Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 24 tháng 12 năm 2014
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Tình hình thế giới
Kinh tế thế giới năm 2014 có sự phục hồi chậm và không vững chắc. Dẫn đầu xu hướng phục hồi với tốc độ tăng trưởng năm 2014 lớn hơn năm trước là Mỹ với mức tăng trưởng khoảng 3,5%. Tiếp theo sau là một số nước thuộc Mỹ Latinh và châu Phi với mức tăng trưởng trung bình của khu vực tương ứng là 1,1% và 4,8%.
Bên cạnh xu hướng phục hồi, nhiều quốc gia khác đang lâm vào tình trạng kinh tế bị chững lại, suy giảm, thậm chí suy thoái. Ấn Độ, nước đông dân thứ hai thế giới, có mức tăng trưởng 5% kéo dài trong hai năm 2012 - 2013 và năm 2014 cũng chỉ nhích lên mức 5,4%. Kinh tế các nước khu vực ASEAN nhìn chung tăng trưởng chậm và cũng có xu hướng chững lại, chỉ đạt mức 4-5%. Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, tuy vẫn có mức tăng trưởng cao, nhưng tốc độ đã sụt giảm khá mạnh chỉ còn 7,3% năm 2014 và dự báo 6,6% trong năm 2015 so với mức tăng bình quân 10 năm trước (9% - 10%). Kinh tế Nga đã có dấu hiệu suy thoái từ cuối năm 2014 do các lệnh trừng phạt mà phương Tây áp đặt lên nước này liên quan tới cuộc khủng hoảng ở Ukraine. Đồng Ruble đã mất giá hơn 40% so với đồng USD tính từ đầu năm tới nay, dầu thô chiếm 50% ngân sách của Nga lại đang giảm giá thấp kỷ lục dưới 60 USD/thùng. Kinh tế EU là khu vực đáng quan ngại nhất vì đang cận kề của sự suy thoái với mức tăng trưởng 1,1% trong năm nay và dự đoán sẽ tăng trưởng âm vào năm sau. Trong đó, khu vực Eurozone vẫn tăng trưởng âm 0,4% năm 2013 và cả năm 2014.
2. Tình hình trong nước
Kinh tế trong nước năm 2014 có nhiều biến chuyển tương đối tích cực. Tất cả các chỉ số kinh tế vĩ mô đều tăng khá, trong đó GDP cả năm có thể đạt 5,6-5,8%. Ngành nông nghiệp năm nay ít dịch bệnh, năng suất và sản lượng cây trồng đều tăng dù diện tích canh tác giảm nhẹ. Sản lượng và giá trâu, bò, lợn và gia cầm, thủy sản đánh bắt và nuôi trồng trên cả nước có sự tăng trưởng khá. Tính chung 12 tháng so cùng kỳ năm 2013, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng khoảng 7,5% (so với mức tăng 5,6% của cùng kỳ năm trước) và tăng liên tục, ổn định qua các quý (quý I tăng 5,3%, quý II tăng 6,9%, quý III tăng 7,8%). CPI ở mức thấp trong hầu hết các tháng của năm 2014 do giá xăng, dầu và gas trong nước giảm đến gần 20%, do tiết giảm đầu tư công và kiểm soát vĩ mô giá một số mặt hàng thiết yếu đầu vào, hạn chế đầu cơ ngoại hối và hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí kinh doanh (giảm lãi suất và miễn, giảm, giãn, hoãn nộp thuế). Ngoài ra, CPI thấp còn nhờ thời tiết và điều kiện canh tác thuận lợi, năng suất và sản lượng nông nghiệp cả nước tăng, xu hướng giá vàng giảm ổn định trên thế giới, nhờ tỷ giá VND và Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia được cải thiện.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRONG THÁNG 12 VÀ CẢ NĂM 2014
1. Các ngành dịch vụ
1.1. Đánh giá chung
Mức tăng trưởng của khu vực dịch vụ năm 2014 dự kiến đạt 6,1%-6,3%, cao hơn mức tăng trưởng của khu vực sản xuất và của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này vẫn chưa đạt kế hoạch đề ra. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong tổng thể cơ cấu nền kinh tế quốc dân năm 2014 dự kiến đạt khoảng 43-44%.
Xuất khẩu dịch vụ 2014 ước đạt khoảng 11 tỷ USD, tăng 4,76% so với năm 2013, đạt kế hoạch đề ra; nhập khẩu dịch vụ ước khoảng 13,8 tỷ USD, tăng 4,55% so với năm 2013; thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ là 2,8 tỷ USD.
