Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/09/2010-14:35:00 PM
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện của các ngành thương mại - dịch vụ tháng 9 và 9 tháng năm 2010
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Tháng 9/2010, theo các báo cáo chính thức về tình hình phát triển kinh tế của các nền kinh tế lớn trên thế giới nửa đầu năm 2010, kinh tế thế giới vẫn đang trong quá trình phục hồi với sự không đồng đều giữa các quốc gia. Trước khả năng Cục dự trữ Liên bang Mỹ sẽ áp dụng chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm đảm bảo vững chắc hơn khả năng phục hồi kinh tế của Mỹ giá vàng trên thị trường thế giới đã đạt mức tăng cao kỷ lục, lên mức sát 1.300 USD/ounce. Việc USD giảm, giá vàng tăng cho thấy các nhà đầu tư vẫn đang lo ngại về sự phục hồi vững chắc của các nền kinh tế. Dự báo giá vàng sẽ tiếp tục đứng ở mức cao trong thời gian tới.
Tại châu Âu, quá trình tăng trưởng đang chững lại do tác động từ các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của chính phủ nhiều nước. Ủy ban châu Âu dự báo tăng trưởng kinh tế châu Âu sẽ chững lại trong nửa sau năm 2010.
Tại châu Á, Trung Quốc tiếp tục vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn chỉ được đánh giá là nước “đang phát triển” với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 3.800 USD, chỉ bằng một phần nhỏ so với Mỹ, Nhật Bản.
Như vậy, có thể thấy, kinh tế thế giới đang trên đà phục hồi và phát triển, nhưng chưa vững chắc, sự phục hồi này dự báo sẽ còn gặp nhiều khó khăn khi các nền kinh tế lớn vẫn đang tăng trưởng ở mức thấp và phải đối mặt với nhiều nguy cơ trên thị trường tài chính.
2. Tình hình trong nước
Kinh tế nước ta 9 tháng đầu năm vẫn cơ bản duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định. Hoạt động sản xuất tăng khá, hoạt động thương mại, dịch vụ diễn ra tương đối sôi động với các tuần lễ khuyến mại, giảm giá… trên phạm vi cả nước, các hoạt động xúc tiến du lịch chuẩn bị cho Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội đang gấp rút triển khai, hoàn tất…. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn: giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng cao, dịch bệnh tai xanh ở lợn tiếp tục lan rộng, dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi…. Đây là những nguy cơ gây bất ổn trong quan hệ cung – cầu – giá cả trên thị trường, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước cần tích cực hơn trong công tác dự báo, điều hành thị trường… nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và đạt được chỉ tiêu tăng trưởng trên 6,5% và kiềm chế lạm phát dưới 8% do Chính phủ đề ra.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 9 VÀ 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2010
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Trong tháng 9 tình hình hoạt động du lịch tiếp tục diễn sôi nổi trên khắp cả nước do chúng ta có kỳ nghỉ lễ dài ngày nhân dịp Quốc khánh 2/9 và đang hướng tới Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Để chào mừng sự kiện này một loạt các hoạt động văn hoá, nghệ thuật được tổ chức công phu và mang đậm dấu ấn dân tộc được tổ chức long trọng trên các địa phương cả nước, đặc biệt là ở những thành phố lớn. Do đó lượng khách du lịch đổ về các trung tâm thành phố tăng lên đáng kể trong đó chủ yếu là khách du lịch nội địa.
Ngoài ra, các địa phương còn nhiều hoạt động thiết thực khác để thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển như: Tại Yên Bái diễn ra tuần Văn hoá, Thể thao và Du lịch danh thắng quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải 2010 diễn ra từ ngày 26 – 30/9/2010; ngày 18/9/2010 tại Bình Thuận đã tổ chức Lễ Khai trương Trung tâm trưng bày văn hoá dân tộc Chăm với các bộ sưu tập di sản Hoàng tộc Chăm, các hình ảnh cổ vật, nông cụ, ngư cụ, các sản phẩm gốm, dệt Chăm…tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội tối 19/9 đã khai trương Làng Văn hoá – Du lịch các dân tộc Việt Nam với nhiều không gian văn hoá khác nhau; cũng tại Hà Nội lễ hội Làng nghề, Phố nghề Thăng Long đã diễn ra tại công viên Bách Thảo, đây là sự kiện văn hoá, kinh tế, du lịch qui mô lớn mang tầm quốc gia chào mừng 1.000 nămThăng Long Hà Nội...
Bên cạnh đó còn nhiều sự kiện mang tính quốc tế như: Hội chợ triển lãm Quốc tế Du lịch lần thứ 6 diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh; tại thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh đã diễn ra Diễn đàn du lịch Liên khu vực Đông Á và Hội nghị Tỉnh trưởng diễn đàn du lịch vùng Đông Á…
Để tiếp tục thu hút khách quốc tế đến Việt Nam chúng ta cũng tăng cường công tác xúc tiến quảng bá và khuyến mãi như Việt Nam Airline giảm gía 85% áp dụng trên tất cả các đường bay quốc tế mà hãng này đang khai thác haychương trình phát động du lịch miền Trung đến khách hàng toàn cầu, hội nghị có sự tham gia của 300 đại biểu là các công ty, đại lý du lịch hàng đầu đến từ các thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Pháp, Na, Úc…Ngoàira, để tích cực quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới chúng ta cũng tham dự một số hoạt động tại nước ngoài như: lễ hội Việt Nam 2010 trên đất nước Hoa Anh đào tại công viên Yoyogi, Tokyo, Nhật Bản; hội chợ du lịch tại thủ đô Paris, Pháp…
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 9 ước đạt gần 450 lượt khách, tăng 5,1% so với tháng trước. Tổng số khách du lịch quốc tế trong 9 tháng ước đạt trên 3,7 triệu lượt khách, tăng 26 % so cùng kỳ năm ngoái. Khách du lịch quốc đến Việt Nam trong tháng 10 chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Pháp…
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 10 chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tiếp đến là đường bộ và đường biển.
Xét theo mục đích chuyến đi, số lượng khách du lịch chủ yếu đi theo mục đích nghỉ ngơi, du lịch, tiếp đến là khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân và cuối cùng là khách đi theo mục đích công việc.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 9 năm 2010 đạt 6,1 tỷ USD, giảm 11% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 2,8 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 51,5 tỷ USD, tăng 23,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 40,1%. Nếu không tính kim ngạch xuất khẩu vàng, tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm nay tăng 27% so với cùng kỳ.
Xét về giá trị tuyệt đối, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) 9 tháng đầu năm 2010 ước tăng 6,77 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2009; trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ước tăng 9,7 tỷ USD. Như vậy, có thể nói trong 9 tháng đầu năm 2010 tăng trưởng xuất khẩu của cả nước phần lớn là do sự tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI.
Xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 6,1 triệu tấn, giảm 44,3% về lượng và giảm 23,2% về kim ngạch; than đá 14,7 triệu tấn, giảm 17% về lượng và tăng 26,3% về kim ngạch; dệt may 8,04 tỷ USD, tăng 20,7%; da giày 3,62 tỷ USD, tăng 23,1%; sản phẩm gỗ 2,41 tỷ USD, tăng 36,4%; linh kiện điện tử 2,49 tỷ USD, tăng 28,2%; thuỷ sản 3,43 tỷ USD, tăng 13%; gạo 5,6 triệu tấn, tăng 12,3% về lượng và 15,2% về kim ngạch; cà phê 910 ngàn tấn, tăng 1% về lượng và giảm 1,6% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 1,3 triệu tấn giảm54,1% về lượng và 19% về kim ngạch ... Đến hết tháng 9/2010, ước tính đã có 13 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD gồm dệt may, dầu thô, giày dép, thủy sản, gạo, gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, máy vi tính và linh kiện, đá quý kim loại quý và sản phẩm, cà phê, sắt thép và sản phẩm, than đá, cao su. Như vậy, so với cùng kỳ, số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã tăng lên 3 mặt hàng là sắt thép và sản phẩm, than đá, cao su.
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào sự tăng trưởng xuất khẩu của 9 tháng đầu năm: giá hạt điều tăng 19%, chè các loại tăng 12,3%, hạt tiêu tăng 38,4%, gạo tăng 2,6%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 76,4%, than đá tăng 52%, dầu thô tăng 39,6%, cao su tăng 83%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 2,5 tỷ USD.
Trong 9 tháng đầu năm, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu ở các thị trường Châu Á với tỷ trọng khoảng 48%, tăng trưởng 28% so với cùng kỳ, trong đó riêng khu vực ASEAN là 16,5%, tăng 15%. Xuất khẩu sang Châu Mỹ chiếm tỷ trọng khoảng 23%, tăng 24% so với cùng kỳ, trong khi xuất khẩu sang Châu Âu chiếm tỷ trọng ước đạt 22%, giảm 4,4%, trong đó xuất khẩu vào EU chiếm tỷ trọng 15% và tăng 7%.
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 9 năm 2010 ước đạt 7,15 tỷ USD, giảm nhẹ so với tháng trước. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 3,18 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt hơn 60 tỷ USD, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 25,7 tỷ USD, tăng 42,4% và chiếm 42,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009 như sau: xăng dầu 7,84 triệu tấn, giảm 21,2% về lượng và tăng 4% về kim ngạch; thép các loại 6,09 triệu tấn, giảm 14,5% về lượng và tăng 11,2% về kim ngạch; phân bón 2,17 triệu tấn, giảm 36,1% về lượng và giảm 34,6% về kim ngạch; giấy các loại 685 nghìn tấn, giảm 9,2% về lượng và tăng 16,8% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1,77 triệu tấn, tăng 8,6% về lượng và tăng tới 36% về kim ngạch, máy móc thiết bị 9,69 tỷ USD, tăng 11,6%, máy tính và linh kiện 3,5 tỷ USD, tăng 30,6%, vải 3,84 tỷ USD, tăng 26,%, nguyên phụ liệu dệt may 1,9 tỷ USD, tăng 38,3%...
Cũng như xuất khẩu, mặc dù lượng nhập khẩu giảm nhưng giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng và là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 31,9%, khí đốt hóa lỏng tăng 35,4%, chất dẻo nguyên liệu tăng 25,3%, sợi các loại tăng 25,4%, phôi thép tăng 28,3%, kim loại thường tăng 40,2%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng hơn 4,2 tỷ USD.
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu từ một số đối tác quan trọng trong 9 tháng đầu năm là: Trung Quốc 23,5%, ASEAN 20%, Hàn Quốc 10,8%, Đài Loan 8,5%, EU 7,5%, Mỹ 4,5%.
2.3. Nhập siêu
Ước nhập siêu tháng 9 là 1050 triệu USD, chiếm 17,2% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu 9 tháng đầu năm ước tính đạt 8,58 tỷ USD, bằng 16,66% kim ngạch xuất khẩu. Nếu không tính sự tăng trưởng đột biến trong kim ngạch xuất khẩu vàng, nhập siêu 9 tháng đầu năm là 11,36 tỷ USD, chiếm 23,3%.
Nhập siêu từ Trung Quốc vẫn tăng mạnh, hiện nay nhập siêu từ thị trường này bằng gần 80% tổng nhập siêu của cả nước. Trong 9 tháng đầu năm 2010, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc có tốc độ tăng (khoảng 45%) cao hơn nhiều so với tốc độ tăng nhập khẩu từ thị trường này (khoảng 31%) nhưng xét về số tuyệt đối thì nhập khẩu tăng cao hơn xuất khẩu rất nhiều.
Xét về châu lục, Việt Nam vẫn chỉ nhập siêu với Châu Á và xuất siêu với tất cả các châu còn lại. Cụ thể, nhập siêu với Châu Á hiện nay là khoảng 22,5 tỷ USD, gấp hơn 2 lần nhập siêu của cả nước. Trong khi đó, xuất siêu với Châu Âu ước đạt 4,5 tỷ USD, với Châu Mỹ là 6,6 tỷ USD, Châu Đại Dương là gần 1,15 tỷ USD.
3. Thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 9/2010 ước đạt khoảng 134.879 tỷ đồng, tăng 1,35% so với tháng 8/2010. Như vậy sau 9 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hoá cả nước ước đạt 1.146.161 tỷ đồng, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước.
Tính cả 9 tháng đầu năm 2010, trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 51,2%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 34,4% và 10,3%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1%.
(Số liệu của Tổng cục Thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Tháng 9, giá cả trên thị trường trong nước có xu hướng tăng cao, dự báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng 8/2010, đưa CPI 9 tháng đầu năm 2010 tăng 6,46% so với tháng 12/2009.
Việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tỷ giá Việt Nam đồng/đô la Mỹ và việc tăng giá khá mạnh của nhiều loại hàng hóa, dịch vụ như gạo, thực phẩm, học phí... là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới chỉ số giá tăng mạnh.
3.3. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Tháng 9, giá dầu thô trên thị trường thế giới giảm nhẹ, ở mức quanh 74 USD/thùng. Giá dầu Brent giao tháng 10 tại London (Anh) là 74,24 USD/thùng, tháng 11 là 79,32 USD/thùng. Thời gian tới, dự báo lượng cung trên thị trường dầu thô thế giới sẽ khá ổn định do mùa bão đã qua thời kỳ đỉnh điểm, hoạt động của các giếng dầu ngoài khơi sẽ ít còn chịu tác động mạnh của mưa bão.
Trong nước, trước diễn biến của thị trường thế giới, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) và một số doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối đã điều chỉnh tăng giá xăng dầu bán lẻ từ 190 đồng/lít đến 410 đồng/lít tùy theo từng chủng loại. Giá xăng dầu tăng kéo theo sự tăng giá ở các nhóm giao thông, nhà ở, điện, nước, vật liệu xây dựng (bao gồm chất đốt bị ảnh hưởng bởi tăng giá dầu hỏa) và nhiều mặt hàng khác do cước vẫn chuyển tăng, gây áp lực tăng chỉ số giá tháng 9.
Tháng 9/2010, lượng xăng dầu nhập khẩu ước đạt 750 triệu tấn, với trị giá khoảng 537 triệu USD; tính cả 9 tháng đầu năm 2010, ước đạt 7.841 triệu tấn, trị giá khoảng 4.868 triệu USD, đạt 67,6% kế hoạch năm 2010.
b) Sắt thép
Trong tháng 9, giá phôi thép trên thị trường thế giới có xu hướng giảm, xuống mức 580 - 600 USD/tấn.
Do tác động của giá thế giới giảm, giá thép trên thị trường trong nước đã giảm từ 200 - 400 nghìn đồng/tấn tùy chủng loại. Hiện giá thép giao tại nhà máy trung bình ở mức 15,2 - 15,5 triệu đồng/tấn.
Theo Tổng cục Hải quan, sản lượng thép các loại nhập khẩu tháng 9 ước đạt 700 nghìn tấn, tăng 7,2% so với tháng 8/2010.
Tuy nhiên, do nhu cầu tăng cao vào các tháng cuối năm và dự báo giá phôi thép thế giới sẽ tăng trở lại, dự báo giá thép trong thời gian tới sẽ tăng.
c) Xi măng
Giá xi măng trong tháng 9/2010 nhìn chung ổn định, do nguồn cung dồi dào. Hiện giá bán lẻ xi măng trên thị trường phổ biến ở mức 930.000 - 1.100.000 đ/tấn tại miền Bắc và 1.100.000 - 1.340.000 đ/tấn tại miền Nam.
Trong tháng 9/2010, sản xuất xi măng ước đạt 4,29 triệu tấn, tăng 0,29 triệu tấn so với tháng 8/2010, đưa lượng xi măng sản xuất 9 tháng đầu năm lên 37,2 triệu tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2009.
