Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 27/12/2014-09:58:00 AM
Báo cáo tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2014

Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2014 được triển khai trong bối cảnh tình hình kinh tế trong nước và thế giới còn nhiều khó khăn và diễn biến phức tạp. Với chức năng là cơ quan tham mưu tổng hợp về phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có nhiều nỗ lực, cố gắng chủ động tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ các chính sách quan trọng, kịp thời góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và phục hồi tăng trưởng.

Năm 2014, là năm cao điểm thực hiện các chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và tái đầu tư công: năm thứ 4 thực hiện Chỉ thị 1792/CT-TTg về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, năm thứ nhất triển khai thực hiện Kết luận số 97-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” (Nghị quyết Trung ương 7, Khóa X); năm thứ nhất thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.

Trong năm sản xuất nông nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn nhưng đã có dấu hiệu phục hồi tăng trưởng. Việc đổi mới, tái cơ cấu ngành đã được triển khai và đạt được kết quả bước đầu góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đảm bảo an sinh xã hội và phát triển bền vững. Tuy nhiên, các kết quả tái cơ cấu còn mờ nhạt, ngoài việc dồn điền đổi thửa, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng còn chậm nên đóng góp của tái cơ cấu trong tăng trưởng chưa cao. Các khó khăn, tồn tại của sản xuất nông nghiệp chậm được khắc phục như vấn đề tiêu thụ nông sản, liên kết sản xuất trong nông nghiệp, quản lý chất lượng nông sản, chế biến nông sản, áp dụng khoa học kỹ thuật ... vẫn là cản trở cho phát triển nông nghiệp. Cùng với những khó khăn chung của nền kinh tế, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như việc sản xuất và tiêu thụ các mặt hàng nông sản gặp khó khăn do sức mua giảm, giá bán một số sản phẩm nông nghiệp không ổn định, thị trường gạo và cao su thế giới cung vượt cầu. Những bất ổn trong quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc là một nhân tố để thúc đẩy ngành nông nghiệp trong nước tự thay đổi, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cùng với sự nỗ lực của các ngành các cấp, sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ, Vụ Kinh tế Nông nghiệp đã chủ động phối hợp với các đơn vị trong Bộ, các cơ quan chuyên môn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để nắm bắt tình hình, phân tích nguyên nhân, đề xuất các cơ chế chính sách, các giải pháp điều hành kế hoạch linh hoạt để tháo gỡ khó khăn góp phần giúp sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tiếp tục phát triển: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2014 theo giá so sánh 2010 ước tăng 3,86% so với năm 2013 (Nông nghiệp tăng 2,86%; lâm nghiệp tăng 7,09%; thuỷ sản tăng 6,82%) góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và đảm bảo an sinh xã hội.

I. Nông nghiệp

1. Cây hàng năm

Tổng sản lượng lương thực có hạt toàn quốc đạt 50,2 triệu tấn, tăng 956 nghìn tấn (+1,9%) so cùng kỳ, bảo đảm an ninh lương thựcquốc gia, trong đó sản lượng lúa đạt xấp xỉ 45 triệu tấn, tăng 955,2 nghìn tấn, ngô đạt 5,2 triệu tấn, tăng 0,5 nghìn tấn. Tình hình cụ thể như sau:

- Cây lúa: Do chuyển đổi cơ cấu cây trồng, và chuyển đổi mục đích sử dụng đất nên tổng diện tích gieo trồng lúa năm 2014 đạt 7813,7 nghìn ha, giảm 88,8 nghìn ha (-1,1%). Tuy nhiên, ngoại trừ yếu tố thời tiết thì ngành nông nghiệp các tỉnh đã có những chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời về đào tạo ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, giống cây trồng, phân bón, thủy lợi và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ… nên năng suất lúa trung bình năm đạt 57,6 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha (+3,3%), sản lượng lúa cả năm 2014 đạt xấp xỉ 45 triệu tấn, tăng 955,2 nghìn tấn (+2,2%) so với năm 2013, trong đó sản lượng lúa vụ Đông Xuân đạt hơn 20,8 triệu tấn, tăng 780,8 nghìn tấn (+3,9%) do diện tích tăng 0,4%, năng suất tăng 3,5% so cùng kỳ.

