và đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
- Tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong việc chú trong phát triển chất lượng dịch vụ.
- Phát triển hệ thống khách sạn, nhà hàng, đặc biệt là hệ thống khách sạn tiêu chuẩn quốc tế 4 sao, 5 sao, tập trung chủ yếu ở các trung tâm du lịch, các khu du lịch quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
2. Một số giải pháp điều hành xuất nhập khẩu năm 2011
- Thực hiện có hiệu quả các quy hoạch phát triển ngành, đẩy nhanh tiến độ đầu tư của những dự án sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu để thay thế một số sản phẩm nông nghiệp hoặc khoáng sản có khả năng giảm hoặc không tăng sản lượng xuất khẩu (lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, than đá, dầu thô...) bằng những sản phẩm mới như cơ khí, dây điện và dây cáp, linh kiện điện tử, máy móc... và những mặt hàng đang nhập khẩu lớn như giấy, phân bón, thép tấm, nguyên phụ liệu dệt may, da giầy...
- Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ thông qua các chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, tập trung vào các ngành dệt may, da giày, điện tử, cơ khí.
- Phát triển các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí, điện tử...
- Rà soát cơ cấu đầu tư, xây dựng những chính sách nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu, hạn chế đầu tư vào khu vực phi sản xuất
- Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước, phục vụ tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP về 06 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội 6 tháng cuối năm 2011.
-Thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Rà soát các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu, đảm bảo phát hiện và giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc, sớm hoàn thành theo tiến độ để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
- Đẩy mạnh chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia, tăng cường tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Từ tháng 7/2011 nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ nghỉ bảo dưỡng trong hai tháng, do vậy Bộ Công Thương cần phối hợp với các đơn vị liên quan kiểm tra, lên kế hoạch nhập khẩu đảm bảo nguồn cung xăng dầu trong nước.
- Các cơ quan chức năng nghiên cứu đưa ra các biện pháp hiệu quả cho việc đưa xăng sinh học E5 vào sử dụng thử nghiệm một cách rộng rãi.
b) Sắt thép
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, cũng như khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh bố trí thời gian sản xuất phù hợp để tiết kiệm chi phí sử dụng điện, xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian nhằm hạ giá thành sản phẩm.
c) Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của bà con nông dân, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.
d) Xi măng
- Các doanh nghiệp cần chú trọng công tác đầu tư công nghệ hiện đại vừa nâng cao năng suất và tiết kiệm nhiên liệu sản xuất./.
File đính kèm: Bao cao KTDVT6.11.pdf
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư