Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 18 tháng 9 năm 2011
I. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 9 NĂM 2011
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
9 tháng đầu năm 2011 mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng khu vực dịch vụ Việt Nam tiếp tục có bước phát triển. Toàn ngành dịch vụ tập trung đẩy mạnh kinh doanh, đảm bảo cân đối cung cầu hàng hóa dịch vụ cũng như nhu cầu đi lại của người dân; các doanh nghiệp kinh doanh thương mại đã chủ động các phương án chuẩn bị tốt nguồn hàng, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân; các hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi, lượng khách du lịch quốc tế tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, do tác động của việc tăng giá một số ngành hàng đầu vào và nhu cầu tiêu dùng tăng đột biến, giá cả của một số dịch vụ như vận tải, du lịch, khách sạn nhà hàng đã tăng đáng kể, đặc biệt là trong các dịp nghỉ lễ dài ngày.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ 9 tháng đầu năm 2011 đạt 6,3% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó một số lĩnh vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá như dịch vụ thương mại bán buôn, bán lẻ, dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ du lịch. Cơ cấu khu vực dịch vụ 9 tháng đầu năm 2011 đạt 39,2%.
Xuất khẩu dịch vụ 9 tháng đầu năm 2011 ước đạt khoảng 6,1 tỷ USD, tăng trên 9% so với cùng kỳ năm 2010[1], trong đó một số dịch vụ có giá trị xuất khẩu lớn như du lịch, viễn thông, vận tải, ngân hàng,...
Trong 9 tháng đầu năm 2011 nhiều sự kiện văn hoá lễ hội đã diễn ra trên khắp các địa phương trong cả nước. Đầu tiên là lễ đón bằng của UNESCO công nhận Hội Gióng ở đền Phù Đổng là di sản văn hóa phi vật thể được tổ chức tại Gia Lâm, Hà Nội; tiếp đến là một loạt các hoạt động khác như: lễ hội đua bè tre trên hồ Ea Tam, hội chùa Hương, hội đền Trần, lễ hội Yên Tử, Cửa Ông, lễ hội pháo Hoa tại Đà Nẵng,…
Với sự kiện du lịch Việt Nam lọt vào top 13 tour du lịch châu Á tốt nhất trong năm 2011 và 50 tour du lịch tốt nhất thế giới nên đi trong đời (lựa chọn của tạp chí du lịch danh tiếng của Hiệp hội Địa lý quốc gia Mỹ -National Geographic). Nhiều khách du lịch quốc tế, đặc biệt là các tầu du lịch nước ngoài đã chọn Việt Nam là điểm đến như: tàu du lịch quốc tế Ocean Princess, Amazara Quest, Seabourn Prise,EUROPA, Costa Classica,....
Khách quốc tế đến nước ta 9 tháng năm 2011 ước tính đạt 4352,4 nghìn lượt người, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 2540,8 nghìn lượt người, tăng 12,1%; đến vì công việc 742,6 nghìn lượt người, giảm 2%; thăm thân nhân đạt 721,7 nghìn lượt người, tăng 69,9%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường hàng không là 3642,6 nghìn
lượt người, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2010; đến bằng đường biển 31,3 nghìn lượt người, giảm 16,6%; đến bằng đường bộ 678,5 nghìn lượt người, giảm 3,6%.
Thực hiện 9 tháng đầu năm: Khối lượng vận chuyển hành khách toàn ngành ước đạt 1964,5 triệu lượt khách, tăng 10,24% và 84,5 tỷ lượt khách.km, tăng 7,76% so với cùng kỳ năm 2010. Khối lượng vận chuyển hàng hoá ước đạt 566,2 triệu tấn, tăng 8,07% và 156,1 tỷ tấn.km, tăng 0,07% so với cùng kỳ năm trước.
- Dịch vụ vận tải hàng không
Thực hiện 9 tháng đầu năm: Ước khối lượng vận chuyển hành khách đạt 12 triệu lượt khách, tăng 10,83% và 18 tỷ lượt khách.km, tăng 12,3%. Vận chuyển hàng hóa ước đạt 150 nghìn tấn, tăng 14,5% và 320 triệu tấn.Km, tăng 5,86% so với cùng kỳ năm 2010.
- Dịch vụ vận tải hàng hải
Thực hiện 9 tháng đầu năm: Khối lượng vận chuyển hàng hoá ước đạt 45 triệu tấn, tăng 12,65% và 124,5 tỷ tấn.km, tăng 5,9% so với năm 2010.
- Dịch vụ vận tải đường sắt
Thực hiện 9 tháng đầu năm: Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 10 triệu lượt khách, tăng 11,9% và 3,62 tỷ lượt khách.km, tăng 8,95% so với cùng kỳ năm ngoái. Khối lượng vận chuyển hàng hoá đạt 6 triệu tấn, tăng 3,7% và 3,22 tỷ tấn.km, tăng 11,45% so với năm 2010.
Mặc dù trong Quý III/2011, chỉ số CPI có phần tăng chậm hơn so với các tháng đầu năm), Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các NHTM giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay, khu vực tài chính, tín dụng trong 9 tháng đầu năm dự abso đạt mức tăng trưởng khoảng 6,7% so với 9 tháng đầu năm 2010, đạt giá trị trên 22 nghìn tỷ đồng, (chiếm khoảng 1,4% trong GDP). Như vậy, với chủ trương của Chính phủ tiếp tục áp dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, khống chế trần lãi suất vào các tháng cuối năm, hoạt động của khu vực tài chính, tín dụng còn có thể gặp rất nhiều khó khăn, dự kiến mức tăng trưởng của khu vực này cả năm đạt từ 7-7,5% so với năm 2010 (năm 2010 tăng 8,35% so với 2009).
Dịch vụ ngân hàng
Trong 9 tháng đầu năm, hoạt động ngân hàng đã và đang tích cực thực hiện chính sách điều hành tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống. Những kết quả đạt được:
- Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước nhưng phù hợp với mục tiêu kiểm soát kiềm chế lạm phát:(1)Tổng phương tiện thanh toán tăngkhoảng 9,2% so với cuối năm 2010, thấp hơn mức tăng 19,9% và 16,4% của cùng kỳ năm 2009 và 2010; (2) Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 8,9% so với cuối năm 2010, thấp hơn mức tăng 16,9% của cùng kỳ năm 2010 nhưng bằng khoảng 50% tốc độ tăng tín dụng dự kiến cả năm 2011 (khoảng 15-18%)
- Cơ cấu tín dụng: tín dụng đối với lĩnh vực sản xuất tăng 14,8%, trong đó tín dụng nông nghiệp, nông thôn tăng 30,5%; tín dụng xuất khẩu tăng 35,%; tín dụng phi sản xuất giảm khoảng -17%, trong đó, dư nợ cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán giảm -43%, dư nợ cho vay để đầu tư kinh doanh bất động sản giảm hơn -10,%, dư nợ cho vay tiêu dùng giảm khoảng -23,2%.
- Lãi suất:lãi suất tăng cao trong các tháng đầu năm nhưng từ tháng 5, sức ép tăng lãi suất giảm, đến cuối tháng 8/2011, một số TCTD hạ lãi suất đối với một số khoản cho vay sản xuất kinh doanh thông thường trong biên độ 17-19%/năm, lãi suất huy động cũng tăng cao, đa số các NHTM đều huy động tiền gửi với mức lãi suất từ 17-18%/năm, cá biệt, có ngân hàng huy động tiền gửi với lãi suất 19%/năm, tuy nhiên từ ngày 8/9/2011, NHNN đã có chỉ đạo các NHTM đưa lãi suất huy động về mức trần 14%/năm và NHNN cũng kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện của các NHTM, có biện pháp sử lý đối với các trường hợp vi phạm.
- Thị trường ngoại hối có nhiều diễn biến tích cực: Thị trường ngoại hối và tỷ giá biến động mạnh trong hơn 3 tháng đầu năm nhưng đã ổn định trở lại, những ngày đầu tháng 8 biến động tăng nhưng chủ yếu do tác động của giá vàng thế giới. Sau khi NHNN điều chỉnhtăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng, giảm biên độ giao dịch cùng với các biện pháp quản lý thị trường tự do, thị trường ngoại hối phản ứng tích cực, tỷ giá được kiểm soát trong biên độ cho phép. Chênh lệch tỷ giá thị trường chính thức và thị trường tự do thu hẹp, thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng cải thiện, các NHTM cân đối được nguồn cung ngoại tệ từ tổ chức kinh tế và dân cư, thực hiện bán ngoại tệ cho NHNN tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Từ đầu tháng 8 do giá vàng thế giới tăng đột biến đẩy hoạt động mua bán, đầu cơ vàng trong nước lên cao, ảnh hưởng đến ổn định tỷ giá. Tuy nhiên nhờ những biện pháp can thiệp kịp thời và kiên quyết của NHNN, đến nay tỷ giá đã ổn định trở lại.
- Hoạt động của hệ thống các TCTD an toàn, đảm bảo thanh khoản; nợ xấu tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát (đến cuối tháng 7 nợ xấu là 3,04%/tổng dư nợ cho vay so với mức 2,16% cuối năm 2010).
- Thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển: đến nay, phương thức thanh toán không dùng tiền mặt chiếm 86% và thanh toán bằng điện tử chiếm trên 74% tổng doanh số thanh toán qua ngân hàng. Thẻ ngân hàng tiếp tục tăng trưởng với số lượng phát hành đạt trên 34 triệu thẻ cùng 51 tổ chức phát hành và hơn 240 thương hiệu thẻ. Toàn hệ thống có gần 12.000 ATM và gần 58.000 thiết bị chấp nhận thẻ (POS).
Dịch vụ bảo hiểm
Tình hình họat động của ngành bảo hiểm 9 tháng đầu năm:mặc dù tình hình kinh tế tài chính trong nước có nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp tham gia bảo hiểm còn tình trạng nợ phí nhưng thị trường bảo hiểm vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Với 54 doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường thì tổng doanh thu phí bảo hiểm 9 tháng đầu năm 2011 ước đạt 25.500 tỷ đồng (tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2010); tổng số tiền đầu tư 9 tháng năm 2011 ước đạt 120.000 tỷ đồng; tổng số tiền bồi thường và trả tiền bảo hiểm ước đạt 8.500 tỷ đồng; Tổng phí bảo hiểm thu xếp qua môi giới ước đạt 2.700 tỷ đồng, tăng hơn 80% so với cùng kỳ năm 2010....
Dịch vụ chứng khoán
Trong năm 2011, các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát theo tinh thần Nghị quyết số 11 đã thu được những kết quả bước đầu như lạm phát đã giảm tốc, nhập siêu cũng tăng chậm lại và mặt bằng lãi suất đã có tín hiệu giảm xuống. Tuy nhiên, khó khăn vẫn chồng chất, bất ổn vĩ mô và so sánh cơ hội đầu tư rất bất lợi cho chứng khoán đang khiến cho nguồn tiền vào thị trường bị suy kiệt các chỉ số liên tục lao dốc trong các tháng đầu năm, giao dịch chứng khoán ảm đạm, VN-Index giảm 10,8%, HNX-Index giảm 34,9%.
Giá trị giao dịch bình quân cổ phiếu, chứng chỉ quỹ mỗi phiên là 1.164,6 tỷ đồng, bằng 47% so với mức bình quân năm 2010. Mức vốn hóa cuối tháng 9 đạt 686 nghìn tỷ đồng, giảm 40 nghìn tỷ, tương đương trên 5,5% so với cuối năm 2010. Mức vốn hóa so với GDP giảm xuống 36% từ mức 39% cuối năm 2010.
Huy động vốn qua thị trường chứng khoán cũng gặp khó khăn do thị trường giảm sút và mặt bằng lãi suất cao.
Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng sụt giảm. Cho đến cuối tháng 9, có khoảng 46% các công ty niêm yết có giá trị thấp hơn mệnh giá và 74% các công ty niêm yết có giá thấp hơn thị trường thấp hơn giá trị số sách; 45% các công ty niêm yết có hệ số P/E thấp hơn 5Ngoài ra, do giá chứng khoán và khối lượng giao dịch sụt giảm mạnh nên nhiều công ty chứng khoán thua lỗ; hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới cũng không hiệu quả do thu không đủ bù chi; hoạt động tư vấn đầu tư, phát hành, niêm yết, bảo lãnh cũng bị thu hẹp
Doanh thu sụt giảm cùng với chi phí hoạt động tự doanh tăng cao là nguyên nhân chính dẫn đến việc thua lỗ của nhiều công ty chứng khoán. Kết thúc 6 tháng, chỉ có 6 doanh nghiệp chứng khóan báo cáo lãi, 61/105 doanh nghiệp báo cão lỗ.
Theo UBCKNN, đến tháng 9/2011 toàn thị trường có 1.667 công ty đại chúng, trong đó có 673 công ty đã niêm yết tại 2 sàn HOSE, HXN và 127 công ty đang ký giao dịch trên UPCOM
2. Về xuất, nhập khẩu
1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 9 năm 2011 đạt 8,3 tỷ USD, giảm 10,%so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 4,05 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 70 tỷ USD, tăng 35,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt gần 32,5 tỷ USD, tăng 35,2% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt 6266 nghìn tấn, tăng 3,9% về lượng và tăng 52,3% về kim ngạch; than đá ước đạt gần 12,6 triệu tấn, giảm 13,6% về lượng và tăng 3,2% về kim ngạch; dệt may 10,5 tỷ USD, tăng 31,1%; da giày 4762 triệu USD, tăng 30,9%; cao su 525 nghìn tấn, tăng 2,5% về lượng và tăng 59,8% về kim ngạch; gỗ và sản phẩm gỗ 2842 triệu USD, tăng 16,3%; linh kiện điện tử 2772 triệu USD, tăng 9,6%; thuỷ sản 4413 triệu USD, tăng 27%; gạo 6080 nghìn tấn, tăng 13% về lượng và 20,1% về kim ngạch; cà phê 984 nghìn tấn, tăng 7,1% về lượng và tăng 63,9% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 2057 nghìn tấn, tăng 51,3% về lượng và tăng 88% về kim ngạch...
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu 9 tháng năm 2011 so với cùng kỳ: giá hạt điều tăng 48,3%, cà phê tăng 53%, chè các loại tăng 5,3%, hạt tiêu tăng 68%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 24,3%, than đá tăng 19,5%, dầu thô tăng 46,5%, cao su tăng 55,9%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng 4,47 tỷ USD.
Về thị trường xuất khẩu, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 20,3% và chiếm tỷ trọng 17,8%; xuất khẩu vào EU tăng 48,2% và chiếm tỷ trọng 16,5%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 29,2% và chiếm tỷ trọng 13,9%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 34,7% và chiếm tỷ trọng 10,6%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 59,2% và chiếm tỷ trọng hơn 10,8%.
2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 9 năm 2011 ước đạt 9,3 tỷ USD, giảm 3,6% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 4,2 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 76,9 tỷ USD, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt hơn 34,2 tỷ USD, tăng 30,2%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 9 tháng đầu năm 2011 so với cùng kỳ năm trước như sau: xăng dầu 8369 nghìn tấn, tăng 8,2% về lượng và tăng 60,3% về kim ngạch; sắt thép các loại 5367 nghìn tấn, giảm 14,7% về lượng và tăng 7,8% về kim ngạch; phân bón 2867 nghìn tấn, tăng 30,5% về lượng và tăng 63,4% về kim ngạch; giấy các loại 767 nghìn tấn, tăng 11,6% về lượng và tăng 21,5% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1855 nghìn tấn, tăng 5,9% về lượng và tăng 29,2% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt gần 11,2 tỷ USD, tăng 12,5%; máy tính và linh kiện 4667 triệu USD, tăng 30,4%; vải các loại 5024 triệu USD, tăng 31%; nguyên phụ liệu dệt may 2187 triệu USD, tăng 14,9%...
Cũng như xuất khẩu, giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 46,5%, khí đốt hóa lỏng tăng 26,4%, chất dẻo nguyên liệu tăng 21,9%, sợi các loại tăng 32,3%, sắt thép các loại tăng 26,4%, phân bón các loại tăng 25,2%, lúa mỳ tăng 39,3%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng gần 5,9 tỷ USD.
9 tháng đầu năm 2011, nhập khẩu từ Châu Á chiếm tới 78,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 22,6%, tỷ trọng ước đạt 22,6%), ASEAN (tăng 32,9%, tỷ trọng 20,1%), Hàn Quốc (tăng 36,5%, chiếm tỷ trọng 12%), Nhật Bản (tăng 17,4%, chiếm tỷ trọng 9,8%) và EU (tăng 19,4%, chiếm tỷ trọng 7%).
Ước nhập siêu 9 tháng đầu năm 2011 là hơn 6,8 tỷ USD, chiếm 9,8% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) nhập siêu gần 1,74 tỷ USD. Nếu không tính kim ngạch xuất khẩu vàng vào tổng kim ngạch xuất khẩu, thì nhập siêu 9 tháng ước khoảng 9 tỷ USD, bằng khoảng 13,5% kim ngạch xuất khẩu. Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với khu vực Châu Á.
3. Nhận xét
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 9 tháng tiếp tục cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu đã góp phần làm giảm dần tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh là do hầu hết giá các mặt hàng nông sản đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, xuất khẩu vàng và xuất khẩu điện thoại di động và linh kiện cũng đóng góp lớn vào mức tăng kim ngạch xuất khẩu.
- Nhập siêu 9 tháng đầu năm 2011 tiếp tục giảm và ở mức là 9,8%, nguyên nhân là do tháng 8 kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh và tăng đồng đều ở hầu hết các mặt hàng.
- 9 tháng đầu năm 2011, Việt Nam vẫn nhập siêu chủ yếu với các nước như Trung Quốc (ước đạt 9,8tỷ USD), ASEAN (5,7 tỷ USD), Hàn Quốc (5,7tỷ USD), Đài Loan (hơn 5,1 tỷ USD).
Như vậy, kim ngạch xuất khẩu sẽ tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước và so với kế hoạch đề ra. Nhiều mặt hàng công nghiệp chủ yếu đã có mức tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước và giá cả nhiều mặt hàng khoáng sản, nông sản tăng đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) ước tăng khoảng 1,87% so với tháng 8/2011, đạt khoảng 164.416 tỷ đồng. Tính cả 9 tháng đầu năm 2011, tổng mức bán lẻ cả nước ước đạt khoảng 1.392.861 tỷ đồng.
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2011 tăngkhoảng 0,82% so với tháng 8/2011. Như vậy, tính cả 9 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước đã tăng khoảng 16,63% so với tháng 12/2010.
3.3. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Thị trường thế giới:
Từ cuối tháng 8 tới giữa tháng 9, giá dầu thô thế giới diễn biến tăng giảm thất thường, bình quân giá dầu thô WTI thị trường New York đạt 87,93 USD/thùng, tăng 0,96 USD/thùng. Giá dầu Brent đạt 112,25 USD/thùng, tăng 3,03 USD/thùng. Do lo ngại sự thiếu hụt nguồn cung tại Mỹ trong thời gian tới nên giá dầu dự báo có xu hướng tăng.
Thị trường trong nước:
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 9 ước đạt 950 nghìn tấn, tăng 8,9% so với tháng 8, với trị giá ước khoảng 950 triệu USD; tính cả 9 tháng đầu năm 2011, ước đạt 8.369 nghìn tấn, trị giá khoảng 7.701 triệu USD, tăng 8,2% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái.
b) Sắt thép
Tháng 9, giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng nhẹ do nhu cầu gia tăng tại một số thị trường châu Á trong khi xuất khẩu quặng sụt giảm do Ấn Độ - nước xuất khẩu quặng lớn thứ ba thế giới giảm sản lượng xuất khẩu. Tại thị trường Đông Nam Á, giá chào phôi thép ở mức 6500 – 690 USD/tấn (CFR).
Trong nước, tiêu thụ thép có dấu hiệu gia tăng do đang vào tâm điểm của mùa xây dựng và do chính sách chiết khấu bán hàng, hỗ trợ chi phí vận chuyển đang phát huy hiệu quả. Hiện giá bán lẻ có xu hướng tăng nhẹ với sức mua đang dần được cải thiện. Giá thép xây dựng bán lẻ trên thị trường hiện dao động ở mức 18.000-18.700 đồng/kg tùy địa bàn, tăng khoảng 200 đồng/kg so với tháng trước.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu tháng 9/2011 ước đạt 550 nghìn tấn, giảm 5,3% về lượng so với tháng 8/2011 và đạt trị giá 520 triệu USD; tính cả 9 tháng đầu năm ước đạt 5.367 nghìn tấn, giảm 15% về lượng so với cùng kỳ năm 2010.
c) Phân bón
Thị trường quốc tế:
Giá Ure trên thị trường thế giới có xu hướng tăng nhẹ so với thời điểm cuối tháng 8. Cụ thể, giá FOB ure tại một số thị trường vào ngày 15/9: Giá FOB ure tại Yuzhny: 500-5100 USD/tấn; tại Trung Quốc: 495-500 USD/tấn.
Thị trường trong nước:
Giá một số loại phân bón trong nước có xu hướng tăng nhẹ so với tháng 8. Tại miền Bắc, giá Ure dao động trong khoảng 10.000 – 10.600 đồng/kg; miền Nam dao động trong khoảng 10.500 – 11.500 đồng/kg.
Theo số liệu sơ bộ, trong tháng 9/2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 300 nghìn tấn với trị giá 125 triệu USD (trong đó lượng ure nhập khẩu đạt 80 nghìn tấn, trị giá 28 triệu USD), giảm 15% so với tháng 8/2011. Tính cả 9 tháng đầu năm 2011, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 2.867 nghìn tấn với trị giá 1.160 triệu USD (trong đó ure đạt 512 nghìn tấn, trị giá 152 triệu USD), tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2010.
d) Xi măng
Thị trường xi măng đầu tháng 9 đã có sự phục hồi sau nhiều tháng trầm lắng. Theo Tổng công ty công nghiệp xi măng Việt Nam, sản xuất và tiêu thụ xi măng nửa đầu tháng 8 đều tăng, trong đó tiêu thụ tăng 514.715 tấn so với cùng kỳ tháng 7.
Về giá cả: giá bán xi măng tại các nhà máy vẫn được giữ theo mức giá đã điều chỉnh vào đầu tháng 7. Giá bán lẻ trên thị trường nửa đầu tháng 9 tại một số tỉnh phía Bắc tăng nhẹ, lên khoảng 1,35 đến 1,65 triệu đồng/tấn, tăng 50.000 đồng/tấn; tại một số tỉnh phía Nam khoảng 1,4 đến 1,7 triệu đồng/tấn, tăng 10.000-20.000 đồng/tấn so với cùng kỳ tháng 8.
II. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2011
1. Về xuất, nhập khẩu
- Thực hiện có hiệu quả các quy hoạch phát triển ngành, đẩy nhanh tiến độ đầu tư của những dự án sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu để thay thế một số sản phẩm nông nghiệp hoặc khoáng sản có khả năng giảm hoặc không tăng sản lượng xuất khẩu (lúa gạo, cà phê, hạt tiêu, than đá, dầu thô...) bằng những sản phẩm mới như cơ khí, dây điện và dây cáp, linh kiện điện tử, máy móc... và những mặt hàng đang nhập khẩu lớn như giấy, phân bón, thép tấm, nguyên phụ liệu dệt may, da giầy...
- Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ thông qua các chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, tập trung vào các ngành dệt may, da giày, điện tử, cơ khí.
- Phát triển các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí, điện tử...
- Rà soát cơ cấu đầu tư, xây dựng những chính sách nhằm khuyến khích đầu tư sản xuất hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu, hạn chế đầu tư vào khu vực phi sản xuất
- Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước, phục vụ tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
2. Về phát triển thị trường trong nước
- Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 11/NQ-CP về 06 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội những tháng cuối năm 2011.
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thông qua khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn; vùng sâu; vùng xa, nhằm mở rộng và thiết lập thị trường vững chắc cho hàng hóa sản xuất trong nước.
- Chỉ đạo các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, dự trữ hàng chuẩn bị cho dịp Tết Nguyên đán, thực hiện chương trình "Bình ổn vào dịp Tết Nguyên đán" trên nguyên tắc doanh nghiệp và nhà nước cùng làm, doanh nghiệp không bị lỗ, trong khi phát triển được thương mại trong nước, đảm bảo ổn định cung cầu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mua sắm của người dân, không để giá cả tăng đột biến vào các dịp cao điểm.
- Tập trung kiềm chế tốc độ tăng giá của các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là lương thực, thực phẩm, các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
-Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm.
- Thực hiện tốt công tác điều tiết thị trường, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, không để tình trạng thiếu hàng hóa xảy ra cục bộ ở một số nơi, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu…
- Rà soát các dự án đầu tư phát triển sản xuất các mặt hàng thiết yếu, đảm bảo phát hiện và giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc, sớm hoàn thành theo tiến độ để đưa vào vận hành, tạo nguồn cung đáp ứng đủ cho nhu cầu của thị trường.
- Đẩy mạnh chương trình xây dựng thương hiệu quốc gia, tăng cường tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam chất lượng cao./.
[1] Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ
File đính kèm: BCKT Dic vu T9.11.pdf
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư