Dự ước tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) năm 2020, tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá trị tăng thêm tăng 4,4%, thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,07%. Giá trị tăng thêm nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,24%; công nghiệp xây dựng tăng 14,36% (công nghiệp tăng 14,98%, xây dựng tăng 11,31%)...
Năm 2020 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, năm cuối cùng thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016-2020, chuẩn bị, tạo đà cho Kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2025. Trong bối cảnh dịch Covid-19 đã gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống của người dân trong tỉnh; tuy nhiên KT-XH năm 2020 của tỉnh vẫn tiếp tục duy trì được ổn định là nhờ sự chỉ đạo, điều hành kịp thời, quyết liệt của các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh và nỗ lực của người dân cùng cộng đồng doanh nghiệp. Sau khi các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng, cùng với tác động tích cực từ những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người dân của Chính phủ, các lĩnh vực KT-XH đang bước vào trạng thái hoạt động trong điều kiện bình thường mới, nhiều hoạt động sản xuất, kinh doanh trở lại hoạt động có sự khởi sắc ở 3 tháng cuối năm 2020.
Dự ước tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) năm 2020, tăng 4,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá trị tăng thêm tăng 4,4%, thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,07%. Giá trị tăng thêm nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,24%; công nghiệp xây dựng tăng 14,36% (công nghiệp tăng 14,98%, xây dựng tăng 11,31%).
Về cơ cấu kinh tế năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 28,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32,27%; khu vực dịch vụ chiếm 32,19%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,58%.
GRDP bình quân đầu người ước năm 2020 đạt 66,2 triệu đồng/người/năm, tương đương 2.865 USD, tăng 123 USD so năm 2019; năng suất lao động tiếp tục có sự cải thiện đáng kể, ước năm 2020 đạt 116,1 triệu đồng/người/năm, tăng 5,2% so năm 2019.
I. Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong năm 2020 của tỉnh chịu tác động bởi thời tiết nắng hạn kéo dài, mùa mưa đến muộn, lượng nước tích trữ tại các hồ chứa không đủ cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân, gây thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp tại một số khu vực trên địa bàn tỉnh (theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã công bố tình huống khẩn cấp do hạn hán cấp độ 2 trên địa bàn tỉnh), dẫn đến sản xuất vụ đông xuân kết thúc muộn, kéo theo thời vụ sản xuất vụ hè thu và vụ mùa trễ hơn so với cùng kỳ năm trước.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định; bệnh dịch tả lợn Châu Phi cơ bản đã được khống chế hoàn toàn, tạo điều kiện cho người chăn nuôi tái đàn, chuyển từ nuôi nhỏ lẻ sang hình thức nuôi trang trại, gia trại; chăn nuôi gia cầm phát triển khá, môi trường nuôi của các cơ sở được tăng cường công tác vệ sinh phòng dịch, giá bán các loại gia cầm nhìn chung ổn định.
Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã tác động trực tiếp đến sản xuất và xuất khẩu, tiêu thụ hàng nông, lâm, thuỷ sản. Triển khai trồng rừng mới tập trung được thuận lợi. Nuôi trồng thuỷ sản, do thời tiết nóng, ẩm, mưa nhiều một số khu vực nuôi tôm xảy ra bệnh; trong khai thác thuỷ sản, thời tiết ngư trường 2 tháng đầu năm không thuận, hoạt động đánh bắt ít hiệu quả; từ đầu tháng 3 trở đi thời tiết thuận lợi hơn, hoạt động đánh bắt có hiệu quả cùng với giá xăng dầu giảm, góp phần giảm chi phí, khuyến khích ngư dân bám biển; tuy nhiên, do tác động của dịch Covid-19 ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm thủy sản và các doanh nghiệp thu mua, xuất khẩu thủy sản cũng hạn chế thu mua do hàng tồn kho nhiều nên tiêu thụ chậm, giá bán và hiệu quả kinh tế thấp. Trong năm 2020 không có tàu cá nào của tỉnh vi phạm vùng biển nước ngoài (IUU). Tình hình dịch bệnh nghiêm trọng trên các loại cây trồng, vật nuôi không xảy ra.
1. Trồng trọt
* Cây hàng năm: Bước vào sản xuất vụ đông xuân và hè thu, thời tiết nắng nóng kéo dài, lượng nước tích trữ tại các hồ chứa cạn dần, gây thiếu nước sản xuất tại một số khu vực, các địa phương phải điều chỉnh, cắt giảm không bố trí sản xuất 13.986 ha cây lương thực vụ Đông Xuân (lúa 13.216 ha, bắp 770 ha) so với kế hoạch; do vụ đông xuân 2019 - 2020 xuống giống muộn nên một số địa phương triển khai sản xuất vụ hè thu 2020 chậm.
Diện tích gieo trồng cây hàng năm ước 185.541,4 ha, đạt 98,7% kế hoạch năm, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước (Trong đó, diện tích cây lúa ước đạt 109.657 ha, đạt 100,62% kế hoạch, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước). Sản lượng lương thực cả năm ước đạt 742.383,6 tấn, đạt 91,54% kế hoạch năm, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước (Trong đó, sản lượng lúa cả năm ước đạt 642.012,7 tấn, đạt 98,11% kế hoạch năm, giảm 6,9% so với cùng kỳ năm trước; năng suất lúa bình quân ước đạt 58,6 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước).
Để phát huy hiệu quả sử dụng đất và tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi 9.238 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây khác hiệu quả hơn, chủ yếu là cây ngắn ngày; các loại cây trồng chuyển đổi trên đất lúa đều cho năng suất, hiệu quả cao hơn so với sản xuất lúa, bước đầu tạo hiệu ứng tích cực trong sản xuất nông nghiệp, nhất là tạo hướng đi mới trên đất canh tác lúa nước từ quảng canh, thu nhập thấp sang luân canh có thu nhập cao, tiết kiệm nước tưới.
* Cây lâu năm: Trong năm 2020 thị trường xuất khẩu nông sản gặp khó khăn, giá sản phẩm đầu ra như: Thanh long, cao su, tiêu,... thấp đã ảnh hưởng nhiều đến việc phát triển diện tích các loại cây lâu năm trên địa bàn tỉnh. Tổng diện tích trồng cây lâu năm 2020 sơ bộ đạt 109.409,4 ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ (+1.970,2 ha), trong đó: Diện tích cây công nghiệp lâu năm 63.398,4 ha tăng 0,3% so với cùng kỳ (tăng 203,65 ha); cây ăn quả lâu năm đạt 44.286,9 ha tăng 4,0% so với cùng kỳ (tăng 1.702,4 ha); các loại cây lâu năm còn lại 1.724,1 ha tăng 3,9 % so với cùng kỳ (tăng 64,3 ha). Đến thời điểm 15/12/2020 toàn tỉnh có 11.419,5 ha thanh long được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.
* Tình hình dịch bệnh trên các loại cây trồng: Công tác ngăn ngừa, phòng chống dịch bệnh trên cây trồng được triển khai thường xuyên, tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, chỉ xảy ra dưới dạng cục bộ và ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng.
- Cây lúa: sâu cuốn lá diện tích nhiễm 2.676 ha, tăng 317 ha so với cùng kỳ năm trước; bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 2.378 ha, tăng 561 ha; bệnh bạc lá do vi khuẩn diện tích nhiễm 530 ha, giảm 1.451 ha; bọ trĩ diện tích nhiễm trong kỳ là 2.411 ha, tăng 1.243 ha.
- Cây thanh long: Bệnh đốm nâu cành, quả thanh long diện tích nhiễm 6.740 ha, tăng 1.970 ha so với cùng kỳ năm trước; bệnh vàng cành 5.873 ha, tăng 3.830 ha; bệnh thối rễ tóp cành 2.141 ha, tăng 1.602 ha; bệnh bọ trĩ, bọ xít và bọ xòe gây hại với diện tích 1.021 ha, giảm 29,82%.
- Cây điều: Bệnh thán thư diện tích nhiễm bệnh thán thư, khô bông 238 ha, giảm 978 ha so với cùng kỳ năm trước; bệnh bọ xít muỗi: diện tích nhiễm toàn tỉnh là 1.494 ha, tăng 677 ha.
- Cây tiêu: Diện tích nhiễm bệnh chết nhanh 60 ha, giảm 20 ha và bệnh chết chậm 40 ha, tăng 10 ha so với cùng kỳ năm trước.
- Cây bắp:diện tích nhiễm sâu keo mùa thu 1.398 ha, giảm 787 ha so với cùng kỳ năm trước.
- Cây mì: diện tích nhiễm bệnh khảm lá virus 2.606 ha, tăng 2.033,5 ha so với cùng kỳ năm trước.