1.2. Một số kết quả đạt được
a. Dịch vụ du lịch
Dự kiến đến hết năm 2014 số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 7,8 - 8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 3-5,6% so với thực hiện năm 2013 và gần đạt kế hoạch đề ra năm 2014. Khách du lịch nội địa đạt khoảng 38,5 triệu lượt, tăng khoảng 10% so với năm 2013 và tăng 2,67% so với kế hoạch năm 2014. Tổng doanh thu từ khách du lịch năm 2014 ước đạt 210 nghìn tỷ đồng, đạt kế hoạch năm 2014 và tăng 5% so với kế hoạch năm 2013.
b. Dịch vụ vận tải
Khối lượng vận tải hàng hoá dự kiến đạt 1.053 triệu tấn, tăng 4,2% so với năm 2013; khối lượng luân chuyển đạt khoảng 221 tỷ T.Km, tăng 1,2% so với năm 2013. Sản lượng vận tải hành khách dự kiến đạt 3.017 triệu lượt hành khách, tăng 6% so với năm 2013, khối lượng luân chuyển đạt 133.500 triệu HK.Km, tăng 6,1% so với năm 2013.
c. Dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông
Tổng thuê bao điện thoại ước đạt 134,013.triệu thuê bao, trong đó cố định 8,277 triệu thuê bao và di động 125,736 triệu thuê bao. Tổng thuê bao interrnet băng rộng có dây ước đạt 5,770 triệu thuê bao.
Tổng doanh thu thuần bưu chính, viễn thông năm 2014 ước đạt 242.413 tỷ đồng tỷ đồng. Trong đó, doanh thu bưu chính ước đạt 9.968 tỷ đồng.
2. Xuất nhập khẩu
a. Xuất khẩu
Tháng 12 năm 2014, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 13,1 tỷ USD, giảm 1% so với tháng trước; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 8,7 tỷ USD, giảm 2,5%.
Cả năm 2014, xuất khẩu ước đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 94,4 tỷ USD, tăng 16,7% và chiếm 62,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 101,6 tỷ USD, tăng 15,2%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 48,4 tỷ USD, tăng 10,4%.
Xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu cả năm 2014 so với năm trước: dầu thô ước đạt gần 9,2 triệu tấn, tăng 8,9% về lượng và giảm 0,7% về kim ngạch; than đá ước đạt 7,2 triệu tấn, giảm 44% về lượng và giảm 41,1% về kim ngạch; điện thoại các loại và linh kiện đạt 24,1 tỷ USD, tăng 13,4%; dệt may đạt 20,8 tỷ USD, tăng 15,8%; da giày đạt 10,2 tỷ USD, tăng 21,6%; gỗ và sản phẩm gỗ 6,1 tỷ USD, tăng 9,1%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 11,7 tỷ USD, tăng 10%; thuỷ sản 7,9 tỷ USD, tăng 17,6%; gạo 6,4 triệu tấn, giảm 2,7% về lượng và tăng 1,8% về kim ngạch; cà phê 1,7 triệu tấn, tăng 29,7% về lượng và tăng 30,8% về kim ngạch; cao su 1,07 triệu tấn, giảm 0,6% về lượng và giảm 28,1% về kim ngạch...
Về thị trường xuất khẩu cả năm 2014, ước xuất khẩu vào thị trường Mỹ tăng 19,6% và chiếm tỷ trọng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; xuất khẩu vào EU tăng 14,7% và chiếm tỷ trọng 18,6%; xuất khẩu vào ASEAN tăng 3,1% và chiếm tỷ trọng 12,7%; xuất khẩu vào Nhật Bản tăng 8% và chiếm tỷ trọng 9,8%; xuất khẩu vào Trung Quốc tăng 11,8% và chiếm tỷ trọng 9,9%.
b. Nhập khẩu
Tháng 12 năm 2014, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 14 tỷ USD, tăng 9,4% so với tháng trước; trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 8,35 tỷ USD, tăng 9,5%.
Cả năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 148 tỷ USD, tăng 12,1% so với năm 2013, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 84,5 tỷ USD, tăng 13,6% và chiếm 57% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 63,5 tỷ USD, tăng 10,2%.
Lượng và kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu cả năm 2014 so với năm trước như sau: xăng dầu 8,4 triệu tấn, tăng 14,5% về lượng và tăng 9,3% về kim ngạch; sắt thép 11,5 triệu tấn, tăng 21,5% về lượng và tăng 14,2% về kim ngạch; phân bón 3,9 triệu tấn, giảm 17,3% về lượng và giảm 26,6% về kim ngạch; máy móc thiết bị đạt 22,5 tỷ USD, tăng 20,2%; máy tính và linh kiện 18,8 tỷ USD, tăng 6%; vải đạt 9,5 tỷ USD, tăng 14%; nguyên phụ liệu dệt may 4,75 tỷ USD, tăng 25,6%...
Cả năm 2014, nhập khẩu từ Châu Á chiếm trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 18,2%, tỷ trọng ước đạt 29,5%), ASEAN (tăng 8,2%, tỷ trọng 15,6%), Hàn Quốc (tăng 4,9%, chiếm tỷ trọng 14,7%), Nhật Bản (tăng 9,4%, chiếm tỷ trọng 8,5%) và EU (giảm 5,9%, chiếm tỷ trọng 6%).
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu
Năm 2014, xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng trưởng khoảng 15,4% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông lâm thủy sản tăng 12,4% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 8,1%. Số lượng mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD năm 2014 là 24 mặt hàng, tăng 2 mặt hàng so với năm trước.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm 2014 của cả nước tăng thêm khoảng 18 tỷ USD so với năm trước, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 13,5 tỷ USD (đóng góp khoảng 75% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 99,6% tổng kim ngạch mặt hàng này của cả nước); máy vi tính linh kiện và điện tử (98,8%); giầy dép (77%); hàng dệt may (59,4%); máy ảnh (96,5%).
Xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt mức tăng trưởng khá (10,4%), cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng 3,8% của năm 2013. Đây là tín hiệu đáng mừng cho thấy sự phục hồi và phát triển sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Nhập khẩu của cả nước tăng 16 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 10,1 tỷ USD. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của khối doanh nghiệp FDI là điện thoại các loại và linh kiện (chiếm 85,4% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của cả nước); máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện (91%); vải các loại (61,2%); nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (68%).
Cả năm 2014, cả nước xuất siêu khoảng 2 tỷ USD, bằng 1,33% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 9,85 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 17 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt 15 tỷ USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Đánh giá chung
a. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, cung cầu hàng hóa được đảm bảo, không để xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa tại các dịp lễ, tết, và trong các đợt mưa lũ. Thứ hai, giá cả thị trường được kiểm soát tốt, không gây ra hiện tượng sốt giá cục bộ, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước năm 2014 thấp nhất trong vòng 11 năm trở lại đây. Thứ ba, thông qua các Chương trình giảm giá, khuyến mại, hội chợ, triển lãm hưởng ứng Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, lượng hàng hóa Việt Nam tại các siêu thị trong nước đã tăng lên đáng kể (hiện chiếm khoảng 81%), uy tín của hàng Việt cũng được nâng cao, dần tạo lập được lòng tin với người tiêu dùng trong nước.
b. Tồn tại, hạn chế
Tốc độ tăng trưởng của Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 đạt thấp nhất kể từ năm 2010 trở lại đây.
Cơ sở hạ tầng thương mại trên cả nước nhìn chung vẫn còn lạc hậu, chưa có nhiều cải thiện.
Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn thiếu vốn, kinh nghiệm và kỹ năng quản trị doanh nghiệp hiệu quả; dịch vụ logistic hỗ trợ cho khu vực phân phối chưa phát triển dẫn đến chi phí tăng thêm qua hệ thống phân phối, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa; tính liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành phân phối cũng như nhà phân phối - nhà sản xuất chưa chặt chẽ. Vai trò của Hiệp hội bán lẻ trong việc tăng cường liên kết, hợp tác và hỗ trợ tăng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Các hoạt động quản lý thị trường còn hạn chế, chưa kiểm soát triệt để được các hoạt động nhập lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước.
c. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế
Do tình hình kinh tế của đất nước năm 2014 chưa có nhiều khởi sắc, thu nhập của người lao động chưa được cải thiện, do đó sức mua của nền kinh tế còn thấp.
Do khó khăn chung của nền kinh tế trong những năm qua, việc ưu tiên tập trung vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng thương mại chưa được các địa phương, doanh nghiệp chú trọng là nguyên nhân của sự tăng trưởng thiếu bền vững của dịch vụ phân phối, bán lẻ.
Nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho hạ tầng thương mại các địa phương hằng năm còn hạn hẹp, chưa có chương trình bổ sung có mục tiêu cho địa phương để phát triển thương mại nội địa.
Lực lượng quản lý thị trường còn hạn chế cả về nhân lực và cơ sở vật chất, trong khi đó chế tài xử lý vi phạm còn chưa thỏa đáng.
Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành chưa được quy định rõ ràng, còn bị động, dẫn đến việc chậm triển khai thực thi các chính sách.
Chưa có sự gắn kết triệt để giữa quy hoạch ngành và vùng, đặc biệt là đối với hệ thống hạ tầng thương mại tại các địa phương.
