Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 28/10/2010-14:44:00 PM
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện của các ngành thương mại - dịch vụ tháng 10 và 10 tháng đầu năm 2010
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Bước sang quý IV/2010, nền kinh tế thế giới lại đang đứng trước nhiều khó khăn, đặc biệt là các nền kinh tế lớn.
Kinh tế Mỹ đang phát triển một cách chậm chạp để chống lại tỷ lệ thất nghiệp quá cao, hiện đứng ở mức 9,6% và liên tục ở mức tối thiểu 9,5% trong hơn một năm qua. Bên cạnh đó, tổng sản lượng công nghiệp của Mỹ giảm 0,2% trong tháng 9, lần suy giảm đầu tiên trong hơn một năm qua.
Trụ cột của phục hồi kinh tế thế giới - Trung Quốc cũng đang giảm tốc độ tăng khi tăng trưởng GDP quý 3 chỉ đạt 9,6% so với cùng kỳ năm 2009 (tăng trưởng trong quý 1 và 2 là 10,3% và 11,9%).
Thị trường tiền tệ, vàng và dầu thô thế giới có những diễn biến phức tạp: các nước ngày càng bất đồng về chính sách tỉ giá của Trung Quốc, sự mất giá của đồng đô la Mỹ so với các ngoại tệ mạnh khác; giá vàng liên tiếp tăng cao lập nên các mốc đỉnh mới, trong khi giá dầu thô cũng tăng giảm khó lường. Ngày 19/10 Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) đã bất ngờ tăng lãi suất cho vay và huy động thêm 0,25% lần đầu tiên trong vòng 3 năm qua, chính sách này của Trung Quốc được cho là sẽ có tác động nhiều tới thị trường hàng hóa và tiền tệ của thế giới trong thời gian tới.
2. Tình hình trong nước
Kinh tế nước ta trong 10 tháng đầu năm vẫn duy trì đà phục hồi với tốc độ tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định: tăng trưởng GDP trong quý 1 đạt 5,83%, quý 2 đạt 6,4%, quý 3 đạt 7,16%, dự kiến quý 4 sẽ tăng khoảng 7,2%. Mặc dù vậy, trong tháng 10, kinh tế nước ta gặp phải nhiều khó khăn: mưa lũ tại miền Trung gây thiệt hại lớn về người và vật chất, ảnh hưởng không nhỏ đến các ngành nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp..., lưu thông hàng hóa khó khăn; bên cạnh đó, giá vàng và đô la Mỹ liên tục leo thang có tác động tiêu cực tới giá cả hàng hóa – dịch vụ trong nước, tình trạng thiếu điện tại miền Bắc gây khó khăn cho các nhà máy sản xuất thép, xi măng...
Dự kiến, trong những tháng cuối năm, ngoài những tác động từ khó khăn chung của kinh tế thế giới, kinh tế nước ta sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn như: tình hình thời tiết còn diễn biến phức tạp, khả năng mưa lũ gây thiệt hại và gây cản trở cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Thị trường tài chính tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với quy luật thị trường những tháng cuối năm sẽ tiếp tục gây những ảnh hưởng không nhỏ đến cung cầu, giá cả và nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô và công tác điều hành thị trường.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 10 VÀ 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2010
1. Tình hình phát triển ngành du lịch
Trong tháng 10 cả nước đã diễn ra Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, một trong những sự kiện văn hoá trọng đại nhất của dân tộc Việt Nam. Để chào mừng Đại lễ nhiều hoạt động văn hoá - nghệ thuật đã diễn ra sôi nổi trên khắp cả nước trong đó tập trung nhiều nhất ở thành phố Hà Nội bắt đầu từ ngày 1/10 đến ngày 10/10. Các hoạt động nghệ thuật đều có chủ đề hướng về Thăng Long – Hà Nội như: Thăng Long – Hà Nội, lịch sử truyền thống anh hùng; Thăng Long – Hà Nội Thủ đô văn hiến, đêm hội Thăng Long thành phố Rồng bay… Cũng trong dịp này, di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long được đón bằng công nhận Di sản thế giới do UNESCO trao tặng và bức tranh “Con đường gốm sứ” được chứng nhận là bức tranh ghép gốm sứ dài nhất thế giới… Nhìn chung, chúng ta đều gắn các hoạt động kỷ niệm 1000 năm Thăng Long với quảng bá du lịch. Do đó sự kiện đặc biệt này đã thu hút gần 1,2 triệu lượt khách nội địa và khoảng 30.000 lượt khách quốc tế đến thăm quan thưởng lãm.
Ngoài sự kiện trên, một số địa phương trên cả nước cũng có nhiều hoạt động tích cực để thúc đẩy du lịch như: tại Đà Nẵng đã xúc tiến và duy trì các chương trình nghệ thuật truyền thống phục vụ du khách, tại thành phố Hồ Chí Minh có chương trình tăng cường quảng bá du lịch tới Hàn Quốc, tại Phú Yên có hội thảo định hướng phát triển du lịch sông Hinh…
Bên cạnh đó để tiếp tục thu hút khách quốc tế đến Việt Nam chúng tatiếp tục thực hiện chính sách miễn phí thị thực vào Việt Nam cho khách đi theo tua du lịch của các công ty lữ hành quốc tế tham gia chương trình kích cầu du lịch Việt Nam năm 2010 “ Việt Nam - điểm đến của bạn” đến hết tháng 12/2010.
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng10/2010 ước đạt hơn 412.000 lượt khách, tính chung tổng số khách trong 10 tháng đạt xấp xỉ 3,9 triệu lượt tăng 29% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các thị trường khách đều có sự tăng trưởng khá. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 10/2010 chủ yếu từ một số thị trường như: Mỹ, Campuchia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Pháp…
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 10 chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tiếp đến là đường bộ và đường biển.
Xét theo mục đích chuyến đi, số lượng khách du lịch chủ yếu đi theo mục đích nghỉ ngơi, du lịch, tiếp đến là khách du lịch đi theo mục đích thăm thân nhân và cuối cùnglà khách đi theo mục đích công việc.
2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
2.1. Xuất khẩu
Ước thực hiện xuất khẩu tháng 10 năm 2010 đạt 6,25 tỷ USD, tăng 2,5% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 3,1 tỷ USD.
10 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 57,8 tỷ USD, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 26,9 tỷ USD, tăng 39,9%.
Xét về giá trị tuyệt đối, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) 10 tháng đầu năm 2010 ước tăng 7,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2009; trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ước tăng 10,9 tỷ USD. Như vậy, có thể nói trong 10 tháng đầu năm 2010 tăng trưởng xuất khẩu của cả nước phần lớn là do sự tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI.
Xuất khẩu của một số mặt hàng chủ yếu 10 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm trước: dầu thô ước đạt gần 6,7 triệu tấn, giảm 44,3% về lượng và giảm 24,6% về kim ngạch; than đá 15,5 triệu tấn, giảm 22,1% về lượng và tăng 20,7% về kim ngạch; dệt may 9,1 tỷ USD, tăng 22,3%; da giày 4,1 tỷ USD, tăng 24,8%; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD, tăng 36,2%; linh kiện điện tử 2,9 tỷ USD, tăng 28%; thuỷ sản 4 tỷ USD, tăng 15,3%; gạo 5,7 triệu tấn, tăng 5,8% về lượng và 10,8% về kim ngạch; cà phê 983 ngàn tấn, tăng 2,7% về lượng và tăng 1,5% về kim ngạch; sắn và sản phẩm sắn 1,4 triệu tấn giảm53,1% về lượng và giảm 16,2% về kim ngạch ... Đến hết tháng 10/2010, ước tính đã có 14 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD gồm dệt may, dầu thô, giày dép, thủy sản, gạo, gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, máy vi tính và linh kiện, đá quý kim loại quý và sản phẩm, cà phê, sắt thép và sản phẩm, than đá, cao su, dây điện và dây cáp điện; tăng 1 mặt hàng so với tháng trước là dây điện và dây cáp điện. Như vậy, so với cùng kỳ, số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã tăng lên 3 mặt hàng là sắt thép và sản phẩm, dây điện và dây cáp điện, cao su.
Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện đã góp phần vào sự tăng trưởng xuất khẩu của 10 tháng đầu năm: giá hạt điều tăng 20,4%, chè các loại tăng 10,8%, hạt tiêu tăng 37,8%, gạo tăng 4,7%, sắn và sản phẩm từ sắn tăng 79,4%, than đá tăng 55,8%, dầu thô tăng 35,1%, cao su tăng 82,1%. Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 2,8 tỷ USD. Như vậy, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch xuất khẩu 10 tháng đầu năm tăng 17,3% so với cùng kỳ.
Trong 10 tháng đầu năm, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tập trung chủ yếu ở các thị trường Châu Á với tỷ trọng khoảng 46%, tăng trưởng 29,5% so với cùng kỳ, trong đó riêng khu vực ASEAN là 14,3%, tăng 14,8%. Xuất khẩu sang Châu Mỹ chiếm tỷ trọng khoảng 23,6%, tăng 26,7% so với cùng kỳ, riêng với Hoa Kỳ là 20%, tăng 26,3%. Xuất khẩu sang Châu Âu chiếm tỷ trọng ước đạt 21,7%, tăng 18,6%, trong đó xuất khẩu vào EU chiếm tỷ trọng 15,1% và tăng 14,5%.
2.2. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu tháng 10 năm 2010 ước đạt 7,35 tỷ USD, tăng 5,4 so với tháng trước. Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 3,35 tỷ USD.
10 tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt hơn 67,3 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 29,1 tỷ USD, tăng 41,2% và chiếm 43,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu 10 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009 như sau: xăng dầu 8,2 triệu tấn, giảm 25,5% về lượng và giảm 3,2% về kim ngạch; thép các loại 7,1 triệu tấn, giảm 12,1% về lượng và tăng 12,7% về kim ngạch; phân bón 2,4 triệu tấn, giảm 34% về lượng và giảm 30,6% về kim ngạch; giấy các loại 776 nghìn tấn, giảm 8,5% về lượng và tăng 17,5% về kim ngạch; chất dẻo nguyên liệu 1,97 triệu tấn, tăng 8,8% về lượng và tăng tới 35,1% về kim ngạch, máy móc thiết bị 10,8 tỷ USD, tăng 9,2%, máy tính và linh kiện 4,1 tỷ USD, tăng 32,7%, vải 4,4 tỷ USD, tăng 26,5%, nguyên phụ liệu dệt may 2,1 tỷ USD, tăng 37,1%...
Cũng như xuất khẩu, giá nhập khẩu bình quân của hầu hết các mặt hàng đều tăng là yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến mức tăng của kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Giá một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so với cùng kỳ năm trước như: giá xăng dầu các loại tăng 30,1%, khí đốt hóa lỏng tăng 33,3%, chất dẻo nguyên liệu tăng 24,2%, sợi các loại tăng 23,8%, phôi thép tăng 27,9%, kim loại thường tăng 34,9%... Tính riêng yếu tố tăng giá của các mặt hàng này khiến kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng hơn 4,3 tỷ USD.
Việt Nam vẫn nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc 10 tháng đầu năm ước đạt gần 16 tỷ USD, tăng tới 23,2% so với cùng kỳ năm ngoái, và chiếm 23,7% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước, tiếp theo là Hàn Quốc với kim ngạch ước đạt 7,7 tỷ USD, chiếm 11,4%, Nhật Bản 7,2 tỷ USD và Đài Loan 5,7 tỷ USD.
2.3. Nhập siêu
Ước nhập siêu tháng 10 là 1,1 triệu USD, chiếm 17,6% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu 10 tháng đầu năm ước tính đạt 9,5 tỷ USD, bằng 16,45% kim ngạch xuất khẩu. Nếu không tính kim ngạch xuất khẩu vàng, nhập siêu 10 tháng đầu năm là 12,3 tỷ USD, chiếm trên 22%.
Trong khi xuất siêu của Việt Nam với Châu Mỹ và Châu Âu trong 10 tháng đầu năm ước lần lượt là 8,8 tỷ và 5,9 tỷ USD thì với Châu Á, Việt Nam lại nhập siêu khoảng 26 tỷ USD, trong đó riêng với khu vực Đông Á là hơn 20 tỷ USD.
Trong các quốc gia, Việt Nam nhập siêu nhiều nhất với Trung Quốc, ước khoảng hơn 10 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm (lớn hơn tổng nhập siêu của cả nước), tiếp theo là Hàn Quốc 5,3 tỷ USD và Đài Loan 4,5 tỷ USD
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Dự kiến tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 10/2010 đạt khoảng 136.261 tỷ đồng, tăng 1,33% so với tháng 9/2010. Như vậy sau 10 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hoá cả nước ước đạt 1.282.020 tỷ đồng, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm trước.
Tính cả 10 tháng đầu năm 2010, trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế cá thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 51,1%, tiếp đó là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước với tỷ trọng tương ứng là 34,6% và 10,2%. Giá trị đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3%, trong khi khu vực kinh tế tập thể chiếm 1,1%.
(Theo số liệu của Tổng Cục thống kê)
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo Tổng Cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2010 tiếp tục tăng cao ở mức 1,05% so với tháng 9/2010, đưa CPI 10 tháng đầu năm 2010 tăng 7,58% so với tháng 12/2009.
Trong tháng 10/2010, chỉ có nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông giảm nhẹ so với tháng trước (0,07%). Các nhóm hàng có tốc độ tăng giá cao gồm có: nhóm giáo dục tăng mạnh nhất 3,9% và là nguyên nhân chính đẩy chỉ số giá tháng 10 tăng cao, tiếp theo là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, tăng 1,32% (riêng lương thực tăng gần 1,9%) và nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,04%. Các nhóm hàng còn lại đều tăng, dao động từ 0,16% đến 0,9%.
Như vậy, CPI của cả nước 10 tháng đầu năm đã ở mức 7,58%, rất gần với chỉ tiêu 8% do Quốc hội đề ra. Do vậy, trong 2 tháng cuối năm, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát đang trở nên khó khăn và đòi hỏi những nỗ lực quyết liệt hơn nữa của các bộ, ngành trong công tác điều hành, bình ổn thị trường.
(Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê)
3.3. Tình hình cung – cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
Bước sang những ngày đầu tháng 10, giá dầu thô thế giới bắt đầu thời kỳ tăng giá mạnh mẽ và liên tục. Từ mức dao động xung quanh 75 USD/thùng, giá dầu đã đạt đỉnh vào ngày 7/10 với mức 83 USD/thùng, cao nhất trong vòng 5 tháng qua. Những ngày sau đó, giá dầu dao động nhẹ nhưng vẫn giữ ở mức cao khoảng 82 USD/thùng. Nguyên nhân của việc giá dầu tăng là tình hình kinh tế thế giới được cải thiện, các yếu tố cơ bản của thị trường mạnh lên như nhu cầu tiêu thụ dầu của khối OECD tăng hơn trước, nhập khẩu dầu của Trung quốc tăng mạnh và tồn kho dầu của Mỹ giảm. Ngoài ra, còn do việc đồng đôla Mỹ giảm giá mạnh sau thông tin Ngân hàng Trung ương Mỹ sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ và Mỹ sẽ in thêm tiền đưa vào nền kinh tế vào tháng sau.
Thị trường trong nước:
Đầu tháng 10, nhà máy lọc dầu Dung Quất thông báo còn tồn 200.000 tấn xăng dầu, trong khi dung tích kho chứa chỉ là 400.000 tấn, nguy cơ nhà máy phải giảm công suất sản xuất. Nguyên nhân do các doanh nghiệp trong nước vẫn nhập khẩu xăng dầu, thay cho việc mua từ nhà máy. Tuy nhiên đến 19/10, Petrolimex cùng một số doanh nghiệp đầu mối đã cam kết nâng mức mua xăng dầu từ nhà máy để giảm lượng xăng dầu tồn trữ xuống mức bình thường.
Giá các mặt hàng xăng dầu trong nước vẫn giữ nguyên không điều chỉnh mặc dù giá dầu thế giới trong tháng 10 có sự tăng đột biến.
Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục hải quan, lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 10 ước đạt 550 triệu tấn, với trị giá khoảng 357 triệu USD; tính cả 10 tháng đầu năm 2010, ước đạt 8.234 triệu tấn, trị giá khoảng 5.127 triệu USD, giảm 25,5% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái và đạt xấp xỉ 71% kế hoạch năm 2010.
b) Sắt thép
Bước sang tháng 10, thị trường thép thế giới vẫn ảm đạm với chiều hướng giá đi xuống, do thời gian này Trung Quốc - quốc gia sản xuất thép lớn nhất thế giới tạm ngừng các hoạt động giao dịch trong dịp lễ. Thị trường châu Âu và Mỹ vẫn có chiều hướng đi xuống.
Cùng với tình hình kém khả quan của thị trường thép thế giới, thị trường thép Việt Nam bị rơi vào tình trạng ảm đảm và gây thất vọng về cả lượng tiêu thụ và giá. Lượng thép tồn kho ngày càng nhiều do các tàu hàng vẫn cập cảng nhưng thép chưa tiêu thụ được.Giá thép giảm trung bình 300-500 đồng/kg so với cuối tháng 9. Tính đến 15/10, giá thép xây dựng nhập từ ASEAN và Trung Quốc chỉ còn 13.200 - 13.500 đồng/kg.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, sản lượng thép nhập khẩu tháng 10 ước đạt 900 nghìn tấn, tăng 8,2% về lượng so với tháng 9/2010 và đạt trị giá 592 triệu USD; tính cả 10 tháng đầu năm ước đạt 7.120 nghìn tấn, giảm 12,1% về lượng so với cùng kỳ năm 2009.
c) Xi măng
Theo Tổng công ty xi măng Việt Nam, ước tổng sản lượng sản xuất tháng 10 đạt 1,4 triệu tấn, giảm nhẹ so với tháng 9; mức tiêu thụ ước đạt 1,35 triệu tấn, giảm khoảng 12 nghìn tấn so với tháng 9.
Về giá cả: giá bán tại các nhà máy xi măng vẫn được duy trì ổn định so với các tháng trước đó và đang ở các mức: PC30 từ 887.000 – 920.000 đồng/tấn; PCB 40 từ 910.000 – 1.250.000 đồng/tấn (giá giao tại nhà máy, đã bao gồm VAT).
Trên thị trường:giá bán xi măng tại các đại lý trong cả nước nhìn chung ổn định so với tháng 9. Tại phía Bắc ở mức 920.000 - 1.000.000 đồng/tấn, tại phía Nam giao động tại mức 1.240.000 -1.340.000 đồng/tấn
Dự báo trong những tháng cuối năm, giá xi măng có thể tăng nhẹ do các công trình trong khi nguồn cung có thể giảm nhẹ do tình trạng thiếu than sản xuất.
d) Phân bón
Giá phân bón trên thị trường quốc tế trong tháng 10 tiếp tục tăng so với tháng 9, đặc biệt là phân ure. Nguyên nhân là do nhu cầu tiêu thụ phân bón gia tăng, trong khi một số nước xuất khẩu phân bón lớn của thế giới như Trung Quốc giảm sản lượng, cùng với đó là sự căng thẳng trên thị trường tiền tệ cũng có tác động tới giá phân bón quốc tế. Giá bán Ure trên một số thị trường như sau: giá FOB tại Yuzhny và Baltic từ 325 – 340 USD/tấn (tăng từ 50 – 85 USD/tấn so với cùng kỳ tháng 9); tại Trung Đông từ 320 – 335 USD/tấn (tăng từ 35-55 USD/tấn).
Tại thị trường trong nước:
Mặc dù hiện nay lượng phân bón tiêu thụ trên thị trường chưa thực sự tăng mạnh, tuy nhiên thị trường phân bón trong nước tháng 10 nhìn chung có biến động tăng giá so với tháng 9, do giá phân bón trên thị trường quốc tế liên tục tăng cao và lượng hàng tồn kho ở khu vực đã không còn nhiều. Giá ure 15 ngày đầu tháng 10 tăng khoảng 200-300 đồng/kg so với cùng kỳ tháng 9, mức giá giao động từ 6.500-7200 đồng/kg, có tỉnh giá ure cao ở mức 7.500 đồng/kg.
Trong 2 tháng cuối năm, giá phân bón thế giới được dự báo vẫn có khả năng tiếp tục tăng, trong khi nước ta vẫn khá phụ thuộc vào phân bón nhập khẩu: 50% ure và 100% kali nhập khẩu... Bên cạnh đó, nhu cầu tiêu thụ phân bón sẽ tăng mạnh tại cả miền Bắc và miền Nam do bước vào chính vụ Đông Xuân. Do đó, dự báo tình hình cung – cầu – giá cả phân bón trong nước cuối năm có thể có diễn biến phức tạp.
Trong tháng 10, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 250 nghìn tấn với trị giá 95 triệu USD (trong đó phân ure là 20 nghìn tấn và trị giá 6 triệu USD), tăng 7,8 % so với tháng 9/2010; tính cả 10 tháng đầu năm, lượng phân bón nhập khẩu ước đạt 2.430 nghìn tấn với trị giá 796 triệu USD (trong đó phân ure ước đạt 608 nghìn tấn, trị giá 180 triệu USD), giảm 34% so với cùng kỳ năm 2009 và đạt 67,5% kế hoạch năm 2010.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2010
1. Về phát triển ngành du lịch
- Tăng cường quảng bá xúc tiến du lịch, Việt Nam là một điểm đến an toàn thân thiện đối với bạn bè quốc tế; cần đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: CNN, BBC, Discovery,....
- Hiện tại, Thái Lan đang rơi vào khủng hoảng chính trị, đây là cơ hội lớn cho Việt Nam để đón khách du lịch quốc tế đến khu vực Đông Nam Á. Như vậy, để thu hút được khách du lịch trong thời gian tới Việt Nam cần thực hiện nhiều chương trình khuyến mại giảm giá đối với các Tour du lịch, vấn đề này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan như: vận tải hàng không, hàng hải, khách sạn nhà hàng,....
- Xu hướng khách du lịch bằng đường biển đến Việt Nam ngày càng tăng, khách du lịch bằng đường biển thường là khách có mức chi tiêu cao, do đó cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt đối với các đối tượng khách du lịch này về visa, thời gian lưu trú trên bờ, khoảng cách được phép đi sâu vào nội địa,.....
- Cải cách các chính sách về xuất nhập cảnh, thủ tục xe ô tô du lịch qua biên giới cần thông thoáng hơn nữa để thúc đẩy phát triển mạnh khách du lịch thông qua con đường này.
2. Một số giải pháp điều hành xuất nhập khẩu
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Hợp tác với các nước khác có cùng mặt hàng xuất khẩu (gạo với Thái Lan, cà phê với Indonexia, Braxin, đồ gỗ với Malaysia...) để tăng cường hiệu quả xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản có thế mạnh của Việt Nam.
- Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường trên cơ sở mối quan hệ với lãi suất giữa tiền Việt Nam và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cần thiết cho các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các hàng rào kỹ thuật để quản lý nhập khẩu, ngăn chặn việc nhập khẩu các sản phẩm kém chất lượng, công nghệ lạc hậu của nước ngoài.
- Bên cạnh những giải pháp ngắn và trung hạn nêu trên, những giải pháp dài hạn hơn như phát triển nguồn nhân lực (có chính sách phát triển nguồn nhân lực trong những ngành cụ thể, có thế mạnh), phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ... cần được tập trung triển khai ngay trên thực tế.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Tăng cường công tác kiểm tra thị trường vào những tháng cuối năm nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các sai phạm về niêm yết giá hàng hóa, tự ý đẩy giá lên cao, găm hàng... đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết tại các thành phố lớn và các khu vực bị ảnh hưởng của thiên tai.
- Theo dõi sát sao diễn biến của thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước để có các chính sách chỉ đạo, điều hành kịp góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát mà Chính phủ đề ra.
- Tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tích cực đưa hàng hóa về các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm phục vụ nhu cầu người dân trong những tháng cuối năm và đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán.
- Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện và nhân rộng chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, kết hợp với các chương trình giảm giá, khuyến mại hợp lý nhằm kích thích tiêu dùng nội địa trong những tháng cuối năm.
3.2. Đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Công Thương cần tăng cường công tác điều hành, phối hợp với các cơ quan liên quan để xử lý tình trạng dư thừa tồn kho xăng dầu tại nhà máy lọc dầu Dung Quất.
- Các Bộ, ngành chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chống buôn lậu xăng dầu qua biên giới và các hình thức gian lận trong kinh doanh xăng dầu.
b) Sắt thép
Cơ quan chức năng phối hợp thực hiện các biện pháp để ổn định giá thép: kiểm soát chặt chẽ việc tính toán giá thép, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm.
c) Xi măng
- Bộ Công Thương cần chỉ đạo Tập đoàn Than – Khoáng sản và Tập đoàn Điện lực Việt Nam có biện pháp tháo gỡ nhằm cung cấp đủ than và điện cho các nhà máy xi măng hoạt động, tránh nguy cơ thiếu xi măng gây mất cân đối quan hệ cung – cầu – giá cả.
- Điều tiết tốt lượng clinker và xi măng giữa hai miền Nam – Bắc, đảm bảo cân bằng cung – cầu ở các khu vực, không để xảy ra tình trạng sốt giá cục bộ trong những tháng cao điểm xây dựng cuối năm.
d) Phân bón
-Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp cuối năm.
- Tăng cường công tác hải quan tại các cửa khẩu, đặc biệt là tại phía Bắc nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch./.

File đính kèm:
BC KTDichvuT10.10.pdf

Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1493
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)