Vụ lúa Hè thu và Thu đông 2014 thực hiện chuyển đổi cơ cấu vùa vụ và cơ cấu cây trồng theo hướng giảm diện tích lúa, tăng diện tích hoa màu. Diện tích gieo trồng lúa đạt 2734,1 nghìn ha, giảm 76,7 nghìn ha (-2,7%) và giảm đều ở cả hai vụ (vụ Hè thu giảm 13,2 nghìn ha, vụ Thu đông giảm 63,5 nghìn ha). Tuy năng suất đạt 53,1 tạ/ha, tăng đều cả hai vụ nhưng do diện tích giảm sâu nên sản lượng lúa vụ Hè thu và Thu đông đạt 14,5 triệu tấn, giảm 93,1 nghìn tấn (-0,6%) trong đó sản lượng lúa vụ hè thu đạt 11,2 triệu tấn, tăng 140,6 nghìn tấn, sản lượng lúa thu đông đạt 3,3 triệu tấn, giảm mạnh (-233,7 nghìn tấn).

Diện tích gieo trồng lúa mùa cả nước đạt 1963,1 nghìn ha, giảm 23 nghìn ha (-1,2%), tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam với hơn 20 nghìn ha do chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và cây trồng (Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Đồng Nai). Do thời tiết thuận lợi nên sơ bộ năng suất lúa mùa cả nước ước đạt 49 tạ/ha, tăng 1,9 tạ/ha, (+4,1%); trong đó năng suất lúa mùa các tỉnh phía Bắc đạt khá, đạt 49 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha (+5%). Sản lượng lúa mùa cả nước ước đạt 9,6 triệu tấn, tăng 267,5 nghìn tấn (+2,9%), trong đó các tỉnh phía Bắc đạt 5,9 triệu tấn, tăng 269,3 nghìn tấn (+4,8%). Sản lượng lúa mùa các tỉnh phía Nam vẫn đạt xấp xỉ cùng kỳ do năng suất tăng 2,5%.

- Cây ngô: Diện tích gieo trồng cây ngô cả nước năm 2014 đạt 1177,5 nghìn ha, tăng 7,1 nghìn ha (+0,6%); nhưng năng suất chỉ đạt 44,1 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha (- 0,6%) nên sản lượng đạt 5191,7 nghìn tấn, tương đương cùng kỳ. Năng suất ngô giảm do ảnh hưởng của đợt nắng nóng cuối tháng 5 đầu tháng 6 làm nhiều diện tích ngô bị cháy, khô héo không phát triển được (Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh); một số diện tích ngô đang trổ bông bị thiệt hại do mưa lớn và lốc xoáy (Thanh Hóa).

- Cây khoai lang: Diện tích khoai lang năm nay tiếp tục giảm, đạt 129,9 nghìn ha, giảm 3,8%. Tuy nhiên, do năng suất đạt 107,9 tạ/ha, tăng 7,3 tạ/ha (+7,2%) nên sản lượng vẫn đạt 1404 nghìn tấn, tăng 468 nghìn tấn (3,2%).

- Cây lạc, đỗ tương: Tại các tỉnh phía Bắc, diện tích gieo trồng cây lạc và đậu tượng giảm chủ yếu ở vụ Đông xuân do do tiết vụ xuân mưa ẩm, giá rét kéo dài khiến bà con nông dân không thể làm đất gieo trồng. Còn tại các tỉnh phía Nam, diện tích giảm so cùng kỳ do giá cả và khâu tiêu thụ không ổn định nên một số vùng trước đây chuyên trồng lạc nay đã chuyển sang trồng các loại khác cho hiệu quả cao hơn, ngoài ra một số diện tích chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp. Diện tích gieo trồng lạc đạt 209 nghìn ha, giảm 7,4 nghìn ha (-0,4%); Diện tích đậu tương: diện tích đạt 110,2 nghìn ha, giảm 7 nghìn ha (-6%); Sản lượng lạc đạt 454,5 nghìn tấn, giảm 37,4 nghìn tấn (-7,6%); Sản lượng đỗ tương đạt 157,9 nghìn tấn, giảm 10,3 nghìn tấn (-6,1%).

- Rau, đậu các loại:

Diện tích rau các loại năm 2014 đạt 881,2 nghìn ha, tăng 34 nghìn ha; sản lượng đạt gần 15,4 triệu tấn, tăng gần 792 nghìn tấn so cùng kỳ.

Diện tích đậu tiếp tục giảm do khó trồng và hiệu quả thấp, đạt 160 nghìn ha, giảm 4,5 nghìn ha; sản lượng đạt 165,6 nghìn ha, giảm 3,4 nghìn ha.

2. Cây lâu năm

Theo báo cáo sơ bộ năm 2014, tổng diện tích gieo trồng cây lâu năm biến động không nhiều, ước đạt 3139,4 nghìn ha, bằng 102 % so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu các loại cây trồng có sự biến động để phù hợp với điều kiện canh tác của mỗi vùng miền và đem lại hiệu quả kinh tế. Ước tính năng suất, sản lượng một số cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm đều tăng hơn so với cùng kỳ năm 2013.

- Cây công nghiệp lâu năm tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Diện tích hồ tiêu đạt 83,8 nghìn ha tăng 21,4% do sản phẩm được giá và dễ trồng xen canh nên có xu hướng phát triển mạnh ở Tây nguyên. Diện tích cao su ước đạt 977,7 nghìn ha tăng 2%; diện tích cà phê đạt 641,7 nghìn ha bằng 100,7%; Diện tích chè búp năm nay ước đạt 132,1 nghìn ha bằng 101,8% năm trước, do chuyển đổi, cải tạo, thay thế giống mới trên diện tích chè già cỗi ở các vùng trọng điểm (Thái Nguyên, Lâm Đồng). Riêng cây điều trong những năm gần đây, xu hướng chuyển đổi mạnh đất trồng điều sang trồng các cây công nghiệp lâu năm khác tại các tỉnh miền Đông Nam bộ nên diện tích gieo trồng ước đạt 298,4 nghìn ha bằng 96,9%;

Sản lượng hồ tiêu ước đạt 147,4 nghìn tấn, tăng 13%; sản lượng cà phê ước đạt 1395,6 nghìn tấn bằng 101%; Sản lượng chè đạt 962,5 nghìn tấn bằng 102,8% so với năm trước do có thị trường tiêu thụ tốt. Cây cao su sản xuất ổn định nhưng thị trường tiêu thụ chậm giá thấp nên sản lượng thu hoạch cầm chừng, sản lượng ước chỉ đạt 953,7 nghìn tấn tăng 0,7% so với năm trước do diện tích cho sản phẩm tăng 2,7%. Mặc dù diện tích gieo trồng giảm nhưng trong giai đoạn cây điều ra hoa thời tiết thuận lợi, không bị sâu bệnh nên điều ra hoa kết trái thuận lợi nên sản lượng điều ước đạt 344,9 nghìn tấn bằng 125,2% so với năm trước.

- Sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu năm nay cũng đạt khá do thời tiết thuận lợi. Sản lượng nho năm nay đạt 20,7 nghìn tấn, 7,8% do diện tích và năng suất tại vùng trọng điểm Ninh Thuận tăng tương ứng 7,2% và 1,8%. Sản lượng cam đạt 572,9 nghìn tấn, tăng 7,7%; Sản lượng vải, chôm chôm đạt 697,1 nghìn tấn, tăng 10,8% mặc dù diện tích giảm 2,3% nhưng do năng suất tăng 14,8% Sản lượng xoài đạt 688,9 nghìn tấn , tăng 1,7% vào có giá trị kinh tế cao do các nhà vườn xử lý xoài ra trái mùa tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng nhãn năm nay đạt 515,1 nghìn tấn, giảm 5,3% so với năm trước tương ứng với diện tích gieo trồng giảm. Nguyên nhân, trong những năm gần đây tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, xuất hiện bệnh chổi rồng, xoắn đọt xâm hại mạnh trên cây nhãn. Việc phòng, trị bệnh hiệu quả chưa cao nên nhiều nhà vườn chặt bỏ cây nhãn chuyển đổi trồng cây khác đã ảnh hưởng mạnh đến sản lượng nhãn. Sản lượng bưởi ước đạt 440,4 nghìn tấn, tăng nhẹ so cùng kỳ do một số diện tích bưởi trồng phân tán cho năng suất kém.

3. Chăn nuôi

Ngành chăn nuôi những tháng cuối năm tiếp tục được khôi phục, thuận lợi do giá bán tăng và ổn định, dịch bệnh được khống chế trong nhiều tháng qua. Nhiều trang trại, gia trại đã bắt đầu mở rộng quy mô chăn nuôi. Chăn nuôi vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn do giá các nguyên vật liệu đầu vào vẫn chưa có xu hướng giảm.

- Đàn trâu: Theo kết quả điều tra thời điểm 01/10/2014 đàn trâu cả nước hiện có 2,5 triệu con, bằng 98,14% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi trâu tiếp tục giảm ở vùng trung du và đồng bằng do điều kiện bãi chăn thả bị thu hẹp xu hướng nuôi trâu thịt ở các tỉnh miền núi. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước tính đạt 86,9 nghìn tấn, bằng 101,6% so cùng kỳ.

- Đàn bò: Theo kết quả điều tra thời điểm 01/10/2014 cả nước hiện có 5,2 triệu con bò, bằng 101,5% so với cùng kỳ năm trước. Đàn bò sữa có 227,6 nghìn con bằng 122,1 % so với cùng kỳ năm trước. Trong những năm qua đã có nhiều chương trình dự án hỗ trợ hộ nghèo, một số tỉnh có chính sách hỗ trợ người chăn nuôi. Đàn bò sữa phát triển nhanh ở các địa phương như Sơn La, Tuyên Quang, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Lâm Đồng, Tây Ninh, Bình Dương, Long An và TP Hồ Chí Minh. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước tính bằng 292,9 nghìn tấn bằng 102,6%; sản lượng sữa đạt 549,5 nghìn tấn bằng 120,4% so cùng kỳ.

- Chăn nuôi lợn: Theo kết quả điều tra 01/10/2014 cả nước có khoảng 26,8 triệu con lợn, bằng 101,9, trong đó đàn lợn nái có 3,9 triệu con, bằng 100,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước tính đạt 3,4 triệu tấn, bằng 103,1% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi lợn đang gặp khá nhiều thuận lợi do giá lợn hơi có xu hướng tăng, dịch lợn tai xanh không xảy ra nên đã kích thích người chăn nuôi đầu tư tái đàn. Chăn nuôi lợn theo qui mô trang trại và gia trại có chiều hướng phát triển.

- Chăn nuôi gia cầm: Trong những tháng vừa qua dịch bệnh không xảy ra và giá bán sản phẩm gia cầm tương đối ổn định. Hiện nay công tác kiểm soát gia cầm nhập lậu đã được các các cấp các ngành kiểm soát. Theo kết quả điều tra 01/10/2014 đàn gia cầm của cả nước có khoảng 327,7 triệu con, tăng 3,15%, trong đó đàn gà có 246 triệu con bằng 104,9% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng bằng 875 nghìn tấn bằng 105,3% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng trứng gia cầm đạt 8245,9 triệu quả bằng 107,6% so với cùng kỳ năm trước.

- Chăn nuôi khác: Chăn nuôi khác phát triển do có nhu cầu của thị trường. Đàn dê, cừu hiện có 1,7 triệu con dê, cừu, tăng 26,27% so với cùng kỳ năm trước; Đàn hươu, nai có 63,1 nghìn con tăng 4,6%; Đàn ong có 960,1 nghìn tổ tăng 18,4%; Riêng đàn ngựa có xu hướng giảm, đạt 66,9 nghìn con giảm 15,3%.

Sản lượng mật ong đạt 14,2 tấn, bằng 110,4%; Sản lượng kén tằm đạt 6760 tấn bằng 106,3% so với cùng kỳ năm trước.

* Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm có đến ngày 22/12/2014

Theo Cục Thú y, tính đến ngày 22/12/2014 cả nước dịch cúm gia cầm (H5N1) xảy ra tại hai tỉnh là Vĩnh Long, Trà Vinh và Quảng Ngãi; dịch lợn tai xanh hiện nay cả nước không có tỉnh nào phát sinh. Dịch lở mồm long móng hiện nay cả nước còn tỉnh Thanh Hoá, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Hà Tĩnh và Đắk Nông có dịch chưa qua 21 ngày.

II. Lâm nghiệp

Tình hình sản xuất lâm nghiệp năm 2014 gặp một số khó khăn do diễn biến thời tiết trong năm có rét đậm, rét hại kèm hạn hán kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất lâm nghiệp của cả nước. Tuy nhiên, do các tỉnh Miền Bắc có mưa sớm hơn, các địa phương đã tích cực, chủ động trong công tác chuẩn bị hiện trường trồng rừng, gieo ươm cây giống nên kết quả trồng rừng vẫn tăng trưởng khá. Nhiều chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế lâm nghiệp được triển khai, trong đó việc thực hiện chi trả Dịch vụ môi trường rừng đã tạo điều kiện cho người sản xuất có thêm nguồn lực đầu tư trồng rừng. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gỗ nguyên liệu có nhiều thuận lợi do thị trường tiêu thụ cả trong nước và xuất khẩu đều tăng trưởng mạnh; thị trường gỗ trong nước tăng mạnh do tại nhiều địa phương các nhà máy sản xuất các sản phẩm từ gỗ đang thực hiện cơ chế liên doanh, liên kết trồng rừng đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu với các hộ gia đình nhằm bao tiêu sản phẩm của hộ.

Kết quả sản xuất lâm nghiệp sơ bộ cả năm 2014 đạt được như sau: Diện tích rừng trồng tập trung đạt 226,1 nghìn ha (trong đó gần 90% diện tích là rừng trồng sản xuất), tăng 6,1% so với năm 2013; một số địa phương có diện tích rừng trồng mới tập trung nhiều như: Nghệ An 16 nghìn ha; Quảng Nam 14,4 nghìn ha; Quảng Ngãi 14,2 nghìn ha; Tuyên Quang 13,8 nghìn ha; Quảng Ninh 13,3 nghìn ha; Yên Bái 12,3 nghìn ha…; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 155,3 triệu cây, bằng 98,7% so với cùng kỳ; sản lượng gỗ khai thác sơ bộ đạt 6456 nghìn m3, tăng 9,3%; một số địa phương có sản lượng gỗ khai thác tăng nhiều như: Quảng Nam tăng 51%; Quảng Ngãi (+49,5%); TT Huế (+31,2%); Quảng Ninh (+23,3%); Bình Định (+19,6%); Quảng Trị (+11%)...; sản lượng củi khai thác đạt 29,1 triệu ste (+3,2%).

Tình hình thiệt hại rừng: Mặc dù các địa phương đã rất tích cực trong công tác phòng cháy chữa cháy, tuy nhiên do thời tiết có diễn biến bất thường, nắng hạn kéo dài nên một số tỉnh tại khu vực miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung xảy ra cháy rừng khá nghiêm trọng. Sơ bộ cả năm 2014 tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 4028 ha, tăng 105% so với năm 2013, trong đó: Diện tích rừng bị cháy 3157 ha (+173,1%); diện tích rừng bị chặt phá 870 ha (+7,7%). Một số tỉnh có diện tích rừng bị cháy nhiều như: Yên Bái 692 ha; Bình Định 414 ha; Phú Yên 317 ha; Quảng Trị 236 ha; Lai Châu 211 ha; Nghệ An 176 ha; Đà Nẵng 146 ha; Sơn La 119 ha; Bình Thuận 106 ha…; một số tỉnh có diện tích rừng bị chặt, phá nhiều như: Đắc Nông 133 ha; Sơn La 109 ha; Lâm Đồng 91 ha; Bắc Giang 89 ha; Đắc Lắc 83 ha…

III. Thủy sản

Sản lượng thủy sản năm 2014 ước tính đạt 6332,5 nghìn tấn, tăng 5,2 % so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 4571 nghìn tấn, tăng 4,5%; tôm đạt 790,5 nghìn tấn, tăng 9,3%.

1. Nuôi trồng thủy sản

Diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 1058 nghìn ha, tăng 1,1% so với năm trước, trong đó diện tích nuôi cá 325 nghìn ha, giảm 1,4%, diện tích nuôi tôm 655 nghìn ha, tăng 2%; diện tích nuôi tôm sú tăng trở lại vào những tháng cuối năm do thời gian gần đây tôm sú nguyên liệu được giá;

Sản lượng thủy sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3413,3 nghìn tấn, tăng 6,1%, trong đó cá đạt 2449,1 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm đạt 631,5 nghìn tấn, tăng 12,7%.

Sản xuất cá tra có dấu hiệu phục hồi: Hiện nay giá cá tra nhích lên khoảng 23.500 – 24.200 đ/kg đồng/kg, tăng 3.000-3.200 đồng/kg so với năm 2013 nhưng các hộ dân đã “treo ao” chưa có vốn để đầu tư nuôi trở lại. Nuôi cá tra tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng diện tích thả nuôi ở khu vực doanh nghiệp và giảm diện tích thả nuôi khu vực hộ gia đình. Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tự chủ tới 70% nguyên liệu sản xuất thức ăn cho cá nên khi giá thức ăn đầu vào có biến động tăng, giá cá nguyên liệu trên thị trường giảm thì doanh nghiệp vẫn không bị lỗ. Diện tích nuôi thả cá tra đang dần trở lại ổn định so với năm 2013, cụ thể ở 2 tỉnh hàng đầu là Đồng Tháp 1859 ha, tăng 1,7%; An Giang 1217,9 ha, xấp xỉ cùng kỳ. Sản lượng cá tra cả năm ước đạt 1158,4 nghìn tấn, giảm 0,9 % so với năm 2013.

Nuôi tôm nước lợ: Năm 2014 sản xuất nuôi tôm nước lợ vẫn còn gặp nhiều khó khăn do thời tiết bất lợi; dịch bệnh thủy sản diễn biến rất phức tạp, gây thiệt hại cho người nuôi ở nhiều địa phương; giá thức ăn và giống tôm tăng cao hơn mức tăng giá bán tôm nguyên liệu; Doanh nghiệp và người nuôi thiếu vốn sản xuất và bị hạn chế trong việc tiếp cận vốn vay ưu đãi từ ngân hàng, song với sự vào cuộc chỉ đạo quyết liệt của các ngành các cấp, sự lao động cần cù sáng tạo của bà con ngư dân, vụ nuôi tôm nước lợ năm 2014 đã đạt kết quả cao và đóng góp quan trọng trong tỷ trọng giá trị xuất khẩu của toàn ngành. Trong năm có sự chuyển đổi mạnh từ diện tích nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng, về phương thức nuôi có xu thế tăng diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh giảm dần diện tích nuôi quảng canh. Diện tích tôm sú thu hoạch sơ bộ 497 nghìn ha, giảm 3,8% (-19 nghìn ha); tôm thẻ chân trắng đạt 89,4 nghìn ha, tăng 46,1% (+28 nghìn ha). Sản lượng tôm sú thu hoạch đạt 252 nghìn tấn, giảm 8,7%, trong khi sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng mạnh, vượt qua sản lượng tôm sú và ước đạt 349 nghìn tấn, tăng 36,3 % so với cùng kỳ.

2. Khai thác thủy sản.

Sản lượng khai thác năm 2014 ước đạt 2919,2 nghìn tấn, tăng 4,1% so với năm 2013, trong đó khai thác biển đạt 2711,1 nghìn tấn, tăng 4%. Khai thác thủy sản biển tuy có bị ảnh hưởng của sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam, nhưng nhìn chung sản lượng khai biển năm 2014 vẫn tăng do thời tiết của vụ cá nam năm nay thuận lợi hơn nhiều, nắng ấm kéo dài, ít bão tạo điều kiện cho bà con ngư dân đánh bắt, các chính sách hỗ trợ trong cải hoán, đóng mới tàu thuyền của Nhà nước được thực hiện đã làm tăng nhanh số lượng tàu có công suất lớn, thời gian bám ngư trường dài hơn. Nghề câu cá ngừ đại dương đang được các ngành chức năng quan tâm và hỗ trợ áp dụng khoa học kỹ thuật, cải tiến phương pháp thu câu của Nhật và bảo quản sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng và giá bán sản phẩm tăng hiệu quả và tính bền vững trong hoạt động khai thác.

IV. Về phát triển nông thôn

Xây dựng NTM là chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng, hợp lòng dân. Các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị đã tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện. Nông thôn mới đã hình thành trên thực tế, đáp ứng nguyện vọng người dân nông thôn, ngày càng thu hút sự tham gia của người dân, các doanh nghiệp nhờ đó huy động được nguồn lực rất lớn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nội dung của Chương trình. Bộ máy chỉ đạo thực hiện Chương trình được hình thành khá đồng bộ; nhiều cơ chế chính sách được ban hành có tác dụng thiết thực và trở thành động lực thúc đẩy tiến độ triển khai. Chương trình đã huy động được nhiều nguồn lực để thực hiện, trong đó mức độ tham gia của người dân đạt cao hơn các chương trình MTQG khác. Đặc biệt, từ năm 2014 Quốc Hội đã bổ sung 15.000 tỉ đồng vốn trái phiếu Chính phủ là động lực thúc đẩy tiến độ thực hiện và thu hút các nguồn lực khác để đầu tư cho Chương trình. Dự kiến đến hết năm 2014 sẽ có 785 xã đạt chuẩn (8,8%) và bình quân mỗi xã đạt 10 tiêu chí, tăng 5,38 tiêu chí/xã so với năm 2010. Trong đó có 1.285 xã (14,5 %) đạt từ 15 đến 18 tiêu chí, 2.836 xã (32,1 %) đạt từ 10 đến 14 tiêu chí, 2.964 xã (33,6 %) đạt từ 5 đến 9 tiêu chí, 945 xã (11 %) đạt dưới 5 tiêu chí và không còn xã trắng tiêu chí.

Tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 84% (tăng 2% so với năm 2013), 63% hộ dân nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh.

Đánh giá chung

Năm 2014, ngành nông nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, tập trung nguồn lực thực hiện tốt các nội dung, giải pháp của Nghị quyết 01 trong thực hiện tái cơ cấu ngành, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, phát triển kết cấu hạ tầng, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới... nên đã đạt được kết quả toàn diện, góp phần quan trọng vào việc duy trì tăng trưởng chung của nền kinh tế:

- Tốc độ tăng trưởng ngành đạt cao hơn các năm 2012, 2013, khắc phục xu hướng giảm dần. Tăng trưởng GDP toàn ngành đạt 3,49% (năm 2013 đạt 2,67%); Giá trị sản xuất toàn ngành tăng 3,9% (năm 2013 đạt 3,0%).

(2) Nhiều loại nông sản tăng cả về sản lượng và giá bán, tiêu thụ tốt, xuất khẩu tăng trưởng cao

Hầu hết, các loại nông sản đều được tiêu thụ tốt, giá hợp lý bảo đảm lợi nhuận cho nông dân. Đến nay, mặc dù sản lượng các loại nông sản sản xuất trong năm đều tăng cao, nhưng lượng tồn kho không còn nhiều.

10 tháng năm 2014, kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt 25,58 tỷ USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2013. Dự kiến cả năm, tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS ước đạt ngưỡng 30 tỷ USD, tăng 2,3% tỷ USD (tương đương 8,3%) so với năm 2013.

(3) Các loại dịch bệnh hại cây trồng, vật nuôi đã được dự báo, phát hiện kịp thời và áp dụng các biện pháp phòng, chống hiệu quả nên trong năm đã không xảy ra dịch lớn gây thiệt hại cho sản xuất

(4) Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã tác động rõ rệt hơn đến đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn:

Tuy vậy, công tác quản lý nhà nước, chỉ đạo sản xuất của Bộ và các đơn vị thuộc Bộ đang còn một số tồn tại, cụ thể:

Bên cạnh những kết quả đạt được như trên, trước những yêu cầu mới của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp, nông thôn nước ta đang còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém sau:

- Triển khai thực hiện tái cơ cấu mới tập trung ở Bộ và các đơn vị trực thuộc; triển khai ở địa phương còn chậm và lúng túng.

- Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm; mô hình liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ giữa doanh nghiệp với nông dân tập trung chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất lúa gạo; việc nhân rộng mô hình sang các khu vực sản xuất khác còn chậm và thiếu chính sách hỗ trợ.

- Khu vực hợp tác xã chưa thực sự được đổi mới, còn nhiều lúng túng trong thực hiện theo Luật HTX 2012. Kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ lực ở nông thôn, ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém.

- Công tác quản lý chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều bất cập; tình trạng lạm dụng thuốc trừ sâu,thú y, sử dụng tạp chất, chất cấm trong sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều.

- Huy động nguồn lực xã hội cho ngành còn thấp. Tỷ trọng đầu tư của xã hội cho nông nghiệp, nông thôn chưa được cải thiện nhiều; đầu tư của tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt thấp.

- Đời sống nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn gặp nhiều khó khăn

- Hệ thống quản lý nhà nước của ngành từ Trung ương đến địa phương, cơ sở chưa thống nhất và thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành.

- Việc xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản, chương trình, đề án, tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia vẫn còn chậm tiến độ, chất lượng chưa cao.

- Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở nhiều vùng nông thôn còn yếu kém, nhất là các vùng miền núi; nhiều hệ thống công trình hạ tầng được đầu tư không đồng bộ, chất lượng còn thấp; nhiều hệ thống thủy lợi chưa được khép kín, một số nơi có công trình đầu mối nhưng thiếu kênh mương; hệ thống đê biển của ĐBSCL còn thiếu, nhiều nơi bị lún, sạt lở chậm được nâng cấp

V. Các giải pháp cho sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản

Để sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển bền vững và đạt kết quả cao hơn trong thời gian tới cần đẩy mạnh triển khai tái cơ cấu ngành với tốc độ cao để thay đổi về chất:

- Trong nông nghiệp tiếp tục đẩy mạnh Đề án tái cơ cấu ngành, trong đó trước mắt cần đầy mạnh công tác hỗ trợ sản xuất, tập trung vào các ưu tiên về quy hoạch vùng sản xuất bền vững; ổn định giá bán và giá vật tư sản xuất; liên kết trong các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; dự báo tốt về thị trường tiêu thụ sản phẩm; phòng trừ sâu bệnh; đẩy mạnh công tác dồn điền đổi thửa; chính sách tài chính, xuất khẩu hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sạch, an toàn, nâng cao chất lượng, hạ giá thành. Đưa khoa học công nghệ phải là khâu then chốt để tạo đột phá trong tái cơ cấu; tập trung nguồn lực đầu tư nghiên cứu, giải quyết các vấn đề quan trọng bức thiết của ngành, kiên quyết chống dàn trải, kém hiệu quả, ưu tiên cho các sản phẩm chủ lực, có khả năng cạnh tranh.

- Tổ chức triển khai Đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt tại Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 8/7/2013; Tiếp tục thực hiện chính sách chi trả DVMTR theo Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho người trồng rừng có thêm nguồn lực đầu tư phát triển rừng. Tiếp tục triển khai công tác giao đất, khoán rừng cho các hộ gia đình, cộng đồng để quản lý, bảo vệ, phát triển rừng; thu hút đầu tư vào trồng rừng sản xuất và chế biến lâm sản tạo nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu.

- Tổ chức triển khai Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản. Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị từ sản xuất nguyên liệu đến chế biến tiêu thụ ở tất cả các lĩnh vực và đối tượng sản phẩm; trọng tâm là khai thác biển, nuôi tôm nước lợ, cá tra, ba sa; tạo sự gắn kết, chia sẻ lợi nhuận, rủi ro giữa người sản xuất nguyên liệu và doanh nghiệp chế biến thủy sản; tổ chức các mô hình dịch vụ khai thác trên biển theo hướng khuyến khích các thành phần kinh tế thành lập các đội tàu cung ứng dịch vụ hậu cần, mua gom sản phẩm cho các tàu khai thác xa bờ.

- Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới nhằm đạt mục tiêu cuối năm 2015, cả nước có 20% xã đạt tiêu chí nông thôn mới./.


File đính kèm:
Phu_luc.doc

Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 16752
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)