3.2. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 12/2014 ước đạt khoảng 273.293 tỷ đồng, tăng 2,61% so với tháng 11/2014. Tính cả năm 2014, tổng mức bán lẻ cả nước ước đạt 2.945.254 tỷ đồng, tăng 10,6% so với cùng kỳ năm 2013.
Trong các thành phần kinh tế tham gia thị trường, thành phần kinh tế ngoài nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất với 86,50%, tiếp đến là kinh tế nhà nước với tỷ trọng 10,18%, Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 3,32%. Nếu phân loại theo ngành kinh tế, ngành Thương nghiệp bán lẻ có mức đóng góp nhiều nhất là 75,25%, tiếp đến là ngành Lưu trú, Ăn uống và các ngành dịch vụ khác với mức đóng góp tương ứng là 11,98% và 11,79%. Ngành Du lịch có mức đóng góp tương đối khiêm tốn là 0,98%. Nguyên nhân do tình hình an ninh thế giới trong năm 2014 có nhiều diễn biến xấu khiến nhu cầu du lịch giảm sút.
(Nguồn số liệu:Tổng Cục Thống kê)
3.3. Chỉ số giá tiêu dùng
Dự báo chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2014 giảm 0,23% so với tháng trước, đưa chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2014 dự kiến tăng 1,86% so với tháng 12 năm 2013. Đây là mức tăng tương đối thấp so với các năm trước.
So với năm 2013, chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 có mức tăng lớn nhất ở nhóm Giáo dục với 5,76%. Các nhóm có mức tăng tương đối giống nhau (khoảng trên 4%) là Hàng ăn và dịch vụ ăn uống, Đồ uống và thuốc lá, May mặc, Nhà ở, Thuốc và dịch vụ y tế. Nhóm có mức tăng giá thấp là Giao thông (1,78%) do tác động của giá nhiên liệu giảm. Nhóm Bưu chính viễn thông có chỉ số giá giảm (0,25%) do tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng tăng.
Một trong những nguyên nhân giúp CPI năm 2014 thấp là giá xăng dầu giảm mạnh. Chỉ trong vòng nửa năm, giá xăng dầu thế giới giảm 30% và trong nước giảm 20%, kéo mạnh chi phí đầu vào xuống, làm lạm phát giảm. Bên cạnh đó, công tác kiểm soát lạm phát ở cấp Nhà nước và cấp thành phố đều được thực hiện tốt. Trong bối cảnh hàng hóa nhiều, khuyến mãi tốt, hệ thống bán lẻ phát triển tích cực nên người dân cảm thấy bình tĩnh để mua sắm chừng mực. Bên cạnh đó, một phần CPI thấp còn do sức mua của thị trường trong nước còn hạn chế.
Có một số ý kiến cho rằng CPI thấp là biểu hiện của giảm phát, tuy nhiên phân tích diễn biến về CPI các tháng năm 2014 cho thấy không phải như vậy: tháng 1 và 2 năm 2014 có mức tăng CPI tương ứng 0,69% và 0,55% so với tháng trước, đây là 2 tháng của Tết Nguyên đán 2014, tháng 3/2014, CPI giảm (-) 0,44%, theo đúng quy luật giảm sau Tết; từ tháng 4 sđến tháng 10, CPI dao động từ 0,08% đến 0,4%; CPI chỉ giảm trong 2 tháng liên tục là 11 và 12 tương ứng với (-) 0,26 và (-) 0,23%. Mặt khác, CPI năm 2014 là thấp so với những năm trước của Việt Nam còn so với mặt bằng chung của khu vực của thế giới, đây không phải là mức thấp. Hơn nữa, nếu tính theo mức CPI bình quân năm 2014 so với bình quân nam 2013 vẫn ở mức 3,95%. CPI tăng thấp cần được đánh giá là thành công chứ không phải là vấn đề cần lo lắng. Diễn biến này sẽ tạo điều kiện cho Chính phủ điều hành, nhà đầu tư, doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh. Lãi suất huy động có cơ hội giảm, kéo theo lãi suất cho vay giảm để doanh nghiệp tận dụng được nguồn vốn giá rẻ. Người dân cũng có lợi hơn khi mua sắm thực tế. Chi phí không bị tăng lên, số lượng hàng bán ra sẽ tốt lên, từ đó tác động tích cực lại sản xuất.
(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê)
3.4. Tình hình cung - cầu, giá cả một số mặt hàng trọng yếu
a. Xăng dầu
Giá xăng dầu trên thị trường thế giới thời điểm cuối năm liên tục giảm mạnh. Giá dầu thô tại sàn Nymex New York năm nay đã giảm 43%, xuống dưới 54 USD/thùng trong tuần trước khi sản lượng toàn cầu tăng. Giá dầu Brent giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm xuống còn 60,11 USD/thùng (giảm 46% trong năm nay, mức giảm lớn nhất kể từ năm 2008). Trong khi đó, giá dầu WTI ngọt nhẹ giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex New York giảm xuống mức 55,26 USD/thùng. Tuy nhiên, nhiều nhận định cho rằng giá dầu thế giới giảm chỉ mang tính “tạm thời” và nhu cầu dầu thô sẽ tăng trở lại khi kinh tế toàn cầu hồi phục.
Tại thị trường trong nước, sau đợt giảm giá xăng dầu lần thứ 12 liên tiếp vào ngày 22/12, tổng mức giảm đã lên tới 7.769 đồng một lít xăng, tổng mức giảm của dầu diezen là 5.830 đồng/lít. Dầu hoả đã có tổng giảm tới 5.550 đồng/lít và dầu madut đã giảm tổng cộng 5.560 đồng/kg. Mức giảm đột biến, chưa từng có trong nhiều năm trở lại đây, tới 2.050 đồng một lít xăng, giá xăng A92 hiện còn 17.880 đồng/lít. Giá các loại dầu cũng được điều chỉnh giảm mạnh, từ 1.420 đồng/lít,kg đến 1.690 đồng/lít,kg. Bên cạnh đó, Quỹ bình ổn xăng dầu cũng được trích lập tăng thêm 500 đồng/lít lên mức 800 đồng/lít.
Lượng xăng dầu nhập khẩu tháng 12 ước đạt 550 nghìn tấn, tương đương 395 triệu USD, tăng 10% so với tháng trước; lũy kế 12 tháng năm 2014 đạt 8.429 nghìn tấn, tăng 14,5% so với năm trước. Lượng dầu thô xuất khẩu tháng 12 ước đạt 850 nghìn tấn, tương đương 436 triệu USD, tăng 21,1% so với tháng trước. Lũy kế 12 tháng trong năm đã xuất 9.155 nghìn tấn, tăng 8,9% so với sản lượng năm 2013.
b. Thép xây dựng
Kết thúc tháng 11/2014, sản xuất ngành thép giảm 5,65% so với cùng kỳ năm 2013, trong khi sức tiêu thụ thép tăng 1,64% so với cùng kỳ năm 2013, nguyên nhân là do doanh nghiệp giảm sản xuất để giải quyết hàng tồn kho từ năm trước trong bối cảnh ngành bất động sản chưa lấy lại được đà phục hồi.
Dự kiến sản lượng thép sản xuất tháng 12 tăng nhẹ trong khi tiêu thụ chưa thể phục hồi do tình hình không mấy sáng sủa của ngành bất động sản.
Về giá bán: trong 15 ngày đầu tháng 12, giá bán lẻ thép xây dựng tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung dao động phổ biến ở mức 15.200 - 15.900 đồng/kg; tại các tỉnh Miền Nam từ 15.200 -15.700 đồng/kg.
c. Xi măng
Do ảnh hưởng của việc giảm bớt đầu tư công, mức tiêu thụ xi măng trong nước chỉ có sự tăng trưởng nhẹ so với năm 2013. các doanh nghiệp xi măng tiếp tục gặp khó khăn do chi phí tài chính cao. Đẩy mạnh thị trường xuất khẩu đã được nhiều doanh nghiệp chú trọng. Năm 2014 toàn ngành dự kiến xuất khẩu trên 15 triệu tấn.
Về giá cả: giá bán lẻ xi măng 15 ngày đầu tháng 12/2014 ổn định; tại các tỉnh miền Bắc, miền Trung hiện phổ biến từ 1.050.000 -1.550.000 đồng/tấn; tại các tỉnh miền Nam phổ biến từ 1.460.000 -1.850.000 đồng/tấn.
d. Phân bón
Hiện trên thị trường ure thế giới, các hồ sơ thầu mới liên tục được phát hành. Giá ure giao ngay và giá ure trong các phiên đấu thầu tiếp tục tăng. Đầu tháng 12/2013, thị trường thế giới ghi nhận giá ure tăng nhẹ. Giá ure hạt tại khu vực Đông Âu dao động khoảng 330-335 USD/tấn, tại Trung Đông khoảng 325-330 USD/tấn, tại Đông Nam Á khoảng 331-335 USD/tấn. Giá ure hạt đục tại Trung Quốc khoảng 345-355 USD/tấn, tại Đông Nam Á khoảng 325-335 USD/tấn…
Trong nước, nhu cầu phân bón cho vụ Đông Xuân đang tăng dần lên, tuy nhiên do nguồn cung phân bón vẫn khá lớn nên thị trường phân bón trong nước không xảy ra tình trạng khan hàng cũng như tăng giá đột biến. Trong 15 ngày đầu tháng 12, giá phân bón tại miền Bắc phổ biến ở mức 8.300-8.450 đồng/kg; tại miền Nam, phổ biến ở mức 8.000-8.430 đồng/kg.
e. Lương thực
Thị trường thế giới: Tháng 12/2014 và năm 2014 giá lúa gạo thế giới ổn định do nhu cầu yếu bởi nền kinh tế thế giới vẫn đang tiếp tục khủng hoảng, đặc biệt là trong tháng 12 giá dầu thế giới giảm mạnh dẫn đến các loại hàng hóa thế giới đều đồng loạt giảm. Giá gạo thế giới (ngày 23.12.2014) phổ biến ở mức giá như sau: gạo trắng hạt dài, chất lượng cao: Thái Lan 100% B mức 420-430 USD/tấn fob; Ấn Độ 385-395 USD/tấn fob; Việt Nam 385-395 USD/tấn; Pakistan 370-380 USD/tấn; Campuchia 466-470 USD/tấn fob; Mỹ 540-550 USD/tấn fob. Gạo thơm hạt dài: Thái Lan 890-900 USD/tấn fob; Việt Nam 525-535 USD/tấn fob; Campuchia 820-830 USD/tấn fob.
Thị trường trong nước: Giá lúa gạo so với cùng kỳ tháng 12/2013 ổn định, hiện giá lúa gạo phổ biến ở mức như sau: tại miền Bắc, giá thóc tẻ thường dao động phổ biến ở mức 6.200 - 8.500 đồng/kg, giá gạo tẻ thường dao động phổ biến ở mức 9.000 - 13.500 đồng/kg; tại Nam Bộ, giá lúa dao động ở mức 5.500 - 6.500 đồng/kg, tăng 200 - 400 đồng/kg; gạo thành phẩm xuất khẩu loại 5% tấm, giá trong khoảng 8.400 – 9.000đồng/kg, loại 25% tấm, giá khoảng 7.800 - 8.500 đồng/kg, tăng 400 - 700 đồng/kg.
Về tồn kho gạo, tính đến nay tồn kho gạo cả nước ước tính khoảng 1,05 triệu tấn, chưa kể lượng gạo tồn kho trong dân.
Dự báo trong tháng tới, giá lúa gạo có xu hướng tăng nhẹ đặc biệt là gạo chất lượng cao và gạo nếp do bắt đầu bước vào dịp Tết Nguyên đán 2014.
g)Thực phẩm
Giá thực phẩm tươi sống có xu hướng tăng nhẹ và ổn định (tùy loại) so với cùng kỳ. Thịt lợn hơi: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 44.000 - 48.000 đồng/kg, tăng 3.000- 5.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 42.000-47.000 đồng/kg, tăng 2.000 đồng/kg.
Thịt gà ta làm sẵn có kiểm dịch: Miền Bắc giá phổ biến khoảng 135.000-145.000 đồng/kg, tăng 5.000 đồng/kg; miền Nam giá phổ biến khoảng 120.000-130.000 đồng/kg, tăng 5.000-10.000 đồng/kg; gà công nghiệp làm sẵn ở mức 65.000-70.000 đồng/kg, tăng 5.000 đồng/kg.
Giá một số loại rau củ quả ổn định so với cùng kỳ tháng 12/2013: Bắp cải 13.000-16.000 đồng/kg; khoai tây 16.000-20.000 đồng/kg; cà chua 16.000-20.000 đồng/kg. Giá một số mặt hàng thuỷ hải sản như cá, tôm… ổn định. Cụ thể: Cá chép 70.000-85.000 đồng/kg; tôm sú 180.000-187.000 đồng/kg; cá quả 117.000-120.000 đồng/kg.
Dự báo giá lương thực, thực phẩm trong tháng tới sẽ tăng nhưng không đột biến do các địa phương và doanh nghiệp chủ động và sử dụng Quỹ bình ổn giá dự trữ đủ lượng hàng phục vụ nhu cầu của nhân dân trong dịp tết.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU HÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2015
1. Về phát triển ngành dịch vụ
1.1. Giải pháp chung
- Tiếp tục triển khai mạnh mẽ Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, trong đó tập trung các nhiệm vụ:
+ Các Bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình thúc đẩy xuất khẩu một số dịch vụ chủ yếu thuộc lĩnh vực phụ trách theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại văn bản số 4209/VPCP-KTTH ngày 10/6/2014 của Văn phòng Chính phủ.
+ Các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu đề xuất giải pháp đẩy mạnh phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, hàm lượng tri thức công nghệ cao theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại văn bản số 6033/VPCP-KTTH ngày 7/8/2014 của Văn phòng Chính phủ.
+ Tiếp tục triển khai Chương trình nâng cao nhận thức về khu vực dịch vụ (bao gồm các chiến dịch truyền thông, vận động xã hội, các hoạt động nâng cao nhận thức trong các cơ quan liên quan, các địa phương và các hiệp hội ngành nghề);
+ Tiếp tục rà soát, đánh giá môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ giai đoạn 2011 - 2015 và đề xuất các giải pháp thực hiện đến năm 2020.
- Xác định và đề xuất các văn bản chính sách để phát triển các dịch vụ kinh doanh.
- Tiếp tục hoàn chỉnh các quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong khu vực dịch vụ nhằm thu hút, phát huy hiệu quả nguồn vốn này, đồng thời, nghiên cứu xây dựng các mô hình mới cùng với những hướng dẫn cụ thể nhằm thu hút hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực dịch vụ trọng điểm, các lĩnh vực được khuyến khích phát triển, đảm bảo hiệu quả và lợi ích của nhà đầu tư, nhà nước và người sử dụng dịch vụ.
- Rà soát các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ trong TPP, RCEP... kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và cấp có thẩm quyền xem xét.
- Trong khuôn khổ hội nhập dịch vụ của ASEAN, xây dựng phương án đàm phán tối ưu, đặc biệt là Gói cam kết dịch vụ thứ 10, đảm bảo lợi ích của Việt Nam khi mở cửa thị trường dịch vụ hướng tới mục tiêu Cộng đồng ASEAN.
1.2. Giải pháp cho các lĩnh vực dịch vụ cụ thể
a. Dịch vụ du lịch
- Tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch, tăng cường công tác tuyên truyền trong nước, chống tư tưởng bài trừ khách du lịch, đặc biệt khách du lịch đến từ thị trường Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông...
- Tăng cường mạnh mẽ hoạt động tuyên truyền thông tại các thị trường quốc tế qua các kênh ngoại giao, đại sứ quán, công ty lữ hành, các tổ chức du lịch nhằm thông tin kịp thời, đầy đủ, giải thích về công tác đảm bảo an toàn, an ninh cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, giữ hình ảnh du lịch của Việt Nam.
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các địa phương, các Hiệp hội trong việc thúc đẩy nâng cao chất lượng giao thông vận tải, môi trường, văn hóa... đảm bảo an ninh, an toàn trên các tuyến đường vận chuyển khách du lịch.
- Đề xuất kéo dài thời hạn visa du lịch tại Việt Nam đối với một số thị trường trọng điểm của Việt Nam như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản...
- Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp giấp phép hướng dẫn viên du lịch đối với một số số thị trường khách du lịch không nói tiếng Anh như: Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản...
b. Dịch vụ vận tải
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, văn bản pháp lý về đầu tư, xây dựng. Có chính sách đầu tư đồng bộ để phát huy hiệu quả đầu tư.
- Tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống cảng biển, cảng hàng không theo hướng tập trung và hình thành cảng trung chuyển quốc tế. Nâng cao chất lượng các phương tiện vận tải và cải thiện chất lượng dịch vụ.
- Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành vận tải.
c. Dịch vụ viễn thông
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hạ tầng thông tin. Xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy định liên quan tới bưu chính, viễn thông.
- Tiếp tục điều chỉnh giá cước cho phù hợp, đa dạng hóa gói cước để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
- Các doanh nghiệp tăng cường đầu tư phát triển mạnh dịch vụ giá trị gia tăng, dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao.
- Nghiên cứu hoàn thiện công tác cấp phép và các biện pháp tổ chức, quản lý đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền.
- Đẩy mạnh ứng dụng CNTT, nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong đời sống xã hội.
- Chú trọng công tác hội nhập quốc tế, tăng cường công tác thông tin đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển bưu chính viễn thông.
2. Về xuất, nhập khẩu
- Đối với mặt hàng nông sản, bên cạnh việc nâng cao khả năng dự trữ tạo điều kiện cho việc ứng phó và điều tiết trước những biến động về giá trên thị trường thế giới, cần chú trọng hơn nữa về chất lượng sản phẩm để tăng giá trị các nhóm hàng sản xuất truyền thống không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng cũng như nâng cao được khả năng cạnh tranh.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại với các hoạt động chủ yếu là: tổ chức các gian hội chợ, triển lãm chuyên ngành, hoạt động giao thương xúc tiến các ngành hàng xuất khẩu có tiềm năng như thực phẩm chế biến, thủy sản, nông sản nhằm củng cố, phát triển thị trường xuất khẩu truyền thống, tiềm năng như EU, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... và khai thác thị trường xuất khẩu mới ở Tây Á; hỗ trợ công tác thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường, sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tìm kiếm cơ hội kinh doanh, ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông lâm thủy sản.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
3. Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Nâng cao hiệu quả điều hành vĩ mô thị trường: theo dõi sát sao diễn biến thị trường thế giới, dự báo tình hình cung - cầu trong nước để có các chính sách điều hành thị trường kịp thời, bình ổn được thị trường, không để giá cả tăng cao, đặc biệt là các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, sắt thép, phân bón...
- Chuẩn bị nguồn hàng trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mùi 2015, đảm bảo ổn định thị trường; tăng cường kiểm soát thị trường, giá cả, đảm bảo chất lượng và giá cả các mặt hàng, sản phẩm thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống, sức khoẻ nhân dân; thắt chặt công tác quản lý, kiểm tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, hàng giả.
- Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại thị trường nội địa, thị trường miền núi, hỗ trợ các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, giảm hàng tồn kho, đổi mới hệ thống thu mua, tiêu thụ, đưa hàng hóa về nông thôn nhằm hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý và đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối bán lẻ.
- Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp phân phối trong việc tham gia cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để đưa hàng hóa tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Tăng cường hiệu quả và quy mô của công tác quản lý thị trường, phát hiện và xử lý nghiêm tình trạng sản xuất và buôn bán hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, tăng giá bất hợp lý, nhằm đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng.
3.2. Giải pháp đối với một số mặt hàng trọng yếu
a. Xăng dầu
- Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trong Quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối xăng dầu giai đoạn 2010 – 2020, định hướng đến năm 2025.
- Theo dõi sát sao thị trường dầu thế giới để kịp thời điều chỉnh giá xăng dầu bán lẻ trong nước hợp lý, vừa đảm bảo được quyền lợi của người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp phân phối.
- Bảo đảm nguồn dầu nguyên liệu, đáp ứng tối đa yêu cầu về công suất của nhà máy lọc dầu Dung Quất.
- Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh doanh xăng dầu như Nghị định thay thế hoặc Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu trình Chính phủ xem xét, ban hành để có cơ sở điều hành về giá bán lẻ xăng dầu phù hợp trong thời gian tới.
- Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
b. Sắt thép
- Rà soát, tổ chức lại hệ thống lưu thông phân phối thép, giảm các tầng nấc trung gian.
- Thực hiện các biện pháp tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất, giảm định mức tiêu hao, hạ giá thành sản phẩm.
- Rà soát quy hoạch ngành thép, trong đó chỉ nên khuyến khích các dự án sản xuất các mặt hàng thép kỹ thuật cao, trong nước chưa sản xuất được.
c. Xi măng
- Rà soát quy hoạch ngành xi măng, nhằm đảm bảo cân bằng cung – cầu, ổn định giá bán, không để tình trạng mất cung vượt cầu quá lớn gây lãng phí tài nguyên của đất nước, gây ô nhiễm môi trường trong khi xuất khẩu chưa thực sự hiệu quả.
- Đảm bảo việc phân phối giữa các vùng, miền thông suốt, tránh tình trạng mất cân đối cục bộ gây sốt giá.
d. Phân bón
- Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón xây dựng hệ thống phân phối rộng khắp trên cả nước, nhằm đảm bảo cung – cầu, không gây ra tình trạng sốt giá cục bộ.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn luôn lậu phân bón, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và người nông dân.
e. Lương thực, Thực phẩm
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần chủ động phối hợp với các Bộ, ngành địa phương tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất với cơ cấu gieo trồng hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao chất lượng bảo quản, chế biến lúa gạo, từng bước xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Tiếp tục thực hiện chuyển đổi diện tích trồng lúa kém chất lượng sang trồng ngô, đậu tương để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi.
- Rà soát sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các chính sách hỗ trợ sản xuất (đặc biệt là đối với các lĩnh vực có tiềm năng phát triển như trồng và chế biến nông sản, chăn nuôi và giết mổ tập trung, đánh bắt và nuôi thủy sản xa bờ…). Chính sách liên kết các thành phần kinh tế ở nông thôn, chính sách hỗ trợ bảo quản sau thu hoạch, tín dụng và bảo hiểm nông nghiệp, thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các doanh nghiệp chủ động dự trữ nguồn hàng, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu các vùng miền trong cả nước./.
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư