1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tháng là tập trung chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho các loại cây trồng vụ Xuân; triển khai phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, thủy sản; đẩy mạnh công tác trồng rừng, tăng cường quản lý, phòng chống cháy rừng và thực hiện tốt việc kiểm dịch tôm giống về địa bàn.
1.1. Nông nghiệp
Trồng trọt: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Xuân năm 2021 đạt trên 47,2 nghìn ha, giảm 1,2 nghìn ha (- 2,5%) so với cùng vụ năm trước. Trong đó, diện tích cây lương thực có hạt đạt trên 41,5 nghìn ha, giảm 0,6 nghìn ha, giảm 1,5% (diện tích lúa đạt trên 39,9 nghìn ha, giảm 0,7%; diện tích ngô đạt trên 1,5 nghìn ha, giảm 18,5%); diện tích cây chất bột có củ đạt 0,2 nghìn ha, giảm 24,7% (diện tích cây khoai lang đạt 155,6 ha, giảm 23,7%); diện tích cây có hạt chứa dầu đạt trên 2,2 nghìn ha, giảm 14,7% (cây lạc đạt gần 2,2 nghìn ha, giảm 8,3%); diện tích cây rau, đậu các loại đạt gần 2,4 nghìn ha, giảm 5,5% so với cùng vụ năm trước… Nguyên nhân diện tích gieo trồng vụ Xuân năm 2021 giảm một mặt do việc thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng, mặt khác diện tích còn giảm do chuyển đổi một số diện tích lúa cấy kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây lâu năm ở các huyện, thành phố như: Huyện Yên Mô, Gia Viễn, thành phố Ninh Bình,…Ngoài ra, còn một số diện tích đất do hiệu quả kinh tế thấp người dân chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp nên để trống không trồng cấy.
Đến nay, toàn tỉnh đã hoàn thành việc chăm sóc lúa đợt 2, diện tích lúa trỗ là 3,2 nghìn ha, bằng 8,0% diện tích lúa đã cấy (trong đó ở huyện Nho Quan 2,6 nghìn ha; huyện Gia Viễn 0,6 nghìn ha).
Tình hình sâu bệnh: Trên diện tích lúa đã cấy xuất hiện các loại sâu bệnh hại lúa như khô vằn, đạo ôn, có khả năng lây lan và gây hại trên diện rộng. Đến ngày 21/4/2021, toàn tỉnh có 3.350 ha bị nhiễm khô vằn, trong đó có 245 ha nhiễm nặng, diện tích đã được phòng trừ là 1.850 ha; diện tích bị nhiễm đạo ôn lá là 438 ha, trong đó nhiễm nặng là 50 ha, diện tích đã được phòng trừ là 392 ha; ngoài ra toàn tỉnh còn có 151,5 ha bị ảnh hưởng do chuột phá hại trong đó 13,7 ha bị phá nặng.
Chăn nuôi: Tổng đàn trâu, bò có xu hướng giảm nhẹ so với cùng thời điểm năm trước; trong đó đàn trâu ước đạt 12,6 nghìn con, giảm 51 con (- 0,4%); đàn bò ước đạt 36,8 nghìn con, giảm 60 con (- 0,2%).
Bệnh viêm da nổi cục trên đàn trâu bò trên địa bàn tỉnh đang có chiều hướng diễn biến phức tạp do điều kiện thời tiết giao mùa, thuận lợi cho mầm bệnh lây lan, phát triển nhanh. Tính đến ngày 14/4/2021, bệnh đã xảy ra ở 792 hộ thuộc 296 thôn của 69 xã tại 7 huyện, thành phố làm 1.383 con bò, bê mắc bệnh. Số lượng bò, bê buộc phải tiêu hủy là 58 con; trọng lượng tiêu hủy là 8.916 kg. Đối với những con còn lại, hiện được theo dõi và điều trị theo hướng vệ sinh, sát trùng và nâng cao sức đề kháng.
Tại thời điểm báo cáo, đàn lợn ước đạt 240,7 nghìn con, tăng trên 55,4 nghìn con (+ 29,9%) so với cùng kỳ năm trước. Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi đến nay vẫn đang được kiểm soát tốt, tuy nhiên trong tháng 4/2021 đã có 6 xã tái phát dịch trở lại, hiện có 10 xã thuộc 5 huyện, thành phố còn dịch. Số lượng lợn bị mắc dịch đã tiêu hủy tính từ đầu năm đến hết ngày 20/4/2021 là 503 con, trọng lượng tiêu hủy gần 27,8 tấn. Các địa phương tiếp tục tăng cường các biện pháp phòng chống dịch bệnh để dịch không bùng phát trở lại.
Hiện tại, trên địa bàn toàn tỉnh đã công bố hết dịch cúm gia cầm, tổng đàn gia cầm tại thời điểm báo cáo ước đạt gần 5,7 triệu con, tăng 0,19 triệu con (+ 3,6%); trong đó, tổng đàn gà đạt hơn 4 triệu con, tăng 0,2 triệu con (+ 5,2%) so với cùng thời điểm năm trước.
Kết quả tiêm phòngvụ Xuân - Hè tính đếnngày 12/4/2021 như sau:Vắc xin lở mồm long móng tiêm phòng cho trâu, bò 7,1 nghìn con; vắc xin cúm gia cầmtiêm được 702,7 nghìn lượt con tương đương với 1.262,2 nghìn liều; vắc xin dại chó: 45,0 nghìn liều.
1.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng, trồng cây phân tán và chăm sóc rừng ở các địa phương, đồng thời duy trì các biện pháp bảo vệ và phòng chống cháy rừng. Trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.
Trong tháng Tư, diện tích trồng rừng mới ước đạt 56 ha, tăng 11 ha (+ 24,4%) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,8 nghìn m3, tăng 0,6 nghìn m3 (+ 25,9%); sản lượng củi khai thác ước đạt 2,3 nghìn ste, giảm 0,4 nghìn ste (- 15,5%); số cây trồng phân tán ước đạt 115,4 nghìn cây, tăng 15,3 nghìn cây (+ 15,3%). Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, diện tích trồng rừng mới ước đạt 111 ha, tăng 5 ha (+ 4,7%) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 9,2 nghìn m3, tăng 0,6 nghìn m3 (+ 7,1%); sản lượng củi khai thác ước đạt 8,9 nghìn ste, giảm 0,9 nghìn ste (- 8,9%); số cây trồng phân tán ước đạt 357,5 nghìn cây, tăng 25 nghìn cây (+ 7,5%).
1.3. Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản trong tháng phát triển bình thường, không có dịch bệnh xảy ra; vùng sản xuất nội đồng người nuôi tiếp tục cải tạo ao đầm và thả giống.
Tại vùng sản xuất nước lợ huyện Kim Sơn: Phần lớn các hộ nuôi đã thả giống vụ I năm 2021, các yếu tố môi trường ổn định, con giống khỏe mạnh, phát triển tốt. Đến ngày 13/4/2021 Trạm Thủy sản Kim Sơn - Yên Khánh đã cấp 20 giấy kiểm tra chất lượng với tổng số con giống được cấp là gần 16,9 triệu, trong đó tôm sú đạt 4,5 triệu con, tôm thẻ chân trắng đạt gần 12,4 triệu con.
Hiện nay, bà con đang tiến hành thu hoạch ngao thương phẩm, sản lượng thu hoạch tăng cao do vụ này nguồn nước, thời tiết thuận lợi, không bị sâu bệnh, ngao lớn nhanh. Trong tháng, dịch bệnh COVID -19 cơ bản được khống chế nên đầu ra của sản phẩm ngao rất thuận lợi.
Sản lượng thủy sản tháng 4 ước đạt 5,0 nghìn tấn, tăng 0,3 nghìn tấn (+ 6,2%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 4,4 nghìn tấn, tăng 0,3 nghìn tấn (+ 6,9%); sản lượng thủy sản khai thác đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 4,7 tấn (+ 0,8%). Tính chung lại, sản lượng thủy sản 4 tháng đầu năm 2021 ước đạt trên 19,5 nghìn tấn, tăng 0,7 nghìn tấn (+ 3,9%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt trên 17,3 nghìn tấn, tăng 0,7 nghìn tấn (+ 4,3%); sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 2,1 nghìn tấn, tăng 7,5 tấn (+ 0,3%).
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng Tư và 4 tháng đầu năm 2021 trên địa bàn tỉnh duy trì ở mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do trong 4 tháng đầu năm 2020 ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid - 19 đã làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, ngưng trệ.
Chỉ số công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Tư ước tính tăng 57,11% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 52,57%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 60,23%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 3,68%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 27,01%.
So với tháng trước (tháng 3/2021), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này giảm 11,41%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 0,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 11,81%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 6,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,89%.
Tính chung lại 4 tháng đầu năm 2021 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 19,41% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 60,54%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 21,07%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 18,07%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 15,31%.
Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp tháng Tư năm nay toàn tỉnh ước đạt trên 7.254,6 tỷ đồng, tăng 53,2% so với tháng 4/2020. Trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ ước đạt gần 15,1 tỷ đồng, tăng 61,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo gần 7.143,3 tỷ đồng, tăng 54,1%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 79,6 tỷ đồng, tăng 0,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 16,6 tỷ đồng, tăng 41,5%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2021 theo giá so sánh 2010 toàn tỉnh ước đạt gần 28.799,6 tỷ đồng, tăng 20,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ ước đạt gần 56,0 tỷ đồng, tăng 57,0%; công nghiệp chế biến, chế tạo gần 28.359,1 tỷ đồng, tăng 20,4%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 321,1 tỷ đồng, giảm 11,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 63,4 tỷ đồng, tăng 18,4%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: So với cùng tháng năm trước, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh trong tháng Tư năm nay đều tăng, cụ thể: Đá khai thác ước đạt 326,1 nghìn m3, tăng 52,8%; thức ăn gia súc 2,7 nghìn tấn, gấp 2,1 lần; nước khoáng không có ga 630,0 nghìn lít, gấp 2,4 lần; quần áo các loại gần 7,9 triệu sản phẩm, tăng 79,0%; giày, dép các loại 3,8 triệu đôi, tăng 36,2%; phân ure 24,6 nghìn tấn, gấp 6,6 lần; phân lân nung chảy 13,1 nghìn tấn, gấp 10,1 lần; thanh nhôm, que nhôm, nhôm hình 6,5 nghìn tấn, gấp 2,2 lần; linh kiện điện tử 18,0 triệu cái, gấp 2,2 lần; modul camera 23,0 triệu cái, gấp 2,3 lần; xe ô tô 5-14 chỗ trên 5,5 nghìn chiếc, gấp 3,6 lần; cần gạt nước ô tô 1,3 triệu cái, tăng 49,8%; điện thương phẩm 190,0 triệu kwh, tăng 9,2%; nước máy thương phẩm 3,7 triệu m3, tăng 30,6%... Bên cạnh đó vẫn có một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Ngô ngọt đóng hộp ước đạt 121,0 tấn, giảm 69,7%; dứa đóng hộp 505,4 tấn, giảm 24,3%; nước dứa tươi 165,0 nghìn lít, giảm 35,3%; găng tay 382,0 nghìn đôi, giảm 54,1%; phân hỗn hợp NPK 8,0 nghìn tấn, giảm 53,2%; kính nổi 33,0 nghìn tấn, giảm 18,5%; cấu kiện tháp, cột bằng sắt, thép bắt chéo nhau 1,1 nghìn tấn, giảm 42,5%; tai nghe điện thoại di động 0,8 triệu cái, giảm 15,4%; đồ chơi hình con vật gần 1,0 triệu con, giảm 30,2%,…
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ gồm: Đá khai thác 1.442,6 nghìn m3, tăng 61,4%; dứa đóng hộp 2.243,2 tấn, tăng 14,6%; hàng thêu 654,0 nghìn m2, tăng 79,8%; giày, dép các loại 13,6 triệu đôi, tăng 14,9%; phân u rê 162,0 nghìn tấn, tăng 44,6%; phân hỗn hợp NPK 33,3 nghìn tấn, tăng 6,1%; phân lân nung chảy 37,4 nghìn tấn, tăng 12,0%; kính nổi 180,8 nghìn tấn, tăng 15,1%; modul camera 85,9 triệu cái, tăng 63,6%; kính máy ảnh 0,9 triệu cái, tăng 41,1%; cần gạt nước ô tô 5,1 triệu cái, tăng 84,9%; nước máy thương phẩm 13,6 triệu m3, tăng 20,2%;… Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút như: Ngô ngọt đóng hộp ước đạt 623,4 tấn, giảm 36,4%; găng tay 1.539,0 nghìn đôi, giảm 43,3%; xi măng và clanke trên 3,6 triệu tấn, giảm 1,7%; linh kiện điện tử 52,5 triệu cái, giảm 19,6%; tai nghe điện thoại di động 2,9 triệu cái, giảm 51,6%; điện sản xuất 213,5 triệu kwh, giảm 26,2%;…
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Trong tháng Tư tăng 3,21% so với cùng tháng năm 2020. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho cao như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 76,92%; sản xuất đồ uống tăng 22,54%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan gấp gần 2,2 lần; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy gấp 3,4 lần; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 56,46%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 87,63%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 92,17%;...
Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 31/3/2021: Giầy dép 3.221,2 nghìn đôi; đạm ure 9,1 nghìn tấn; phân NPK trên 30,2 nghìn tấn; phân lân nung chảy gần 10,5 nghìn tấn; kính xây dựng 65,1 nghìn tấn; xi măng 13,6 nghìn tấn; thanh, que hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 6,3 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 24,3 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 3,8 triệu cái; loa tai nghe điện thoại di động 741,2 nghìn cái;...
3. Vốn đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển tháng Tư năm 2021 toàn tỉnh ước đạt gần 2.105,5 tỷ đồng, tăng 1,3% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt 248,8 tỷ đồng, tăng 88,7%; vốn tín dụng đạt 19,0 tỷ đồng, giảm 19,8%; vốn Trái phiếu Chính phủ đạt 145,0 tỷ đồng, tăng 91,2%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.617,0 tỷ đồng, tăng 0,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 75,5 tỷ đồng, giảm 66,1%.
Trong tháng, một số công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn như:
- Khu vực đầu tư công: Dự án hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn và khu dân cư mới xã Gia Xuân, huyện Gia Viễn ước đạt 16,5 tỷ đồng; dự án xử lý cấp bách đê hữu sông Điện Biên từ cầu Yên Thổ đến xóm Trại, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô ước đạt 4,5 tỷ đồng; dự án nâng cấp cải tạo vỉa hè đường Nguyễn Công Trứ (đoạn từ cầu Lim đến đường Trần Nhân Tông), thành phố Ninh Bình ước đạt 3,5 tỷ đồng; dự án nâng cấp mở rộng đường trục sông Lưu Phương ước đạt 3 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường mầm non Gia Sinh, huyện Gia Viễn (Giai đoạn 2) ước đạt 3,0 tỷ đồng;…
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án xây dựng nhà máy sản xuất mỹ phẩm, xà phòng của Công ty TNHH Global Tone ước đạt 20 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 15 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất đồ chơi của Công ty TNHH Dream Plastic tại Cụm công nghiệp Khánh Thượng ước đạt 10 tỷ đồng…
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển 4 tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 7.493,4 tỷ đồng, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước đạt 953,6 tỷ đồng, tăng 35,6%; vốn tín dụng đạt 48,0 tỷ đồng, giảm 40,5%; vốn Trái phiếu Chính phủ đạt gần 434,0 tỷ đồng, gấp 2,2 lần; vốn ngoài Nhà nước đạt 5.594,0 tỷ đồng, tăng 2,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 446,2 tỷ đồng, giảm 37,6%.
Các công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn trong 4 tháng đầu năm nay là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn và khu dân cư mới xã Gia Xuân huyện Gia Viễn ước đạt 57 tỷ đồng; dự án xây dựng đường ô tô đến trung tâm các xã miền núi Mai Sơn, Khánh Thịnh, Khánh Thượng thuộc huyện Yên Mô ước đạt 56 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu trung tâm hành chính huyện Gia Viễn ước đạt 33,6 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật các tuyến đường trục chính xã Gia Thịnh, huyện Gia Viễn ước đạt 31,5 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường N2 từ đường trục xã Lưu Phương đến đường trục xã Thượng Kiệm, huyện Kim Sơn ước đạt 11,8 tỷ đồng;…
- Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Các dự án xây dựng, sửa chữa công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt trên 13,6 tỷ đồng; dự án xây dựng công trình thủy lợi của Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Ninh Bình ước đạt trên 2 tỷ đồng;…
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án mua sắm mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị và xây dựng nhà xưởng sản xuất phục vụ sản xuất linh kiện camera của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 98,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất đồ chơi của Công ty TNHH Dream Plastic ước đạt 60 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Athena Việt nam ước đạt 32 tỷ đồng; dự án đầu tư Trung tâm nghiên cứu ứng dụng và sản xuất các sản phẩm giày cao cấp của Công ty TNHH Ning An ước đạt gần 24 tỷ đồng.
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ, vận tải và du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Tư tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tốt và tăng cao so với cùng tháng năm trước. Nguyên nhân chính do tháng Tư năm 2020 nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, các hoạt động sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, giảm sút nghiêm trọng khi cả nước thực hiện cách ly xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19.
4.1. Bán lẻ hàng hóa
Trong tháng Tư, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước đạt trên 2.822,2 tỷ đồng, tăng 78,8% so với cùng tháng năm trước. Tất cả các nhóm mặt hàng đều có tổng mức tăng cao như: Lương thực, thực phẩm ước đạt gần 834,2 tỷ đồng, tăng 38,0%; hàng may mặc gần 216,1 tỷ đồng, gấp trên 4,7 lần; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình gần 315,2 tỷ đồng, tăng 42,8%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 44,6 tỷ đồng, gấp trên 5,5 lần; gỗ và vật liệu xây dựng 447,3 tỷ đồng, tăng 54,5%; ô tô các loại 146,5 tỷ đồng, tăng 95,6%; phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) 178,8 tỷ đồng, gấp trên 2,6 lần; xăng dầu các loại 279,1 tỷ đồng, gấp gần 2,6 lần; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) 62,8 tỷ đồng, tăng 87,2%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 104,2 tỷ đồng, gấp trên 2,2 lần; hàng hóa khác 120,0 tỷ đồng, gấp gần 2,7 lần; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 73,3 tỷ đồng, gấp trên 2,2 lần.
Tính chung lại, tổng mức bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh trong 4 tháng đầu năm ước đạt trên 11.547,2 tỷ đồng, tăng 39,2% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, một số nhóm hàng đạt mức tăng trưởng cao là: Nhóm hàng may mặc 892,2 tỷ đồng, tăng 71,6%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 1.323,8 tỷ đồng, tăng 36,2%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 186,8 tỷ đồng, tăng 69,7%; gỗ và vật liệu xây dựng 1.882,1 tỷ đồng, tăng 37,1%; ô tô các loại 598,1 tỷ đồng, tăng 43,9%; xăng dầu 1.109,0 tỷ đồng, tăng 50,8%; nhiên liệu khác 256,1 tỷ đồng, tăng 42,4%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 416,7 tỷ đồng, tăng 54,2%; hàng hóa khác 481,2 tỷ đồng, tăng 74,8%...
4.2. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
Tiếp đà giảm của tháng Ba, chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chung (CPI) trên thị trường toàn tỉnh tháng Tư giảm 0,3% so với tháng trước. Trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 03 nhóm có chỉ số giảm gồm: Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm sâu nhất với 1,61%, nguyên nhân do giá ga trong nước giảm theo giá ga của thế giới, cụ thể giá ga đã giảm 13,42% so với tháng trước kéo theo giá của nhóm ga và các loại chất đốt khác giảm 12,57%; bên cạnh đó do nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân giảm nên giá nước sinh hoạt và điện sinh hoạt trong tháng cùng giảm lần lượt 3,95% và 2,37%. Tiếp theo, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,27% (lương thực giảm 0,22%; thực phẩm giảm 0,38%; ăn uống ngoài gia đình vẫn giữ nguyên); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm nhẹ 0,08%. Bốn nhóm có chỉ số tăng là: Nhóm giao thông tăng cao nhất 0,81% do dưới tác động của giá xăng tăng 2,16% và giá dầu tăng 0,12% làm cho giá nhóm nhiên liệu trong tháng tăng 2,09%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,1%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; nhóm giáo dục tăng nhẹ 0,02%. Bốn nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại giữ chỉ số ổn định.
CPI tháng này tăng 1,17% so với tháng 12/2020. Có tới 10 trong tổng số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số tăng. Trong đó, nhóm giao thông tăng cao nhất 7,07%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,02% (lương thực tăng 3,53%; thực phẩm tăng 1,01%; ăn uống ngoài gia đình giữ ổn định); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,85%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,74%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,7%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,33%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,31%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,2%; hai nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục tăng nhẹ lần lượt 0,08% và 0,02%. Duy nhất nhóm bưu chính viễn thông vẫn giữ nguyên.
CPI bình quân 4 tháng năm 2021 tăng 0,4% so với bình quân cùng kỳ năm 2020. Trong đó có 08/11 nhóm có chỉ số tăng, cụ thể: Nhóm giáo dục tăng 4,9%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 4,49%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,48%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,58%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,52%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,5%; nhóm giao thông tăng 0,38%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,18%. Các nhóm có chỉ số giảm gồm: Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 3,33%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,61% (lương thực tăng 5,62%; thực phẩm giảm 2,88%; ăn uống ngoài gia đình giảm 1,05%); nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,38%.
Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng này giảm 0,29% so với tháng trước và giảm 0,95% với tháng 12/2020. Chỉ số giá bán lẻ đô la Mỹ tăng 0,65% so với tháng 3/2021 và tăng 2,24% so với tháng 12 năm trước.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu tháng Tư năm 2021 ước đạt 274,7 triệu USD, tăng 45,7% so với cùng tháng năm trước.
Tổng giá trị xuất khẩu 4 tháng đầu năm ước đạt 920,5 triệu USD, tăng 17,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Quần áo các loại đạt 96,7 triệu USD; xi măng, clanke đạt 204,6 triệu USD; giầy dép các loại đạt 176,3 triệu USD; camera và linh kiện điện thoại 333,3 triệu USD; linh kiện điện tử 19,4 triệu USD.
Trong 4 tháng đầu năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ như: Quần áo các loại 18,4 triệu chiếc, tăng 52,5%; sản phẩm cói 407,2 nghìn sản phẩm, tăng 57,9%; hàng thêu ren 48,5 nghìn chiếc, tăng 67,2%; xi măng, clanke 5.707,7 nghìn tấn, tăng 39,3%; giầy dép các loại 17.044 nghìn đôi, tăng 38,0%; camera và linh kiện 108,4 triệu chiếc, tăng 99,9%; đồ chơi trẻ em 3.361,0 nghìn chiếc, tăng 18,3%... Tuy nhiên, một số sản phẩm xuất khẩu lại giảm sút như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 1.973,6 tấn, giảm 49,7%; thảm cói 12,4 nghìn m2, giảm 34,1%; găng tay các loại 1.358,0 nghìn đôi, giảm 35,9%; phôi nhôm 4.733 tấn, giảm 7,5%.
Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu trong tháng ước đạt 238,5 triệu USD, gấp gần 2,1 lần so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 4 tháng đầu năm ước đạt gần 936,6 triệu USD, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: Linh kiện điện tử 284,0 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 369,3 triệu USD; vải may mặc 37,6 triệu USD; ô tô 18,7 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 83,6 triệu USD; phế liệu sắt thép 53,2 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách: Tháng Tư năm nay do thời gian được nghỉ lễ dài nên dự kiến nhu cầu đi lại, du lịch của người dân sẽ tăng cao. Khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện trong tháng ước đạt trên 1,6 triệu lượt khách, gấp 13,7 lần so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ trên 1,4 triệu lượt khách, gấp trên 13,3 lần; vận tải đường thủy trên 0,2 triệu lượt khách, gấp 16,4 lần. Khối lượng hành khách luân chuyển ước thực hiện gần 82,5 triệu lượt khách.km, gấp trên 11,9 lần. Trong đó: Vận tải đường bộ trên 81,5 triệu lượt khách.km, gấp gần 11,9 lần; vận tải đường thủy trên 0,9 triệu lượt khách.km, gấp 19,0 lần.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2021, vận tải hành khách ước thực hiện trên 6,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 50,7% và luân chuyển gần 337,5 triệu lượt khách.km, tăng 52,0% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó: Vận tải đường bộ ước thực hiện trên 5,7 triệu lượt khách, tăng 51,2% và 334,1 triệu lượt khách.km, tăng 52,1%; vận tải đường thủy ước thực hiện trên 0,8 triệu lượt khách, tăng 47,2% và trên 3,3 triệu lượt khách.km, tăng 44,8%.
Vận tải hàng hóa: Trong tháng Tư, ước tính khối lượng hàng hóa vận chuyển trên địa bàn toàn tỉnh đạt trên 4,3 triệu tấn, tăng 38,8% so với tháng 4/2020. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt gần 2,1 triệu tấn, tăng 36,2%; vận tải đường thủy nội địa trên 2,1 triệu tấn, tăng 37,2%; vận tải đường biển trên 0,1 triệu tấn, gấp trên 2,6 lần. Khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt gần 618,5 triệu tấn.km, tăng 52,0%. Trong đó: Vận tải đường bộ đạt trên 114,8 triệu tấn.km, tăng 68,5%; vận tải đường thủy nội địa trên 428,8 triệu tấn.km, tăng 38,1%; vận tải đường biển gần 74,9 triệu tấn.km, gấp gần 2,7 lần.
Ước tính vận chuyển hàng hóa toàn tỉnh trong 4 tháng năm nay đạt gần 17,7 triệu tấn, tăng 17,7% và trên 2.477,4 triệu tấn.km, tăng 22,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ đạt gần 8,5 triệu tấn, tăng 13,1% và 451,6 triệu tấn.km, tăng 20,3%; vận tải đường thủy nội địa gần 8,7 triệu tấn, tăng 21,5% và 1.726,1 triệu tấn.km, tăng 20,8%; vận tải đường biển trên 0,5 triệu tấn, tăng 34,0% và gần 299,8 triệu tấn.km, tăng 32,4%.
Doanh thu vận tải: Ước thực hiện trong tháng Tư gần 562,9 tỷ đồng, tăng 67,4% so với tháng 4/2020. Tính chung trong 4 tháng, doanh thu hoạt động vận tải toàn tỉnh ước đạt gần 2.249,0 tỷ đồng, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải hành khách ước đạt trên 290,5 tỷ đồng, tăng 60,1%; vận tải hàng hóa gần 1.866,2 tỷ đồng, tăng 24,0%; dịch vụ hỗ trợ vận tải trên 90,7 tỷ đồng, tăng 5,6%; doanh thu bưu chính chuyển phát gần 1,6 tỷ đồng, gấp gần 2,8 lần.
4.5. Du lịch
Trong tháng, diễn ra sự kiện quan trọng đối với ngành Du lịch của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung đó là Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia - Lễ hội Hoa Lư, Ninh Bình 2021. Sự kiện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì đây là cơ hội để ngành Du lịch phục hồi và bứt phá sau ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch Covid - 19. Lễ khai mạc được tổ chức thành công đã tạo dấu ấn đặc sắc, ấn tượng góp phần thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến với Ninh Bình, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch, nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, vùng đất, con người và du lịch Ninh Bình đối với du khách trong nước và quốc tế.
Ước tính tháng Tư năm 2021, tổng số khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh đạt trên 230,8 nghìn lượt khách, gấp 24,2 lần so với cùng tháng năm trước, chia ra: Khách trong nước 226,6 nghìn lượt, gấp 24,2 lần; khách quốc tế 4,2 nghìn lượt, gấp 22,9 lần; số lượt khách đến các điểm lưu trú đạt gần 42,2 nghìn lượt, gấp 33,6 lần; số ngày khách lưu trú ước đạt trên 53,2 nghìn ngày.khách, gấp 19,4 lần. Doanh thu du lịch ước đạt trên 140,9 tỷ đồng, gấp 20,8 lần, trong đó: Doanh thu lưu trú gần 31,0 tỷ đồng, gấp 21,5 lần; doanh thu ăn uống gần 51,0 tỷ đồng, gấp 22,5 lần.
Tính chung lại, 4 tháng năm nay tổng số khách đến các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt trên 837,3 nghìn lượt khách, giảm 32,8% so với 4 tháng năm 2020, chia ra: Khách trong nước đạt 824,5 nghìn lượt khách, giảm 24,4%; khách quốc tế gần 12,8 nghìn lượt khách, giảm 91,8%. Tổng số khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt gần 168,9 nghìn lượt khách, tăng 1,6%; số ngày khách lưu trú ước đạt trên 218,2 nghìn ngày.khách, giảm 3,1%. Doanh thu du lịch ước thực hiện trên 542,3 tỷ đồng, giảm 21,6%, trong đó: Doanh thu lưu trú 120,6 tỷ đồng, giảm 10,6%; doanh thu ăn uống 197,3 tỷ đồng, giảm 21,9%; doanh thu bán hàng cho khách du lịch 65,0 tỷ đồng, giảm 33,9%.
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Giáo dục
Ngành giáo dục Ninh Bình đang tích cực chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để tổ chức 2 kỳ thi: Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 Trung học phổ thông năm học 2021-2022 và kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông quốc gia năm 2021. Các trường Trung học phổ thông đã chủ động lên kế hoạch hoàn thành chương trình học chính khóa và từng bước phân luồng học sinh theo học lực để ôn luyện, củng cố kiến thức, chuẩn bị cho kỳ thi THPT quốc gia năm 2021.
Bên cạnh đó, tham dự Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học năm học 2020 - 2021 tại thành phố Huế, kết quả: Dự án “Giường bệnh thông minh hỗ trợ cho người mất chức năng vận động tay chân sử dụng tại nhà” của Nguyễn Trần Đạt và Đinh Hoàng Nam, học sinh trường THPT Hoa Lư A đạt giải Nhất quốc gia; dự án “Khảo sát hoạt tính kháng Oxi hóa và ức chế sản xuất hóa chất gây viêm nhiễm TNF-a/IFG-y của cao chiết CHLOROFORM từ cây ngải dại trong điều trị bệnh viêm da cơ địa” của Đỗ Đăng Quang và Đỗ Việt Bình Minh, học sinh trường THPT Ninh Bình - Bạc Liêu đạt giải Tư quốc gia.
5.2. Y tế
Trong tháng, ngành y tế tiếp tục triển khai Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 28/01/2021 của Thủ tướng chính phủ về một số biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid -19, chỉ đạo rà soát, lập danh sách lấy mẫu xét nghiệm các đối tượng có liên quan tới yếu tố dịch tễ liên quan tới Hải Dương, Quảng Ninh và các đối tượng nguy cơ lây nhiễm Covid - 19 trong tình hình mới. Tổ chức cách ly và giám sát chặt chẽ sức khỏe cho các đối tượng tại các khu cách ly tập trung.
Tính cộng dồn đến ngày 18/4/2021, trên địa bàn toàn tỉnh có 38 trường hợp dương tính với Covid-19 (đã điều trị khỏi và xuất viện 33 trường hợp, chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 05 trường hợp), tổng số trường hợp được cách ly, giám sát cộng dồn là 17.093 trường hợp, trong đó: Cách ly tại cơ sở y tế là 654 trường hợp; cách ly tại cơ sở tập trung là 3.881 trường hợp; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú là 12.558 trường hợp. Tổng số ca đã lấy xét nghiệm Covid-19 cộng dồn là 26.698 trường hợp.
Trong ba tháng đầu năm có 21 trường hợp mắc sốt xuất huyết; 48 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; 851 ca mắc tiêu chảy; 137 ca mắc thủy đậu…
Công tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm thực hiện: Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 271 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị nội trú cho 40,4 nghìn lượt bệnh nhân; khám phụ khoa 12,5 nghìn lượt; khám thai 12,3 nghìn lượt; đặt vòng 480 ca, triệt sản 12 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong ba tháng đầu năm nay, phát hiện mới 14 người nhiễm HIV, có 03 trường hợp tử vong do AIDS.
5.3. Văn hoá thông tin
Hoạt động Văn hóa - Thông tin trong tháng diễn sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, thiết thực chào mừng các sự kiện trọng đại của đất nước và địa phương: Chào mừng Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia, Lễ hội Hoa Lư, Ninh Bình năm 2021; kỷ niệm 46 năm Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2021), Quốc tế lao động 1/5…Bên cạnh đó, gắn với công tác tuyên truyền Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021- 2026; tuyên truyền về phòng chống dịch Covid-19. Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú như: Thay mới nội dung các cụm pa nô, băng rôn, khẩu hiệu trên các trục đường chính, các trung tâm đô thị và nơi tập trung đông dân cư, tổ chức biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, thi đấu thể thao, triển lãm ảnh nghệ thuật…
Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia- Lễ hội Hoa Lư, Ninh Bình 2021 là sự kiện mở đầu chuỗi các hoạt động của Năm Du lịch Quốc gia 2021, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm giới thiệu, quảng bá những giá trị văn hóa lịch sử, tài nguyên và sản phẩm du lịch, thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh và góp phần phục hồi ngành du lịch của cả nước sau thời gian bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19. Do đó, công tác tổ chức được chuẩn bị chu đáo, huy động sự vào cuộc của nhiều lực lượng, các cấp, ngành, địa phương và cả hệ thống chính trị của tỉnh.
Trong tháng, Nhà hát Chèo đã tổ chức 28 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhân dân. Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng đã thực hiện 52 buổi chiếu phim, phục vụ trên 6,6 nghìn lượt người xem. Bảo tàng tỉnh đã tiếp đón 4,1 nghìn lượt khách thăm quan.
5.4. Thể dục thể thao
Trong tháng, tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên thành tích cao của tỉnh và tổ chức thành công một số giải thi đấu đảm bảo yêu cầu về phòng chống dịch Covid-19 như: Giải bóng chuyền Cúp Hoa Lư - Bình Điền năm 2021, tham gia giải có 6 đội bóng chuyền nam và 5 đội bóng chuyền nữ hạng mạnh quốc gia. Kết quả đội nam: Đội Tràng An - Ninh Bình đạt giải Nhất, đội Thể Công, giải Ba Sanest - Khánh Hòa đạt giải Nhì. Đội nữ: Đội VTV Bình Điền - Long An đạt giải Nhất, đội Thái Bình đạt giải Nhì, đội Than Quảng Ninh đạt giải Ba.
Bên cạnh đó, tham dự các giải thi đấu trong nước và đạt giải như: Đoàn vận động viên môn Kick Boxing tham gia thi đấu giải Vô địch Cúp Kick Boxing toàn quốc năm 2021 (từ ngày 22/3- 05/4/2021) tại Bình Định đạt 4 Huy chương Đồng; đoàn vận động viên môn Cờ vua tham gia thi đấu giải Cờ vua quốc gia năm 2021 (từ ngày 20-31/3/2021) tại Thành phố Hồ Chí Minh đạt 01 Huy chương Đồng; đoàn vận động viên Marathon tham gia thi đấu giải Báo Tiền phong lần thứ 62 năm 2021 (từ ngày 22-29/3/2021) tại Gia Lai đạt 01 Huy chương Bạc và 01 Huy chương Đồng.
Thành lập các đoàn vận động viên tham gia các giải: Giải Bóng chuyền nam, Bóng chuyền nữ tham gia thi đấu vòng I giải Bóng chuyền Vô địch quốc gia PV Gas năm 2021 tại Quảng Ninh.
5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Trong tháng, Công an tỉnh tổ chức triển khai các phương án đảm bảo an ninh, trật tự tại Lễ khai mạc Năm Du Lịch Quốc gia - Lễ hội Hoa Lư năm 2021, các phương án giữ gìn an ninh, trật tự, giữ gìn trật tự ATGT, công tác phòng cháy chữa cháy… kiên quyết không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Đồng thời phối hợp với các ngành chức năng làm tốt công tác y tế, công tác phòng chống dịch Covid-19, tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật và các kỹ năng về phòng cháy chữa cháy tại các khu dân cư, đặc biệt các hộ gia đình có kết hợp nhà ở với sản xuất kinh doanh.
Trong tháng, toàn tỉnh đã xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 4 người và 13 người bị thương; đã xảy ra 30 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 07 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 15 đối tượng; xảy ra 01 vụ cháy nhỏ nhà dân, gây thiệt hại 1,5 triệu đồng./.
Website Cục thống kê tỉnh Ninh Bình