Do nhu cầu xi măng từ nay đến cuối năm ổn định nên dự báo trong tháng 10, giá bán xi măng ổn định, lượng cung xi măng dồi dào, giá cả có thể tăng nhẹ do nhu cầu tăng.
d) Phân bón
Tháng 9/2010, do giáurê thế giới tăng lên 364 USD/tấn (tăng 64 USD), DAP 485 USD/tấn (tăng 25 USD), kali 330 USD/tấn (tăng 30 USD) và do việc điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước nên giá các loại phân bón tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long tăng khá cao. Phân urê từ 6.500 đồng lên 7.200 đồng/kg, phân DAP từ 9.500 đồng lên 11.600 đồng/kg, kali từ 8.000 đồng lên 9.500 đồng/kg, NPK (16-16-8) từ 7.400 đồng lên hơn 8.000 đồng/kg...
Trong thời gian tới, do nhu cầu mùa vụ của các nước tăng nên dự báo giá phân bón sẽ tăng nhẹ.
Tháng 9, lượng phân bón các loại nhập khẩu ước đạt 230 nghìn tấn với trị giá 110 triệu USD (trong đó phân ure là 55 nghìn tấn và trị giá 15 triệu USD), giảm khoảng 20% so với tháng 8/2010, bằng 60,3% so với kế hoạch năm 2010.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2010
1. Về phát triển ngành du lịch
- Tăng cường quảng bá xúc tiến du lịch thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: CNN, BBC, Discovery... với khẩu hiệu “Việt Nam là một điểm đến an toàn thân thiện đối với bạn bè quốc tế.
- Hiện tại, Thái Lan đang rơi vào khủng hoảng chính trị, đây là cơ hội lớn cho Việt Nam để đón khách du lịch quốc tế đến khu vực Đông Nam Á. Như vậy, để thu hút được khách du lịch trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện nhiều chương trình khuyến mại giảm giá đối với các Tour du lịch, vấn đề này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan như: vận tải hàng không, hàng hải, khách sạn nhà hàng...
- Xu hướng khách du lịch bằng đường biển đến Việt Nam ngày càng tăng, khách du lịch bằng đường biển thường là khách có mức chi tiêu cao, do đó cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt đối với các đối tượng khách du lịch này về visa, thời gian lưu trú trên bờ, khoảng cách được phép đi sâu vào nội địa....
- Cải cách các chính sách về xuất nhập cảnh, thủ tục xe ô tô du lịch qua biên giới cần thông thoáng hơn nữa để thúc đẩy phát triển mạnh khách du lịch thông qua con đường này.
2. Về xuất nhập khẩu
- Với các quốc gia Việt Nam có thâm hụt lớn trong quan hệ thương mại như Trung Quốc, Đài Loan và một số quốc gia ở châu Á khác, cần có giải pháp riêng để hạn chế nhập khẩu tùy thuộc vào đặc trưng trong thương mại buôn bán giữa Việt Nam và quốc gia đó.
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Hợp tác với các nước khác có cùng mặt hàng xuất khẩu (gạo với Thái Lan, cà phê với Indonexia, Braxin, đồ gỗ với Malaysia...) để tăng cường hiệu quả xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản có thế mạnh của Việt Nam.
- Chất lượng còn yếu kém của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu như vận tải, bảo hiểm, logistic ở Việt Nam hiện nay đang gây hạn chế cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đây là vấn đề cần được tập trung cải thiện trong thời gian trước mắt.
- Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường trên cơ sở mối quan hệ với lãi suất giữa tiền Việt Nam và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cần thiết cho các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Bên cạnh những giải pháp ngắn và trung hạn nêu trên, những giải pháp dài hạn hơn như phát triển nguồn nhân lực (có chính sách phát triển nguồn nhân lực trong những ngành cụ thể, có thế mạnh), phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ... cần được tập trung triển khai ngay trên thực tế.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
Những tháng tiếp theo, có nhiều dịp lễ như: Đại lễ 1000 năm Thăng Long, Ngày nhà giáo Việt Nam, Tết Dương lịch, Noel, Tết Nguyên đán...., đây là cơ hội để thúc đẩy tiêu dùng trong nước khi nhu cầu mua sắm của người dân sẽ tăng nhanh. Chính vì vậy mà công tác điều hành thị trường cần phải được tăng cường hơn nữa nhằm đảm bảo cung - cầu hàng hóa với giá cả ổn định, không để lạm phát tăng cao. Cụ thể:
- Sở Công Thương các tỉnh, thành phố cần đôn đốc các doanh nghiệp trên địa bàn chuẩn bị đủ lượng hàng hóa phục vụ cho các dịp lễ, đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân. Đối với các tỉnh, thành phố có chương trình bình ổn thị trường cần nhanh chóng triển khai thêm nhiều điểm bán, đồng thời giám sát hoạt động của các doanh nghiệp tham gia. Việc triển khai tốt chương trình bình ổn sẽ đảm bảo cho các tỉnh, thành phố chủ động trong việc cung ứng hàng hóa, hạn chế tình trạng khan hàng sốt giá cũng như kiềm chế tốc độ tăng giá trên thị trường.
- Bộ Công Thương tăng cường công tác quản lý, kiểm tra thị trường, giám sát việc thực hiện các quy định về lưu thông hàng hóa để ngăn chặn kịp thời và hiệu quả đối với các hiện tượng đầu cơ nâng giá và gian lận thương mại. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm vác quy định về quản lý giá.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, chỉ đạo các tập đoàn, doanh nghiệp lớn thuộc Nhà nước phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, dược phẩm, các đồ dùng thiết yếu, xi măng, phân bón…
- Những tháng cuối năm, chỉ số giá tiêu dùng thường có xu hướng tăng cao do nhu cầu mua sắm của người dân gia tăng. Do đó, Bộ Tài chính cần có các chính sách quản lý giá một số mặt hàng đầu vào sản xuất công nghiệp như: xăng dầu, điện, than… một cách hợp lý; giữ ổn định giá bán cho các hộ sản xuất, tiêu dùng và giá bán than cho điện năm 2010, nhằm tránh tình trạng giá hàng hóa tăng cao do chi phí sản xuất tăng.
- Cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá về chương trình khuyến khích tiêu dùng nội địa “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
3.2. Giải pháp cụ thể với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Tài chính cần sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ thuế để bình ổn giá xăng dầu, không để giá xăng tăng liên tục gây tác động tiêu cực đến tâm lý người tiêu dùng, đảm bảo việc điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu của các doanh nghiệp trong nước một cách hợp lý theo quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ hệ thống phân phối xăng dầu tại các khu vực nhẳm đảm bảo bình ổn thị trường trên hai khía cạnh quan hệ cung - cầu và giá cả.
- Điều hành hiệu quả hoạt động của nhà máy lọc dầu Dung Quất nhằm đạt được mục tiêu sản xuất đã đề ra, góp phần đảm bảo nguồn cung xăng dầu.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống buôn lậu xăng dầu qua biên giới.
b) Sắt thép
- Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch ngành thép, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, hạn chế cấp phép cho các dự án đầu tư sản xuất thép xây dựng mới, tuy nhiên cần khuyến khích các dự án sản xuất các mặt hàng thép trong nước chưa sản xuất được, nhằm hạn chế nhập khẩu thép.
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước, cũng như khuyến khích các công ty ngoài quốc doanh xây dựng hệ thống phân phối hiệu quả, giảm các tầng nấc trung gian, nhằm hạ giá thành sản phẩm.
c) Xi măng
- Các doanh nghiệp xi măng chủ động tìm kiếm thị trường xuất khẩu xi măng.
- Bộ Xây dựng cần rà soát và lập lại quy hoạch ngành xi măng cần được gấp rút tiến hành, tránh tình trạng phá vỡ quy hoạch, tác động xấu tới môi trường và cảnh quan thiên nhiên.
- Bộ Xây dựng tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất cần nâng cao chất lượng xi măng, hạ giá thành sản phẩm, kết hợp xử lý môi trường.
d) Phân bón
- Tăng cường công tác hải quan, kiểm tra thị trường nhằm phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp nhập khẩu, buôn bán phân bón giả gây thiệt hại cho người nông dân.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt./.


File đính kèm:
Bao cao thang 9 Vu KTDV.pdf

Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1508
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)