- Các loài sâu bệnh gây hại trên những cây trồng khác xuất hiện và gây hại với mật số không đáng kể và không có khác biệt nhiều so với cùng kỳ năm 2019.
* Tình hình tưới tiêu năm 2020: Tổng diện tích được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện thực hiện 101.154 ha, đạt 100,5% so với kế hoạch; trong đó, cây lúa và màu 80.774 ha; thanh long 19.938 ha, nuôi trồng thủy sản 442 ha.
2. Chăn nuôi:
Tình hình chăn nuôi tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp có kiểm soát an toàn dịch bệnh và môi trường. Chăn nuôi lợn đang dần phục hồi sau bệnh dịch tả lợn Châu Phi, giá thịt hơi ở mức cao nên nhiều doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi mở rộng tái đàn; chăn nuôi gia cầm phát triển thuận lợi, tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm cơ bản được kiểm soát tốt, nhiều trang trại nuôi gà công nghiệp CP được thành lập mới trong năm.
So với cùng kỳ, đàn trâu 8.730 con, giảm 1,47%; bò 171.010 con, tăng 2,25%; đàn gia cầm 3.850 ngàn con, tăng 5,48%; đàn lợn 308.880 con, tăng 14,7%; chăn nuôi lợn đang chuyển từ chăn nuôi hộ, gia trại nhỏ lẻ sang quy trang trại, doanh nghiệp công nghệ cao, chăn nuôi nông hộ giảm do trong những năm gần đây tình hình đô thị hoá, các hộ chăn nuôi lợn nằm trong khu dân cư, ô nhiễm nên một số địa phương như Phan Thiết, La Gi giảm dần. Đàn gia cầm đạt 4.243 ngàn con, tăng 16,27% so với cùng kỳ; trong đó, đàn gà 2.850 ngàn con, tăng 40,8%; đàn vịt 1.230 ngàn con giảm 15,9%; đàn gà có khuynh hướng tăng mạnh, do nhiều trang trại chăn nuôi gà công nghiệp theo mô hình CP thành lập trong thời gian gần đây, đàn vịt, ngan có khuynh hướng giảm do những tháng đầu năm mưa chậm, nhiều hộ chăn nuôi vịt chạy đồng đã chủ động giảm đàn.
Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2020 ước đạt 68.353,8 tấn, tăng 19,9% cùng kỳ năm trước; trong đó, thịt bò 8.078 tấn tăng 3,6%; thịt lợn 46.850 tấn tăng 16,8%; thịt gia cầm các loại 12.828,6 tấn tăng 53,8%. Sản lượng trứng gia cầm 96.818 ngàn quả, tăng 12,8% so cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại gia súc, gia cầm đủ khả năng cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và xuất bán các tỉnh lận cận trong dịp Tết đến nguyên đán.
* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật
Tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh ổn định, một số bệnh truyền nhiễm xảy ra trên gia súc, gia cầm ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch. Để chủ động phòng, chống dịch bệnh có thể xảy ra, ngành thú y tỉnh đã phối hợp với các địa phương tăng cường giám sát dịch bệnh, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp gia súc, gia cầm bị bệnh; thực hiện triển khai tổng vệ sinh, khử trùng, tiêu độc môi trường tại các vùng trọng điểm, vùng nguy cơ cao thường xuất hiện dịch bệnh trên địa bàn để tiêu diệt các mầm bệnh; vận động người chăn nuôi thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học; kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển gia súc, gia cầm và quản lý giết mổ động vật.
- Công tác tiêm phòng: Trong tháng đã tổ chức tiêm phòng 918.268 liều vắc xin; trong đó, đàn trâu bò 32.202 liều, đàn lợn 24.821 liều, đàn gia cầm 860.206 liều; luỹ kế đến ngày 15/12/2020 đã tiêm phòng 23,7 triệu liều vắc xin; trong đó, đàn trâu bò 0,2 triệu liều, đàn lợn 0,6 triệu liều, đàn gia cầm 22,9 triệu liều.
- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch đàn lợn 69.064 con, 1.663 con trâu bò, 342.900 con gia cầm, 5.680 kg thịt dê, 2,9 triệu quả trứng gia cầm; luỹ kế đến ngày 15/12/2020 đã kiểm dịch 1,02 triệu con lợn, 11.093 con trâu bò, 2,72 triệu con gia cầm, 208 con dê, 54.292 kg thịt dê, 30,7 triệu quả trứng gia cầm.
- Kiểm soát giết mổ: Trong tháng đã kiểm soát giết mổ 289 con trâu bò, 3.041 con lợn, 4.146 con gia cầm, 272 con dê; luỹ kế đến ngày 15/12/2020 đã kiểm soát 2.645 con trâu bò, 30.469 con lợn, 64.003 con gia cầm, 2.557 con dê.
3. Lâm nghiệp:
- Công tác trồng rừng: Trong tháng, diện tích rừng trồng mới đạt 200 ha, dự ước cả năm đạt 2.200 ha, tăng 1,38% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích rừng sản xuất được chăm sóc bảo vệ của cả năm 4.510 ha, giảm 4,6% so với cùng kỳ; trong đó, diện tích rừng sản xuất 411 ha, diện tích rừng phòng hộ 380 ha, diện tích rừng đặc dụng 12 ha. Diện tích khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên cả năm 5.750 ha (giảm 3,4% so với cùng kỳ). Diện tích rừng được giao khoán bảo vệ cả năm 132.792, tăng 1,4% so với cùng kỳ. Khai thác, thu nhặt gỗ và lâm sản khác, năm 2020 các đơn vị đã khai thác được 260.000 m3 gỗ (tăng 2,6% so với cùng kỳ) và 290.000 ste củi (giảm 0,4% so với cùng kỳ).
- Công tác phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR): Trong tháng không xảy ra cháy rừng trên địa bàn tỉnh. Lũy kế đến ngày 15/12/2020 đã xảy ra 41 trường hợp, với diện tích 67 ha cháy thực bì dưới tán lá rừng.
- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Các đơn vị các cấp ở địa phương tiếp tục tăng cường thực hiện đồng bộ các biện pháp PCCCR trong mùa nắng nóng, hạn chế thấp nhất cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng gây ra; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, phát triển rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp; theo dõi diễn biến rừng; sử dụng công nghệ thông tin lâm nghiệp; tập huấn công tác quản lý bảo vệ rừng tại gốc các đơn vị liên quan, bảo vệ rừng ở cơ sở. Số vụ vi phạm Luật lâm nghiệp tính đến ngày 01/12/2020 là 275 vụ: vi phạm về phá rừng trái phép 14 vụ, vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản 74 vụ, vi phạm về quản lý động vật hoang dã, mua bán, vận chuyển lâm sản trái phép: 102 vụ , vi phạm khác 85 vụ.
4. Thuỷ sản:
- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Ước trong tháng đạt 259,2 ha, giảm 6,8% so với tháng cùng kỳ; dự ước cả năm 2020, đạt 2.964,7 ha, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, diện tích nuôi cá ước đạt 1.887 ha, giảm 1,9%; diện tích nuôi tôm 1.048,9 ha, giảm 2,6%).
- Sản lượng nuôi trồng: Ước trong tháng đạt 1.223,9 tấn, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước cả năm 2020, đạt 14.000 tấn, giảm 1,3% so với cùng kỳ giảm chủ yếu ở tôm nuôi (trong đó, tôm sú ước 232 tấn giảm 4,3% so với cùng kỳ; tôm thẻ sản lượng ước 7.925 tấn, giảm 2,6% so với cùng kỳ). Nguyên nhân giảm do từ đầu năm nhiều hộ nuôi hạn chế thả giống, một số diện tích bị thu hẹp.
- Sản lượng khai thác: Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng ước đạt 17.857,4 tấn giảm 0,5% so tháng cùng kỳ; dự ước cả năm 2020, đạt 221.635 tấn tăng 0,6% so với cùng kỳ (trong đó, khai thác biển đạt 220.985 tấn tăng 0,6 so với cùng kỳ, khai thác nội địa đạt 650 tấn, giảm 5,1% so với cùng kỳ).
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác hải sản xa bờ gắn với dịch vụ hậu cần trên biển. Số lượng tàu ước năm 2020 có 6.700 chiếc, giảm 0,2 % so với cùng kỳ, tổng công suất ước 1.100.000 CV giảm 4,3%; trong đó, tàu cá từ 15 m trở lên 1.950 chiếc tăng 2,5% so với cùng kỳ.
Khai thác thuỷ sản nội địa có xu hướng giảm do tác động môi trường, diện tích mặt nước ngày càng thu hẹp, các loại thuỷ sản được khai thác ở các sông, suối đầm hồ thuỷ lợi chủ yếu là các loại cá rô, lóc, trạch, trê, tôm, cua,… sản lượng không đáng kể.
- Sản xuất giống thuỷ sản: Năm 2020 sản lượng tôm giống của tỉnh ước 24 tỷ post giảm 1,9% so năm trước; nguyên nhân giảm do giá tôm thịt trên thế giới và thị trường trong nước trong 6 tháng đầu năm giảm, mức tiêu thụ và xuất khẩu giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Giống thủy sản là một trong những sản phẩm lợi thế của tỉnh, tôm giống Bình Thuận được đánh giá có chất lượng tốt với tỷ lệ nuôi thành công cao, các cơ sở và doanh nghiệp sản xuất tôm giống tập trung chủ yếu ở huyện Tuy Phong, Phan Thiết.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Công tác quản lý, khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản luôn được tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Tính đến ngày 10/12/2020, đã phát hiện và xử lý 446 trường hợp vi phạm với tổng số tiền xử phạt 3,2 tỷ đồng. Trong năm không có tàu cá nào của tỉnh vi phạm vùng biển nước ngoài.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển
1. Công nghiệp:
Trong năm 2020, nhóm ngành sản xuất, chế biến gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu, các đối tác ở các thị trường xuất khẩu tạm dừng các đơn đặt hàng và sản xuất do ảnh hưởng của dịch Covid-19; nhóm ngành công nghiệp khai khoáng, nhằm chuẩn bị vật tư cung cấp cho công trình thi công đường cao tốc nên sản lượng khai thác cát, sỏi và đá xây dựng vẫn tiếp tục tăng. Riêng nhóm ngành sản xuất, phân phối điện, nước nóng, hơi nước ít chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 tiếp tục đóng góp cao vào giá trị sản xuất công nghiệp.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010), dự ước cả năm 2020 đạt 36.390,2 tỷ đồng, tăng 10,02% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, công nghiệp khai khoáng 755,9 tỷ đồng, tăng 12,70%; công nghiệp chế biến, chế tạo 17.334,6 tỷ đồng, tăng 2,66%; sản xuất và phân phối điện 18.019,8 tỷ đồng, tăng 18,17%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 279,9 tỷ đồng, tăng 3,53%. Nhóm ngành sản xuất và phân phối điện tiếp tục đóng góp lớn vào tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Sản lượng điện sản xuất tháng 12 ước đạt 2.477 triệu kWh, tăng 16,32% so với cùng kỳ năm trước; dự ước cả năm 2020, đạt 31.569 triệu kWh, tăng 17,74% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 ước tăng 15,05% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành khai khoáng tăng 5,64%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,72%, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 18,41%, ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,79%.
Tính chung cả năm 2020, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 13,94% so với cùng năm trước (12 tháng năm 2019 tăng 33,03%); trong đó, ngành khai khoáng tăng 14,08%, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhẹ 0,19%, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 17,84%, ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,93%.
* Xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Sản xuất kinh doanh quý IV/2020 so quý III/2020: Qua khảo sát các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến chế tạo cho thấy có 37,14% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; có 28,57% đánh giá khó khăn và có 34,29% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.
+ Có 35,48% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đánh giá tình hình sản xuất có chiều hướng tốt lên; có 37,1% cho rằng có chiều hướng giữ nguyên; tuy nhiên có 27,42% cho rằng có chiều hướng giảm (khó khăn hơn).
+ Có 42,86% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh có chiều hướng tốt lên; có 14,29% cho rằng có chiều hướng giữ nguyên; tuy nhiên có 42,86% cho rằng có chiều hướng giảm (khó khăn hơn).
+ Về số lượng đơn đặt hàng mới, có 31,43% số doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng quý IV/2020 cao hơn quý trước; có 22,86% số doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng giảm và có 45,71% số doanh nghiệp đánh giá đơn đặt hàng ổn định.
+ Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý tiếp theo so với IV/2020: Có 81,42% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, trong đó, có 45,71% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn; có 35,71% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và có 18,57% dự báo khó khăn hơn.
+ Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý IV/2020 so với quý III/2020, có 44,29% doanh nghiệp đánh giá do thiếu nguyên nhiên vật liệu; có 37,14% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường trong nước thấp; có 18,75% doanh nghiệp đánh giá do nhu cầu thị trường quốc tế thấp; có 35,71% doanh nghiệp cho rằng do không tuyển được lao động theo yêu cầu; có 40,0% doanh nghiệp cho rằng do gặp khó khăn về tài chính; có 32,86% doanh nghiệp đánh giá do lãi suất vay vốn cao và có 14,29% doanh nghiệp đánh giá lý do khác (đa số cho rằng ảnh hưởng dịch Covid-19 gây nên).
2. Đầu tư phát triển:
Công tác đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh trong năm 2020 đã triển khai theo kế hoạch và đẩy nhanh tiến độ, thi công các công trình nhà ở để hoàn thành trong năm. Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát các dự án đầu tư công; kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công.
Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 306,8 tỷ đồng, tăng nhẹ 0,07% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước cả năm 2020, đạt 4.010 tỷ đồng, đạt 99,93% so với kế hoạch năm 2020 và tăng 38,72% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 3.230,6 tỷ đồng, tăng 46,94%, đạt 99,93% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 694,5 tỷ đồng, tăng 13,41%, đạt 99,93% kế hoạch năm; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 84,92 tỷ đồng, tăng 6,37%, đạt 99,91% kế hoạch năm.
Các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án trọng điểm của tỉnh trong năm 2020 đã được quan tâm triển khai thực hiện; được ưu tiên bố trí vốn; định kỳ hàng tháng, rà soát đánh giá tiến độ thực hiện của từng dự án, giải quyết kịp thời các vướng mắc khó khăn,…
3. Đăng ký kinh doanh:
Trong năm 2020, số doanh nghiệp đã giải thể 353 doanh nghiệp (có 226 đơn vị trực thuộc), tăng 24,30% so với cùng kỳ năm trước, do bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 một số lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp bị thiệt hại nặng nề, tuy có dấu hiệu phục hồi, nhưng kết quả vẫn chưa khả quan.
Tháng 12 (tính từ ngày 15/11 đến ngày 15/12/2020), có 116 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 57 đơn vị trực thuộc), tăng 30,34% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký mới 640,53 tỷ đồng, tăng 24,92% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp đã giải thể 80 doanh nghiệp (trong đó, có 69 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2,8 lần so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 16 doanh nghiệp (trong đó có 2 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước; đăng ký chuyển đổi loại hình 6 doanh nghiệp, giảm 40% so với cùng kỳ năm trươc; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 6 doanh nghiệp (không có đơn vị trực thuộc), bằng với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế 12 tháng (đến ngày 15/12/2020), có 1.394 doanh nghiệp thành lập mới (có 479 đơn vị trực thuộc), tăng 10,28% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký 9.390,25 tỷ đồng, giảm 16,32% so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 270 doanh nghiệp (có 57 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước (điều này cho thấy sự ảnh hưởng rất lớn của dịch Covid-19 đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh); số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 127 doanh nghiệp (trong đó có 25 đơn vị trực thuộc), tăng 20,95% với cùng kỳ năm trước.
4. Đăng ký đầu tư:
Trong năm 2020, toàn tỉnh có 88 dự án được cấp, điều chỉnh Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, giảm 02 dự án so với cùng kỳ; với tổng diện tích 569 ha, giảm 36% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký 11.040 tỷ đồng, giảm 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế cả năm (đến ngày 15/12/2020), trên địa bàn tỉnh có 1.589 dự án được cấp, với tổng diện tích đất 50.031 ha và tổng vốn đăng ký 321.179 tỷ đồng. Từ đầu năm đến ngày 15/12/2020, có 10 dự án khởi công, 03 dự án đi vào hoạt động và 11 dự án bị thu hồi.
Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng. Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 trên địa bàn.
III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả:
Hoạt động thương mại, dịch vụ trong năm 2020 duy trì ở mức tăng trưởng thấp so với cùng kỳ do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Thực hiện Chỉ thị số 16/CP-TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về giãn cách xã hội, một số ngành dịch vụ phải tạm ngưng hoạt động ở các tháng đầu quý II và quý III/2020; giá cả nhiều mặt hàng thực phẩm tăng cao, người tiêu dùng đã cắt giảm chi tiêu, phần nào ảnh hưởng đến tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn. Đến nay, tình hình dịch Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát trong phạm vi cả nước, hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh đần trở lại bình thường, các hoạt động mua sắm hàng hoá, dịch vụ, tiêu dùng của người dân đang tăng trở lại. Các chợ, cửa hàng tiện ích, siêu thị, trung tâm thương mại bảo đảm cung ứng đầy đủ hàng hoá thiết yếu, không có biến động về giá, đồng thời người dân có xu hướng thay đổi hành vi tiêu dùng theo hình thức mua sắm trực tuyến. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống đã mở cửa trở lại, tâm lý người dân đã bớt lo ngại, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước vẫn giảm mạnh, nhất là ngành dịch vụ du lịch.
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 12 ước đạt 6.029,2 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 1,07% và tăng 14,81% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 4.039,8 tỷ đồng, tăng 1,78% so tháng trước và tăng 17,7% so với tháng cùng kỳ năm trước; dịch vụ ước đạt 620,3 tỷ đồng, tăng 1,59% so tháng trước và tăng 8,42% so tháng cùng kỳ năm trước; lưu trú, ăn uống ước đạt 1.369 tỷ đồng, giảm 9,61% so tháng trước và tăng 9,79% so tháng cùng kỳ năm trước. Dự ước cả năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước đạt 60.503,5 tỷ đồng, tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 41.940,1 tỷ đồng, tăng 9,09% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ước đạt 6.293,9 tỷ đồng, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; lưu trú, ăn uống ước đạt 12.269,4 giảm 8,85% so với cùng kỳ năm trước).
Công tác quản lý thị trường được tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, quản lý địa bàn, nắm bắt tình hình giá cả, biến động của thị trường qua đó phát hiện nhanh, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để hàng hoá lưu thông trên thị trường, đảm bảo an toàn thực phẩm, sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng gây bất ổn thị trường. Việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật. Trong tháng 11 năm 2020, lực lượng Quản lý thị trường đã kiểm tra 121 vụ, phát hiện và xử lý 53 vụ vi phạm, trong đó 01 vụ vi phạm hàng cấm, 19 vụ hàng nhập lậu; 08 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 16 vụ vi phạm trong kinh doanh và 09 vụ vi phạm khác... lực lượng Quản lý thị trường đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 273,5 triệu đồng. Luỹ kế 11 tháng năm 2020, đã kiểm tra 1.624 vụ, phát hiện và xử lý 391 vụ vi phạm trong đó có 49 vụ vi phạm hàng cấm, 76 vụ vi phạm hàng nhập lậu, 12 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng và sở hữu trí tuệ; 34 vụ vi phạm đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 109 vụ vi phạm trong kinh doanh, 30 vụ vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, 81 vụ vi phạm trên các lĩnh vực khác... đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 3.093 triệu đồng.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 so với tháng trước tăng 0,37%; so với tháng cùng kỳ năm trước tăng 0,15%. Bình quân 12 tháng năm 2020 tăng 3,51% so với bình quân 12 tháng năm 2019. Trong tháng, do giá gas được điều chỉnh tăng lên 6.500 đ/bình, giá xăng dầu được điều chỉnh tăng (A95 tăng 1.300 đ/lít, E5 tăng 1.240 đ/lít, dầu diezel tăng 1.060 đ/lít) là nguyên nhân làm chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2020 tăng.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng chính có 8 nhóm hàng tăng giá: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,1%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,97%; May mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,23%; Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,11%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%; giao thông tăng 2,36%; Giáo dục tăng 0,42%; Hàng hoá và dịch vụ khác tăng 0,33%. Có 3 nhóm hàng trong tháng giá ổn định: Thuốc và dịch vụ y tế; Bưu chính viễn thông và Văn hoá, giải trí và du lịch không tăng/giảm so với tháng trước.
2. Du lịch:
Trong năm 2020, đây là ngành bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi dịch Covid-19 gây ra, làm cho các chính sách kích cầu du lịch nội địa không thể thực hiện, nhiều khách du lịch hủy tour và nhiều sự kiện lễ hội văn hoá hủy bỏ, một số địa điểm tham quan phải đóng cửa do dịch Covid-19 bùng phát trở lại trên cả nước; đồng thời do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế, nên lượng du khách nội địa và quốc tế đến tỉnh bị sụt giảm rất lớn, đặc biệt là khách quốc tế. Tình hình hoạt động du lịch trong 2 tháng cuối năm có dấu hiệu khả quan do khống chế được dịch, tuy nhiên vẫn còn giảm sâu so với cùng kỳ năm trước. Các tháng cận tết, các công ty du lịch lữ hành đang chuẩn bị kế hoạch cho các tour du lịch cuối năm, công tác tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch đang được ngành du lịch tích cực triển khai. Công tác kích cầu du lịch được tiếp tục thực hiện, trong đó chú trọng tính mới, độc đáo, giá thấp và có thêm khuyến mãi đa dạng để phục hồi lại ngành du lịch trong thời gian tới.
Dự ước trong tháng 12, các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 386,8 ngàn lượt khách, giảm 12,15% so với tháng trước và giảm 36,6% so với tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách phục vụ đạt 738,1 ngàn ngày khách, giảm 11,04% so với tháng trước và giảm 28,25% so với tháng cùng kỳ năm trước. Dự ước cả năm 2020, đạt 3.295,1 ngàn lượt khách, giảm 48,57% so với cùng kỳ năm trước; số ngày khách phục vụ ước đạt 5.942,4 ngàn ngày khách, giảm 44,29% so với cùng kỳ năm trước.
Lượng khách quốc tế đến tỉnh trong tháng 12 tiếp tục sụt giảm, đạt 1,06 ngàn lượt khách, giảm 55,42% so với tháng trước và giảm 98,53% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước cả năm 2020, khách quốc tế đến tỉnh đạt 171,2 ngàn lượt khách, giảm 77,88% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ đạt 614,7 ngàn ngày khách, giảm 74,29% so với cùng kỳ năm trước. Lượng khách quốc tế đến Bình Thuận chủ yếu dịch chuyển từ vùng này sang vùng khác trong cả nước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 12 ước đạt 828,9 tỷ đồng, giảm 14,9% so với tháng trước và giảm 39,36% so với cùng kỳ năm trước; dự ước cả năm 2020, đạt 9.400,4 tỷ đồng, giảm 38,16% so với cùng kỳ năm trước.
3. Xuất, nhập khẩu:
Trong năm 2020, diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 ở trong nước và trên thế giới ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất, nhập khẩu của tỉnh. Những tháng cuối năm hoạt động xuất nhập khẩu đang dần phục hồi, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất khẩu được hàng hoá vào các thị trường truyền thống như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN,...
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 12 ước đạt 43,3 triệu USD, tăng 12,45% so với tháng trước và tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 14,2 triệu USD, tăng 3,21% so với tháng trước và tăng 34,48% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 0,9 triệu USD, tăng 9,43% so với tháng trước và giảm 40,2% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá khác ước đạt 28,3 triệu USD, tăng 6,33% so với tháng trước và tăng 0,64% so với cùng kỳ năm trước.
Dự ước cả năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 464,5 triệu USD, tăng 0,18% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, nhóm hàng thuỷ sản đạt 159 triệu USD, tăng 16,77%; nhóm hàng nông sản ước đạt 12,5 triệu USD, giảm 4,65% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá khác ước đạt 293 triệu USD, giảm 6,8% so với cùng kỳ năm trước. Khu vực kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu, đạt 379,5 triệu USD, tăng 7,68% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 81,7 triệu USD, giảm 70,07% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xuất khẩu trực tiếp dự ước cả năm 2020, đạt 445,8 triệu USD, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường xuất khẩu: Thị trường Châu Á ước đạt 297,93 triệu USD, tăng 2,09% so với cùng kỳ năm trước (tăng chủ yếu ở thị trường Trung Quốc các mặt hàng tôm, giày dép, thanh long, quặng; Nhật Bản các mặt hàng cá, bạch tuộc, các sản phẩm giấy,…). Thị trường Châu Âu đạt 59,43 triệu USD, tăng 3,03% so với cùng kỳ năm trước (tăng chủ yếu ở thị trường Anh các mặt hàng giày dép, tôm); Đức các mặt hàng tôm thẻ; Hà Lan các mặt hàng tôm thẻ; Bỉ các mặt hàng đồ gỗ nội thất). Thị trường Châu Mỹ đạt 83,79 triệu USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước (giảm chủ yếu ở thị trường Belizơ các mặt hàng đế giày và gót giày; Canada các mặt hàng giày dép).
+ Ủy thác xuất khẩu dự ước cả năm 2020, đạt 18,7 triệu USD, giảm 4,72% so với cùng kỳ (chủ yếu giảm ở mặt hàng áo sơ mi, quần dài).
- Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá trong tháng 12 ước đạt 55,4 tỷ USD, tăng 32,3% so với cùng kỳ năm trước, tiếp tục cho thấy hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trong tỉnh bước đầu đã dần phục hồi, các doanh nghiệp đã và đang chuẩn bị kế hoạch sản xuất phục vụ cho nhu cầu cuối năm, điều này thể hiện qua số liệu nhập khẩu hàng thuỷ sản tăng 148,87; lúa mỳ tăng 6,31 lần; gỗ và các sản phẩm từ gỗ tăng 38,3%; sản phẩm từ sắt thép tăng 14,15%; dây điện và dây cáp điện tăng 38,28% so với cùng kỳ năm trước.
Dự ước cả năm 2020, nhập khẩu đạt 767 triệu USD, giảm 14,78% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực kinh tế trong nước giảm 15,61%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 5,46% (các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như thức ăn gia súc, hàng thủy sản, nguyên liệu dệt may da giày). Thị trường nhập khẩu chủ yếu như Ấn Độ, Nhật Bản, Canada, Singapore, Trung Quốc,...
Trong năm 2020, do ảnh hưởng dịch Covid-19 hoạt động vận tải trên địa bàn không được thuận lợi. Các đơn vị kinh doanh vận tải hành khách và hàng hoá thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19. Theo đó, tạm dừng hoạt động của các phương tiện vận chuyển hành khách và hàng hoá, hạn chế tối đa việc di chuyển từ địa bàn, khu vực này sang địa bàn, khu vực khác. Mặc dù đến nay hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh đã trở lại bình thường, tuy nhiên đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với cùng kỳ năm 2019.
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 12 đã vận chuyển 1.551,7 nghìn hành khách và luân chuyển 81,9 triệu hk.km. Dự ước cả năm 2020, đạt 15.805,32 nghìn hành khách, giảm 39,23% so với cùng kỳ và luân chuyển 796 triệu hk.km, giảm 38,78% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 12 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.542 nghìn hành khách; dự ước cả năm 2020, đạt 15.692,97 nghìn hành khách, giảm 39,17% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 9,6 nghìn hành khách; dự ước cả năm 2020, đạt 112,35 nghìn hành khách, giảm 46,94% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 80,9 triệu hk.km, dự ước cả năm 2020, đạt 783,76 triệu hk.km, giảm 38,59% so với cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1,1 triệu hk.km, dự ước cả năm 2020, đạt 12,24 triệu hk.km, giảm 48,97% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 12 vận chuyển hàng hoá đạt 691 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 41,3 triệu tấn.km. Dự ước cả năm 2020, đạt 7.392,12 nghìn tấn hàng hoá, giảm 28,64% so với cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 411,10 triệu tấn.km, giảm 29,39% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 12 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 690,4 nghìn tấn, lũy kế năm đạt 7.385,92 nghìn tấn, giảm 28,64% so với cùng kỳ; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,6 nghìn tấn, dự ước cả năm 2020, đạt 6,20 nghìn tấn, giảm 35,40% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 41,2 triệu tấn.km, dự ước cả năm 2020, đạt 410,39 triệu tấn.km, giảm 29,37% so với cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 68,8 nghìn tấn.km, dự ước cả năm 2020, đạt 705,4 nghìn tấn.km, giảm 36,34% so với cùng kỳ năm trước.
- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 12 ước đạt 50.000 tấn; dự ước cả năm 2020, đạt 811.406 tấn (trong đó, khối lượng bốc xếp ngoài ước đạt 32.265 tấn); các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, xi măng, bê tông cọc... Ước doanh thu năm 2020 đạt 34,1 tỷ đồng.
- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 12 đạt 150,2 tỷ đồng, tăng 4,86% so với tháng trước và giảm 30,76% so với cùng kỳ năm trước; dự ước cả năm 2020 đạt 1.660,55 tỷ đồng, giảm 31,32% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 631,83 tỷ đồng, giảm 38,77% so với cùng kỳ; Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 991,58 tỷ đồng, giảm 25,77% so với cùng kỳ; Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 37,14 tỷ đồng, giảm 25,97% so với cùng kỳ.
IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu, chi ngân sách:
Thu ngân sách tháng 12 (tính đến ngày 28/12/2020) đạt 871 tỷ đồng. Dự ước cả năm 2020, đạt 10.787,48 tỷ đồng, đạt 100,35% dự toán năm, giảm 18,38% so cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa (trừ dầu) đạt 8.457,91 tỷ đồng, đạt 110,56% dự toán năm, giảm 10,16% so với cùng kỳ. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 6.749,15 tỷ đồng, đạt 100,78% dự toán năm, giảm 10,98%; thu tiền nhà, đất 1.708,76 tỷ đồng, đạt 179,30% dự toán năm, giảm 6,74% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 1.108,85 tỷ đồng, đạt 158,41% dự toán năm, giảm 21,28%); thu dầu thô 1.139,57 tỷ đồng, đạt 87,66% dự toán năm, giảm 39,17% và thu thuế xuất nhập khẩu 1.190 tỷ đồng, đạt 66,11% dự toán năm, giảm 38,31% so cùng kỳ năm trước.
Dự ước các khoản thu cả năm 2020 tăng/giảm so với cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 1.044,91 tỷ đồng (giảm 35,02%), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1.072,81 tỷ đồng (tăng 2,85%), thu ngoài quốc doanh 1.389,3 tỷ đồng (giảm 3,95%), thuế thu nhập cá nhân 646,21 tỷ đồng (giảm 2,52), thuế bảo vệ môi trường 522,58 tỷ đồng (giảm 11,45%); lệ phí trước bạ 295,99 tỷ đồng (giảm 34,01%); thu từ các loại phí, lệ phí 271,72 tỷ đồng (tăng 55,69%); thu khác ngân sách 235,39 tỷ đồng (giảm 44,59%); thu xổ số kiến thiết 1.173,92 tỷ đồng (tăng 15,68%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 75,72 tỷ đồng (giảm 52,57%); thu tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 22,10 tỷ đồng (tăng 66,47%), thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 571,79 tỷ đồng (tăng 41,59%); thu tiền sử dụng đất 1.108,85 tỷ đồng (giảm 21,28%); thu từ dầu thô 1.139,57 tỷ đồng (giảm 39,17%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 1.190 tỷ đồng (giảm 38,31%).
Nhìn chung, thu ngân sách trong năm 2020 giảm so với cùng kỳ do ảnh hưởng nhiều từ đại dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, đồng thời bị ảnh hưởng một phần do điều chỉnh chính sách thu theo Nghị định số 41/2020/NĐ-CP của Chính phủ về việc gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho các doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Nguồn thu năm nay chủ yếu từ: Thu xổ số kiến thiết (tăng 15,67%), thu thuế sử dụng đất phi NN (tăng 66,47%), thu tiền thuê mặt đất, mặt nước (tăng 41,59%) và một số khoản thu nội địa khác...
Chi ngân sách đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu chi lương và hoạt động thường xuyên của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, chi đầu tư phát triển; chi cho các nhiệm vụ trọng tâm; chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Tổng chi ngân sách trong tháng 12 ước thực hiện 600 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 550 tỷ đồng); dự ước cả năm 2020, đạt 14.068,9 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 10.010,35 tỷ đồng); trong đó, chi đầu tư phát triển 4.134,2 tỷ đồng, chi thường xuyên 5.876,2 tỷ đồng.
2. Hoạt động tín dụng:
Mạng lưới ngân hàng tiếp tục được phát triển; tín dụng tăng trưởng khá; vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên; công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, thanh toán chuyển tiền điện tử tiếp tục được đẩy mạnh; việc cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu tiếp tục được quan tâm triển khai, đảm bảo hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân nói riêng phát triển an toàn. Đặc biệt, các tổ chức tín dụng đã nghiêm túc triển khai thực hiện các biện pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, trong đó chủ động làm việc với khách hàng, đánh giá mức độ thiệt hại do ảnh hưởng của dịch để triển khai thực hiện các biện pháp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, cho vay mới theo tinh thần Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tính đến ngày 30/11/2020, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 757 tỷ đồng, chiếm 1,11% tổng dư nợ, tăng 0,54% so với đầu năm. Cùng với việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và miễn, giảm lãi vay, các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn, triển khai thực hiện các chương trình cho vay mới với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra, doanh số cho vay mới bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh từ ngày 23/01/2020 là 12.896 tỷ đồng/4.802 khách hàng.
Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 3,1-4%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng là 4-6,6%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên là 5,3-7,35%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 5,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7-9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-12%/năm.
Hoạt động huy động vốn (tính đến ngày 30/11/2020), nguồn vốn huy động đạt 39.943 tỷ đồng, tăng 2,4% so với đầu năm. Dự ước cả năm 2020 (tính đến 31/12/2020), vốn huy động đạt 40.955 tỷ đồng, tăng 5% so với đầu năm.
Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Luỹ kế 11 tháng (tính đến ngày 30/11/2020), tổng dư nợ cho vay đạt 67.974 tỷ đồng, tăng 15,48% so với đầu năm. Trong đó dư nợ cho vay bằng VND đạt 66.884 tỷ đồng, chiếm 98,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 36.938 tỷ đồng, chiếm 54,34% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm khoảng 4,7% tổng dư nợ, lãi suất từ 6-7%/năm chiếm khoảng 8,5% tổng dư nợ, lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 23,5% tổng dư nợ; lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 57,3% tổng dư nợ, lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 6% tổng dư nợ. Ước tính đến ngày 31/12/2020, dư nợ đạt 69.306 tỷ đồng, tăng 17,5% so với đầu năm.
Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và Địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 36.130 tỷ đồng, chiếm 53,15% tổng dư nợ; cho vay xuất khẩu đạt 489 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng dư nợ; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 14.604 tỷ đồng, chiếm 21,5% tổng dư nợ; cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.923 tỷ đồng.
Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 944,9 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 295,3 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 641,6 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 8 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 60,7 tỷ đồng/8 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 128,1 tỷ đồng/92 tàu.
Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 321 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, chăn nuôi bò sữa công nghệ cao; dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thuốc thú y, thức ăn gia súc đạt 545 tỷ đồng.
Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh, dư nợ đạt 55,5 tỷ đồng/144 hộ.
- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 30/11/2020, trên địa bàn có 186 máy ATM (tăng 11 máy so với đầu năm) và 1.847 máy POS (tăng 227 máy so với đầu năm), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng trên địa bàn đã bám sát điều hành tỷ giá và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 11 tháng đạt 546,3 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 115 triệu USD.
Nhìn chung, mạng lưới ngân hàng tiếp tục được phát triển; tín dụng tăng trưởng khá, cao hơn mặt bằng chung cả nước và các đơn vị trong khu vực; vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên. Các tổ chức tín dụng đã nghiêm túc triển khai thực hiện các biện pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19 theo tinh thần Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
V. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động văn hoá:
Trong năm 2020, tập trung tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị được tăng cường, nhất là tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về công tác phòng, chống, ứng phó dịch bệnh Covid-19 gây ra, thông qua phát thanh xe loa, viết tin, bài, pa nô, băng rôn, áp phích… góp phần tuyên truyền thông tin và ổn định dư luận xã hội trên địa bàn tỉnh. Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, thể thao phục vụ nhân dân trong dịp tết Nguyên đán Canh Tý 2020. Thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh do Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó nhiều chương trình lễ hội bị hủy, các hoạt động thể dục thể thao địa phương tạm hoãn tổ chức.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng trong tháng đã đón 21.758 lượt khách; Lũy kế cả năm (tính đến 15/12/2020) đón 162.478 lượt khách, trong đó 12.184 lượt khách nước ngoài. Trưng bày, triển lãm ảnh tư liệu, ảnh nghệ thuật, chủ đề “Phan Thiết xưa”, “sắc màu Bình Thuận”, “Hành trình vươn tới những ước mơ - 50 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ”, “Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, “Kỷ vật Bác Hồ”, “Những tấm gương bình dị mà cao quý” giai đoạn 2018 - 2020, ảnh tư liệu các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ I đến lần thứ XII năm 1930-2016); triển lãm chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 tại Khu di tích Dục Thanh. Tiếp nhận và giới thiệu 29 ảnh về Bác Hồ do nhân dân trao tặng. Thu thập tư liệu về cụ nghè Trương Gia Mô (1866 - 1929 tại phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Các huyện, thị xã, thành phố tổ chức tốt các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch phục vụ nhân dân dịp tết Nguyên đán Canh Tý 2020. Một số địa phương tố chức bắn pháo hoa phục vụ nhân dân vào thời khắc giao thừa (thành phố Phan Thiết, thị xã La Gi, các huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Phú Quý), thu hút đông đảo nhân dân đến xem.
2. Thể dục, thể thao:
Hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh bị hạn chế do ảnh hưởng của dịch Covid-19 gây ra. Tuy nhiên, trong năm đã đăng cai tổ chức thành công giải vô địch Bóng ném bãi biển toàn quốc; giải Bóng chuyền bãi biển toàn quốc 2x2 và giải Bóng đá hạng Nhì năm 2020. Đã tổ chức Hội thi Đua thuyền truyền thống trên sông Cà Ty; giải Windsurf mở rộng lần thứ 21; Hội thi leo núi Tà Cú huyện Hàm Thuận Nam mở rộng lần thứ XXIII năm 2020; giải Chạy vượt đồi cát tại Hòn Rơm, Mũi Né...
Hoạt động thể thao thành tích cao: Luỹ kế cả năm 2020, tổng số huy chương đạt 146/110 huy chương (31 huy chương vàng, 43 huy chương bạc, 72 huy chương đồng); Kiện tướng: 32/45 (đạt 71,1%); Cấp 1: 115/65 (đạt 177%).
3. Giáo dục và Đào tạo:
Công tác đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục đạo đức nhân cách và kỹ năng sống cho học sinh được quan tâm, chất lượng giáo dục toàn diện năm học 2019 - 2020 đạt được kết quả tích cực, cao hơn năm trước. Tỷ lệ học sinh có học lực khá giỏi ở các cấp học tiếp tục tăng và tỷ lệ học sinh yếu, kém giảm dần.
Kết quả kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh năm học 2019-2020: Tổng số học sinh đạt giải 355 học sinh (đạt tỷ lệ 43,71%), so với năm học trước tăng 52 giải; trong đó, giải nhất 15 (giảm 06 giải); giải nhì 63 (tăng 29 giải); giải ba 277 (tăng 29 giải).
Kết quả thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc gia: Tổng số học sinh đạt giải Kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh có 355 (đạt tỷ lệ 43,71%), so với năm học trước tăng 52 giải và 10 học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia, tăng 01 giải.
Có 34 học sinh (17 dự án) đạt giải cuộc thi Khoa học, Kỹ thuật cấp tỉnh, 02 học sinh (01 dự án) đạt giải quốc gia.
Về đạt chuẩn phổ cập giáo dục: 124/124 xã, phường, thị trấn và 10/10 huyện, thị xã, thành phố tiếp tục duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ năm tuổi.
Về công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia: Trong năm 2020, đã kiểm tra công nhận mới được 12 trường, gồm 01 trường mầm non, 07 trường tiểu học, 04 trường THCS đạt chuẩn quốc gia. Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia 251/543 trường, đạt tỷ lệ trường chuẩn quốc gia so với số trường công lập 46,22%. Trong đó: 44/142 trường mầm non, tỷ lệ 30,99%; 121/245 trường tiểu học, tỷ lệ 49,39%; 72/130 trường THCS, tỷ lệ 55,38%; 14/26 trường THPT, tỷ lệ 53,85%.
Về rà soát quy hoạch sắp xếp mạng lưới trường lớp: toàn tỉnh có tổng số 585 cơ sở giáo dục và đào tạo (trong đó có 543 trường công lập), giảm 03 cơ sở so với năm học trước. Cụ thể: 181 trường mầm non (trong đó 142 trường công lập, 39 trường ngoài công lập), giảm 01 trường so với năm học trước; 246 trường tiểu học (trong đó 245 trường công lập và 01 trường ngoài công lập) giảm 02 trường công lập so với năm học trước; 130 trường công lập Trung học cơ sở và PTCS (trong đó 109 trường THCS, 04 trường Phổ thông Dân tộc Nội trú huyện, 17 trường PTCS (tăng thêm 02 trường PTCS) số lượng trường không thay đổi so với năm học trước; 28 trường Trung học phổ thông (trong đó có 26 trường công lập và 02 trường ngoài công lập; Trường chuyên biệt có 06 trường (gồm có 04 trường Phổ thông Dân tộc Nội trú huyện, 01 trường Phổ thông Dân tộc Nội trú tỉnh, 01 trường THPT chuyên Trần Hưng Đạo).
4. Y tế:
Tập trung phòng, chống dịch bệnh được các đơn vị triển khai kế hoạch phòng chống ngay từ đầu năm nhất là các bệnh truyền nhiễm như: Cúm A H1N1, H5N1, H7N9, sốt xuất huyết, bệnh tay chân miệng, bệnh Zika,... Đặc biệt, đã triển khai đồng bộ các hoạt động, các công việc để phòng, chống dịch bệnh Covid-19 (Đến nay, tỉnh Bình Thuận không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm Covid-19, có 9/9 ca nhiễm đã được chữa khỏi bệnh). Công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân. Thực hiện tốt các nhiệm vụ sẵn sàng tiếp nhận, điều trị các trường hợp bệnh nhân nhiễm vi rút Covid-19, chuẩn bị sẵn sàng các khu cách ly, thành lập các đội đáp ứng nhanh hỗ trợ điều trị cho tuyến dưới, chuẩn bị đầy đủ các phương tiện bảo hộ, thuốc, hoá chất phòng chống dịch. Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm được tăng cường, từ đầu năm đến nay (đến ngày 15/12/2020) trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm, với tổng số người mắc là 21 người; trong đó, có 02 người tử vong, xác định nguyên nhân do độc tố tự nhiên từ cá nóc mú, thịt cóc sống.
5. Lao động, việc làm; chính sách vùng đồng bào dân tộc; đời sống dân cư
Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm có nhiều cố gắng. Trong năm 2020, chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, lao động đang làm việc trong nền kinh tế giảm mạnh. Tính đến ngày 15/12/2020, tạo việc làm cho 22.572 lao động, đạt 94,05% so với kế hoạch năm và giảm 21,76% so với cùng kỳ năm trước; trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm 1.160 lao động, đạt 96,67% so với kế hoạch. Ước đến ngày 31/12/2020, toàn tỉnh tạo việc làm cho 24.141 lao động, đạt 100,59% so kế hoạch năm.
Tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp dự ước cả năm 2020 (đến ngày 31/12/2020), số người tuyển mới đào tạo nghề nghiệp 14.134 người, đạt 128,49% so với kế hoạch năm, giảm 1,35% so với cùng kỳ năm trước; trong đó đào tạo nghề cho lao động nông thôn 4.139 người, đạt 103,48% so với kế hoạch năm và giảm 17,39% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo bằng các hình thức ước đạt 70%, trong đó được cấp bằng hoặc chứng chỉ nghề 26,87%.
Chế độ chính sách ưu đãi và hỗ trợ đời sống đối với người có công với cách mạng được quan tâm triển khai tích cực. Các dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo tiếp tục được triển khai; các địa phương tổ chức tốt các giải pháp trợ giúp hộ nghèo ổn định sản xuất và phát triển sản xuất; dự ước năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,6% so với năm 2019. Chính sách an sinh xã hội được bảo đảm, chi trả kịp thời, đúng chế độ, chính sách. Đã tập trung triển khai kịp thời Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid19 và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, ngày 24/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Đời sống của nhân dân nói chung ổn định, không xảy ra thiếu đói trong dân.
- Tình hình đời sống dân cư năm 2020: Đời sống dân cư của tỉnh trong năm 2020 bị ảnh hưởng tiêu cực từ tình trạng nắng hạn, thiên tai, dịch Covid-19 xảy ra đã tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh. So với cùng kỳ năm trước, nhìn chung đời sống của các tầng lớp dân cư gặp nhiều khó khăn.
+ Khối nhà nước: Dự ước bình quân mức thu nhập người/tháng của mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý 7,2 triệu đồng (không tăng/giảm so với cùng kỳ); trong khu vực nhà nước do Trung ương quản lý 9,6 triệu đồng (tăng 3,2% so với cùng kỳ). Các đơn vị hành chính sự nghiệp có mức thu nhập bình quân nhìn chung ở mức xấp xỉ so với mức thu nhập bình quân chung của toàn tỉnh (thu nhập bình quân mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý 7 triệu đồng/tháng, trong khu vực nhà nước do trung ương quản lý 9 triệu đồng /tháng). Tuy nhiên hiện nay giá điện và một số dịch vụ thiết yếu (thịt lợn, thuốc và dịch vụ y tế, chi phí giáo dục…) vẫn còn ở mức cao; do vậy với mức thu nhập như hiện nay mới tạm đủ để trang trải cuộc sống chứ chưa tạo được tích lũy, một bộ phận công chức hưởng lương hành chính còn gặp khó khăn, trong việc chi tiêu một số vấn đề thiết yếu cho gia đình và học phí cho con đến trường.
+ Khối doanh nghiệp: mức thu nhập bình quân người/tháng của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý 6,4 triệu đồng (tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước) và Trung ương quản lý 7,7 triệu đồng (tăng 2,7% so cùng kỳ năm trước). Đối với lao động ngoài nhà nước hiện nay thu nhập cũng tương đối ổn định, tuy nhiên do hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp chưa cao nên thu nhập chưa thật sự bền vững; ước tính thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 5,7 triệu đồng/người/tháng (tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước). Đối với lao động thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thu nhập bình quân 8,2 triệu đồng/người/tháng (tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước).
+ Đời sống dân cư nông thôn: So với cùng kỳ năm trước, mặc dù được sự quan tâm chỉ đạo nhằm tháo gỡ những khó khăn của các cấp, các ngành nhưng nhìn chung đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn, chưa được cải thiện do giá cả nông sản ở mức thấp, thị trường tiêu thụ khó khăn, thời tiết không thuận lợi cho một số ngành sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Trong xây dựng nông thôn mới: Đến cuối năm 2020 sẽ có thêm 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 65/93 xã, chiếm 69,9% số xã. Dự kiến năm 2020 trình công nhận thành phố Phan Thiết hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, huyện Đức Linh đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số huyện đạt chuẩn lên 3 đơn vị (Đến năm 2020, vượt 15 xã đạt chuẩn nông thôn mới so với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao (50 xã) và vượt 1 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới so với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao (2 huyện)).
- Kết quả đạt được về công tác giảm nghèo: Bằng nhiều biện pháp hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất như hỗ trợ vốn và các chương trình lồng ghép khác của dự án xóa đói giảm nghèo và sự nỗ lực vươn lên từ các hộ nghèo, đến nay số hộ nghèo đã giảm đáng kể. Cuối năm 2020 ước tỷ lệ hộ nghèo còn 1,32% (giảm 0,6% so với năm 2019).
- Chính sách vùng đồng bào dân tộc: Trong năm 2020, đã thực hiện tốt việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhìn chung, đời sống trong vùng đồng bào cơ bản ổn định; việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc được quan tâm, mạng lưới y tế các xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được củng cố, tăng cường. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản ổn định. Cung ứng kịp thời vật tư hàng hoá các loại phục vụ sản xuất và đời sống cho đồng bào dân tộc. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai đồng bộ, môi trường xã hội cải thiện rõ nét; khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và lòng tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục được giữ vững.
6. Thông tin – Bưu chính viễn thông
- Thông tin và Truyền thông: Trong năm 2020, công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng kịp thời, đa dạng. Đáng chú ý các báo tập trung đăng tin, bài về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và những nỗ lực ngăn chặn dịch của tỉnh. Thông tin liên lạc đảm bảo thông suốt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ nhân dân; hạ tầng mạng lưới bưu chính, viễn thông được đầu tư theo hướng hiện đại, chất lượng các dịch vụ ngày càng được nâng lên. Các sở, ngành, địa phương đã tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn. Các phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước đã phát huy hiệu quả tốt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, thúc đẩy cải cách hành chính, minh bạch hóa thông tin, phục vụ chỉ đạo điều hành, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin và phòng chống mã độc trong các cơ quan nhà nước được quan tâm thực hiện.
- Bưu chính, viễn thông: Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng và triển khai cung cấp dịch vụ di động 5G; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin; thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Mạng lưới phục vụ bưu chính, viễn thông với 1.230 cơ sở kinh doanh dịch vụ BCVT, đạt bán kính phục vụ bình quân là 1,4 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại cố định là 30.840, số thuê bao điện thoại di động trả sau 31.950, mật độ điện thoại 147 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet ước đạt 138.830 thuê bao, tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) là 61,75%, vượt cao so với kế hoạch.
7. Hoạt động bảo hiểm (đến ngày 30/11/2020):
Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch. Công tác thu vẫn còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19, dẫn đến số tiền nợ cao. Tính đến ngày 30/11/2020 đã tiếp nhận 757 đơn đề nghị của các đơn vị, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp xin giãn, miễn đóng, miễn lãi chậm đóng, dừng đóng vào các quỹ BHXH, BHYT, BHTN; thông báo giảm 20.590 lao động, trong đó có 8.416 lao động thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động; 10.297 lao động nghỉ việc không hưởng lương, 1.877 lao động nghỉ hưởng chế độ BHXH; đã xác nhận 9.009 sổ BHXH để bảo lưu.
Luỹ kế 11 tháng (đến ngày 30/11/2020), toàn tỉnh có 91.885 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 4,5% so với cùng kỳ; có 82.949 người tham gia BHTN, giảm 4,4% so với cùng kỳ; số người tham gia BHXH tự nguyện 9.399 người, tăng 150,5% so với cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 1.007.428 người, tăng 2,5% so với cùng kỳ. Đã xét duyệt, giải quyết cho 57.469 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 8,9% so với cùng kỳ. Trong đó, hưởng các chế độ BHXH dài hạn 1.241 lượt người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 10.862 lượt người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 32.882 lượt người; hưởng trợ cấp BHTN 12.484 lượt người. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 87% dân số.
Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng đến đầu tháng 12/2020 là 16.101 người. Tổng thu 11 tháng là 2.149,8 tỷ đồng, đạt 85,7% kế hoạch, tăng 2,9% so với cùng kỳ. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 172,7 tỷ đồng, tăng 28,64% so với cùng kỳ năm trước.
8. Khoa học - Công nghệ:
Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng. Đã nghiệm thu 5 đề tài để triển khai ứng dụng vào thực tiễn: (1) “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm gìn giữ, tôn tạo vẻ đẹp tự nhiên của đồi Cát Bay Mũi Né”,(2) “Nghiên cứu bảo tồn, tư liệu hoá và đánh giá sơ bộ nguồn gen cây mè đen 02 vỏ trên địa bàn tỉnh Bình Thuận” và (3) “Xây dựng từ điển quân sự Bình Thuận từ năm 1930 đến nay”; (4) Xác định các đường lây nhiễm siêu vi viêm gan B ở trẻ em trong dân số trẻ dưới 5 tuổi tại Bình Thuận.
Tổ chức tuyển chọn 09 nhiệm vụ KHCN, kết quả, có 6 nhiệm vụ có tổ chức, cá nhân được Hội đồng khoa học đề nghị trúng tuyển. Bao gồm: (1) Nghiên cứu đánh giá sức tải môi trường và đề xuất giải pháp quản lý, bảo vệ môi trường khu vực Khu bảo tồn biển Hòn Cau, (2) Nghiên cứu giải pháp chuyển đổi cơ cấu sản xuất lúa trên địa bàn 02 huyện Tánh Linh, Đức Linh vùng ven sông La Ngà, (3) Đánh giá thực trạng, nghiên cứu giải pháp chuyển đổi cơ cấu lao động phục vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến 2030 trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, (4) Xây dựng mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ mủ trôm theo hướng bền vững, (5) Xây dựng mô hình lai tạo giống bò thịt cao sản từ tinh bò đực thuần BBB (Blanc Blue Belge) và Wagyu với bò cái lai sind tại địa phương tỉnh Bình Thuận, (6) Nghiên cứu phân vùng khô hạn và quản lý giám sát hạn hán trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
9. Tai nạn giao thông (từ ngày 15/11-14/12/2020):
Số vụ tai nạn giao thông 31 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), so với tháng trước giảm 12 vụ và so với cùng kỳ năm trước tăng 01 vụ. Luỹ kế cả năm có 357 vụ (trong đó đường sắt 02 vụ), so với cùng kỳ năm trước giảm 67 vụ.
Số người bị thương 21 người, giảm 19 người so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước tăng 09 người. Luỹ kế cả năm có 253 người, giảm 53 người so với cùng kỳ năm trước.
Số người chết 18 người (trong đó đường sắt 01 người), tăng 06 người so với tháng trước và giảm 03 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế cả năm 195 người (trong đó đường sắt 02), so với cùng kỳ giảm 37 người.
Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra và tập trung trên tuyến quốc lộ 1A, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, đi không đúng phần đường, làn đường, chuyển hướng sai quy định, không nhường đường, lái xe đã uống rượu bia,... ngoài ra còn có các nguyên nhân khác và do người đi bộ gây ra. Qua một năm tháng thực hiện Nghị định số 100/2019/NĐ -CP, ngày 30/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt” các vụ tai nạn liên quan đến rượu, bia khi tham gia giao thông đã giảm đáng kể. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, người dân thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch, hạn chế ra đường và ở nhà nên cũng góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
10. Thiên tai, cháy nổ:
- Thiên tai: Trong tháng (tính đến ngày 15/12/2020) xảy ra 01 vụ thiên tai, do mưa lớn và lốc xoáy cục bộ xảy ra trên địa bàn huyện Đức Linh; làm tốc mái, hư hỏng 08 căn nhà; hư hỏng 60 ha Lúa 75 - 80 ngày tuổi; 0,3 ha Cao su, 0,1 ha Tiêu; 0,25 ha Rau, củ, quả). Ước giá trị thiệt hại ban đầu hơn 600 triệu đồng. Lũy kế cả năm 2020, xảy ra 28 vụ thiên tai, 02 người chết, ước tổng giá trị thiệt hại ban đầu 39,38 tỷ đồng.
- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 8 vụ cháy (tăng 4 vụ so cùng kỳ), không thiệt hại về người, không xảy ra nổ, 01 người bị thương nhẹ; ước thiệt hại ban đầu khoảng 3.205,4 triệu đồng. Lũy kế cả năm có 77 vụ cháy, tăng 63,83% so với cùng kỳ; tổng thiệt hại 15,2 tỷ đồng, tăng 6,9 lần so với cùng kỳ.
- Vi phạm môi trường: Trong tháng xảy ra 5 vụ (tăng 4 vụ so với cùng kỳ), xử phạt 230,1 triệu đồng. Lũy kế cả năm có 24 vụ (giảm 14 vụ so với cùng kỳ), đã xử phạt 2.031,4 triệu đồng.
VI. Đánh giá chung:
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong năm 2020 vẫn tăng trưởng nhưng ở mức thấp, đạt được kết quả trên một số mặt, cụ thể là:
- Sản xuất nông nghiệp có nhiều cố gắng, diện tích gieo trồng cây lâu năm, sản lượng thanh long; chăn nuôi gia súc, gia cầm được phục hồi và phát triển ổn định. Bệnh dịch tả lợn Châu Phi cơ bản được khống chế; tình trạng cháy rừng gây thiệt hạn về tài nguyên rừng không xảy ra. Sản lượng khai thác thủy sản được duy trì ổn định. Công tác xây dựng nông thôn mới, các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa, chính sách hỗ trợ phát triển dân sinh, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện tốt.
- Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng, các công trình, dự án điện được đẩy nhanh tiến độ thực hiện, trong đó sản lượng điện sản xuất tăng 17,48% so với cùng kỳ năm trước. Hạ tầng các khu, cụm công nghiệp tiếp tục được đầu tư xây dựng.
- Xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản, thanh long tăng so với cùng kỳ. Hoạt động thương mại nội địa vẫn ổn định, hàng hoá vẫn đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân trong thời gian bị dịch Covid-19; công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường được thực hiện tốt, giá cả không tăng đột biến.
- Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước cơ bản đạt tiến độ đề ra. Việc rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, kiến nghị Trung ương đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, các công trình trọng điểm, bức xúc được tập trung chỉ đạo.
- Chất lượng giáo dục toàn diện được duy trì. Đã triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống và điều trị các bệnh nhân bị nhiễm Covid-19.
- Công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm, kịp thời chăm lo cho các đối tượng chính sách, người nghèo; công tác giải quyết việc làm có nhiều cố gắng. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh căn bản được bảo đảm.
* Những khó khăn, hạn chế
- Sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn do nắng hạn, sản lượng lương thực giảm so với cùng kỳ năm trước; việc phát triển các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế; liên kết giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ còn nhiều khó khăn, bất cập; vi phạm lâm luật, bảo vệ nguồn lợi thủy sản vẫn còn diễn biến phức tạp, chưa ngăn chặn triệt để. Một số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nhưng chất lượng tiêu chí chưa cao, chưa bền vững.
- Các hoạt động của các doanh nghiệp, nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của tỉnh bị đình trệ do ảnh hưởng dịch Covid-19. Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh đã cắt giảm lao động, cho lao động nghỉ không hưởng lương hoặc giải thể, tạm dừng kinh doanh làm cho tình trạng lao động mất việc làm và giải quyết trợ cấp thất nghiệp tăng cao.
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gặp khó khăn về nguồn nguyên vật liệu đầu vào. Hoạt động dịch vụ du lịch, tiêu thụ sản phẩm, thị trường xuất khẩu, nhập khẩu gặp nhiều khó khăn.
- Hoạt động giáo dục và đào tạo bị gián đoạn, kéo dài, ảnh hưởng đến việc dạy học của giáo viên, việc học tập của học sinh, sinh viên, việc triển khai chương trình, sách giáo khoa mới đều chậm tiến độ. Việc triển khai một số hoạt động trên lĩnh vực văn hoá, thể thao bị gián đoạn, nhiều hoạt động tạm dừng hoặc không thể tổ chức như kế hoạch đề ra. Dịch Covid-19 đã tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân, nhất là đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội./.
Website Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận