Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 9 tháng năm 2021 diễn ra trong bối cảnh đại dịch Covid-19 với biến chủng mới nguy hiểm hơn trên thế giới; ở trong nước đợt dịch Covid-19 lần thứ tư bùng phát trở lại vào cuối tháng Tư tại nhiều địa phương với diễn biến phức tạp hơn, đặc biệt trong quý III, nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó có các tỉnh trọng điểm kinh tế phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Điều này đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội của cả nước nói chung và của tỉnh Ninh Bình nói riêng.
Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cùng sự vào cuộc của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân trong công tác phòng, chống dịch bệnh và thực hiện “mục tiêu kép” trong phát triển kinh tế - xã hội, đến nay tình hình dịch Covid-19 vẫn được kiểm soát tốt, nền kinh tế của tỉnh từng bước phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước.
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Trong 9 tháng đầu năm 2021, thời tiết tương đối thuận lợi nên các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm có xu hướng thuyên giảm rõ rệt, bệnh viêm da nổi cục trên đàn trâu, bò được khống chế hoàn toàn, dịch tả lợn châu Phi cũng đã được kiểm soát nhưng vẫn còn một số địa phương tái dịch và tốc độ tái đàn còn chậm; công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thủy sản phát triển tốt không có dịch bệnh xảy ra. Do vậy, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng đầu năm đã từng bước được ổn định và đạt được những kết quả sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
a) Sản xuất vụ mùa: Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa năm 2021 đạt 37,9 nghìn ha, tăng 0,4% (+ 0,2 nghìn ha) so với vụ mùa năm trước.
Cây lúa: Diện tích gieo cấy lúa vụ mùa năm nay đạt 31,8 nghìn ha, tăng 0,5% (+ 0,2 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước; trong đó, cơ cấu lúa thuần chiếm 93,6% tổng diện tích lúa đã cấy, diện tích lúa thuần tăng 0,6% (+ 0,2 nghìn ha); toàn tỉnh gieo cấy được 17,4 nghìn ha lúa chất lượng cao, bằng 54,6% tổng diện tích lúa đã cấy; diện tích lúa chất lượng cao giảm 0,8% (- 0,2 nghìn ha). Diện tích lúa nếp trong vụ gieo cấy đạt 6,1 nghìn ha, chiếm 19,1 % tổng diện tích lúa đã cấy tăng 1,3% (+ 0,4 nghìn ha). Diện tích lúa nếp cau và lúa ST 25 ngày càng được mở rộng nhằm nâng cao thu nhập và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường.
Tính đến 22/9/2021, toàn tỉnh có 28,4 nghìn ha lúa đã trỗ, bằng 89,4% diện tích lúa đã cấy; diện tích lúa thu hoạch đạt 1,4 nghìn ha (tập trung chủ yếu ở huyện Nho Quan 915 ha, huyện Yên Mô 500 ha). Ước tính năng suất lúa vụ mùa năm nay đạt 54,2 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; sản lượng ước đạt 172,6 nghìn tấn, tăng 0,6% (+ 1,1 nghìn tấn) so với vụ mùa năm 2020.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng ngô vụ mùa 2021 đạt 1,4 nghìn ha, tăng 4,1% (+ 0,05 nghìn ha); năng suất ước đạt 36,1 tạ/ha, tăng 1,1% (+ 0,4 tạ/ha); sản lượng ước đạt 5,0 nghìn tấn, tăng 5,2% (+ 0,3 nghìn tấn).
Cây sắn: Diện tích sắn đạt 0,3 nghìn ha, tăng 21,0% (+ 0,04 nghìn ha); năng suất ước đạt 280,1 tạ/ha, tăng 0,2% (+ 0,5 tạ/ha), sản lượng ước đạt 7,6 nghìn tấn, tăng 21,2% (+1,3 nghìn tấn).
Cây mía: Diện tích cây mía năm nay giảm tương đối nhiều so với cùng vụ năm trước, chỉ đạt 0,5 nghìn ha, giảm 30,4% (- 0,2 nghìn ha), nguyên nhân do giá bán thấp, người dân chuyển đổi sang trồng các loại cây ăn quả như dứa, na...; năng suất mía ước đạt 650,7 tạ/ha; sản lượng ước đạt 32,2 nghìn tấn, giảm 30,4% (- 14,1 nghìn tấn).
Cây rau, đậu: Diện tích cây rau, đậu vụ mùa năm nay đạt 2,3 nghìn ha, tăng 4,2%, trong đó cây rau đạt 2,1 nghìn ha, tăng 6,4%, cây đậu đạt 0,2 nghìn ha, giảm 12,4%; sản lượng rau ước đạt 38,4 nghìn tấn, tăng 7,5% (+2,7 nghìn tấn); sản lượng đậu ước đạt 0,3 nghìn tấn, giảm 11,6% (- 0,04 nghìn tấn)...
Tình hình sâu bệnh: Đến ngày 22/9/2021, toàn tỉnh hiện có 6,2 nghìn ha lúa bị khô vằn với 0,6 nghìn ha bị nặng, phòng trừ được 4,9 nghìn ha; 0,3 nghìn ha lúa bị đốm sọc vi khuẩn, trong đó 6 ha bị nặng, phòng trừ được 0,2 nghìn ha...
b) Kết quả 9 tháng đầu năm 2021
Cây hàng năm: Tính chung lại, diện tích gieo trồng cây hàng năm đến nay đạt 93,9 nghìn ha, giảm 1,3% (- 1,3 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích lúa gieo cấy đạt 71,8 nghìn ha, giảm 0,2% (- 0,1 nghìn ha); cây rau các loại diện tích đạt 9,4 nghìn ha, tăng 0,3% (+ 0,03 nghìn ha)...
Sản lượng cây trồng: Trong 9 tháng đầu năm, sản lượng lúa ước đạt 271,3 nghìn tấn, tăng 0,04% (+ 0,1 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng lúa vụ đông xuân đạt 266,8 nghìn tấn, sản lượng lúa tái sinh ước đạt 4,5 nghìn tấn; sản lượng rau các loại ước đạt 168,5 nghìn tấn, tăng 1,6% (+ 2,7 nghìn tấn)...
Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm 9 tháng đầu năm 2021 ước đạt 7,5 nghìn ha, tăng 2,1% (+ 0,2 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt 6,8 nghìn ha, tăng 2,4% (+ 0,2 nghìn ha).
Do thời tiết thuận lợi nên năng suất các loại cây ăn quả đạt khá. Trong 9 tháng đầu năm 2021, sản lượng cây ăn quả ước đạt 84,0 nghìn tấn, tăng 2,8% (+ 2,3 nghìn tấn); trong đó sản lượng dứa ước đạt 50,9 nghìn tấn, tăng 3,3%; sản lượng na ước đạt 3,0 nghìn tấn, tăng 3,2%...
1.1.2. Chăn nuôi
Trong 9 tháng đầu năm 2021, sản xuất chăn nuôi vẫn gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm.
Tại thời điểm báo cáo, tổng đàn trâu, bò ước đạt trên 49,1 nghìn con, giảm 0,9% (- 0,4 nghìn con) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn trâu giảm 0,7% (- 0,1 nghìn con); đàn bò giảm 0,9% (- 0,3 nghìn con); đàn lợn ước đạt 272,5 nghìn con, tăng 31,4% (+ 65,1 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt 6,5 triệu con, tăng 6,7% (+ 0,4 triệu con), trong đó, đàn gà ước đạt 4,3 triệu con, tăng 5,0% (+ 0,2 triệu con).
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng: trong tháng 9, đàn trâu, bò ước đạt 218,1 tấn, giảm 0,9% (- 2,0 tấn) so với cùng kỳ năm trước; đàn lợn ước đạt 3,4 nghìn tấn, tăng 6,8% (+ 0,2 nghìn tấn); đàn gia cầm ước đạt 1,0 nghìn tấn, tăng 9,3% (+ 0,08 nghìn tấn). Tính chung 9 tháng đầu năm sản lượng thịt trâu, bò hơi xuất chuồng ước đạt 2.726,2 tấn, giảm 1,5% (- 41 tấn) so với cùng kỳ năm trước; đàn lợn đạt gần 28,6 nghìn tấn, tăng 7,0% (+ 1,9 nghìn tấn); đàn gia cầm ước đạt 9,6 nghìn tấn, tăng 18,6% (+ 1,5 nghìn tấn).
Sản lượng trứng gia cầm tháng 9 ước đạt 14,0 triệu quả, tăng 5,8% (+ 0,8 triệu quả); tính chung 9 tháng đầu năm sản lượng trứng gia cầm ước đạt 115 triệu quả, tăng 5,5% (+ 6,0 triệu quả) so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình dịch bệnh: Bệnh viêm da nổi cục xuất hiện tháng 01/2021 trên địa bàn huyện Yên Mô sau đó lan sang các địa phương khác với trên 3 nghìn con trâu, bò bị nhiễm bệnh. Trong thời gian diễn ra dịch bệnh, toàn tỉnh đã tiêu hủy 480 con trâu, bò bị bệnh với tổng trọng lượng 62,4 tấn. Trước tình hình đó, UBND tỉnh Ninh Bình đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện quyết liệt các biện pháp phòng chống, ngăn chặn dịch bệnh, đến nay dịch bệnh đã được khống chế hoàn toàn.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 2/8 huyện, thành phố công bố hết dịch tả lợn Châu Phi là huyện Hoa Lư và thành phố Ninh Bình; trong tháng, một số huyện, thành phố đã tái dịch trở lại. Các cấp, các ngành tiếp tục chỉ đạo các địa phương còn dịch thực hiện công tác vệ sinh, khử trùng, khoanh vùng, dập dịch. Số lượng lợn tiêu hủy tính từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 21/9/2021 là 2.959 con với trọng lượng tiêu hủy là 205,9 nghìn tấn.
Trong 9 tháng đầu năm, dịch cúm gia cầm có xuất hiện nhưng ít ảnh hưởng đến tổng đàn và đã được khống chế trong tháng Tư năm 2021.
Công tác phòng chống dịch bệnh luôn được quan tâm thực hiện, trong 9 tháng đầu năm Chi cục Thú y đã cấp được 18,5 nghìn lít hóa chất RTD TC01-PLUS cho 8 huyện, thành phố để tổ chức phun hóa chất khử trùng tiêu độc môi trường phòng chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi. Bên cạnh đó đã triển khai tiêm phòng vắc xin lở mồm long móng được 15,4 nghìn lượt con; vắc xin cúm gia cầm tiêm được 1.874,4 nghìn lượt con tương đương với 3.168,2 nghìn liều; vắc xin dại chó tiêm cho 45,0 nghìn lượt con với 45,0 nghìn liều.
1.2. Lâm nghiệp
Trong tháng, thời tiết thuận lợi, các hộ tiếp tục trồng rừng vụ thu đông, diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 9 ước đạt 49 ha, tăng 16,7% (+ 7,0 ha) so với cùng tháng năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,5 nghìn m3, tăng 4,3% (+ 0,1 nghìn m3); sản lượng củi ước đạt 2,8 nghìn ste, tăng 2,5% (+ 0,1 nghìn ste); số cây trồng phân tán ước đạt 43,0 nghìn cây, tăng 9,7% (+3,8 nghìn cây).
Sản xuất lâm nghiệp trong 9 tháng đầu năm phát triển ổn định, công tác khoanh nuôi, bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm. Tính chung lại, trong 9 tháng, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 175 ha, giảm 9,3% (-0,02 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 20,7 nghìn m3, tăng 3,4% (+0,7 nghìn m3); sản lượng củi khai thác ước đạt 22,8 nghìn ste, giảm 3,4% (- 0,8 nghìn ste); số cây trồng phân tán ước đạt 473,0 nghìn cây, tăng 9,1% (+ 39,6 nghìn cây).
1.3. Thủy sản
9 tháng đầu năm 2021, sản xuất thủy sản phát triển trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, các đối tượng nuôi sinh trưởng và phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra. Đối với các vùng nuôi tập trung, hầu hết các hộ đã ứng dụng công nghệ vi sinh để quản lý môi trường ao nuôi, nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và thu nhập cho người nuôi.
Dịch Covid-19 trong nước diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng đến việc tiêu thụ thủy sản. Huyện Kim Sơn triển khai giãn cách xã hội theo chỉ thị 15/CT-TTg và một số xã vùng bãi bồi thực hiện theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ từ ngày 27/8/2021 đến ngày 09/9/2021, do vậy làm hạn chế hoạt động lưu thông, xuất bán sản phẩm thủy sản trong vùng dẫn đến giá bán giảm. Các cơ sở sản xuất ngao, hàu giống cũng gặp khó khăn trong việc xuất bán hàu giống, giá giảm do các thị trường tiêu thụ hàu thương phẩm ở Quảng Ninh, Hải Phòng bị ảnh hưởng.
Sản lượng thủy sản tháng Chín ước đạt 5,7 nghìn tấn, tăng 4,1% (+ 0,2 nghìn tấn) so với cùng tháng năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,1 nghìn tấn, tăng 4,7%, sản lượng khai thác ước đạt 0,6 nghìn tấn, giảm 1,4%.
Sản lượng thuỷ sản 9 tháng đầu năm ước đạt 47,3 nghìn tấn, tăng 6,8% (+3,0 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: sản lượng nuôi trồng đạt 42,1 nghìn tấn, tăng 7,6% (tăng 3,0 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 5,2 nghìn tấn, tăng 0,7% (+ 36 tấn). Sản lượng cá ước đạt 25,7 nghìn tấn, tăng 3,0% (+ 0,8 nghìn tấn); sản lượng tôm ước đạt 2,9 nghìn tấn, tăng 7,6% (+0,2 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khác ước đạt 18,7 nghìn tấn, tăng 12,3% (+ 2,0 nghìn tấn).
2. Sản xuất công nghiệp
Dịch Covid-19 đã tác động tiêu cực đến hoạt động cung ứng nguyên vật liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra của một số ngành sản xuất công nghiệp trọng điểm của tỉnh. Với việc chủ động tăng cường thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 tại các cở sở sản xuất kinh doanh, các Khu, Cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khá trong 6 tháng đầu năm, tuy quý III có dấu hiệu sụt giảm, nhưng tính chung 9 tháng đầu năm nay vẫn duy trì tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Chín năm nay ước tính tăng 0,81% so với cùng tháng năm 2020, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 0,24%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,85%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 16,36%, riêng ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 3,62%.
So với tháng trước (tháng 8/2021), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 5,83%, trong đó: công nghiệp khai khoáng giảm 3,15%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,92%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 19,48%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,93%.
Tính chung lại 9 tháng đầu năm 2021 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 7,89%, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 29,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,45%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,66%; riêng ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 8,67%.
Giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp tháng Chín toàn tỉnh ước đạt 8.858,7 tỷ đồng, tăng 1,6% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: công nghiệp khai khoáng 55,0 tỷ đồng, tăng 0,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.706,9 tỷ đồng, tăng 1,6%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 77,1 tỷ đồng, giảm 2,2%; cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải 19,7 tỷ đồng, tăng 7,2%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 71.404,6 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó: công nghiệp khai khoáng 458,5 tỷ đồng, tăng 29,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo 70.001,4 tỷ đồng, tăng 7,9%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện đạt 803,9 tỷ đồng, giảm 4,9%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải 140,8 tỷ đồng, tăng 7,1%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Trong tháng Chín năm 2021 một số sản phẩm công nghiệp tăng khá so với cùng tháng năm trước là: ngô ngọt đóng hộp 400,0 tấn, tăng 96,4%; dứa đóng hộp 1,3 nghìn tấn, gấp 2,1 lần; nước dứa tươi 230,0 nghìn lít, tăng 35,3%; thức ăn cho gia súc 1,7 nghìn tấn, tăng 12,5%; nước khoáng không có ga 0,6 triệu lít, tăng 26,1%; hàng thêu 291,9 nghìn m2, gấp 2,2 lần; quần áo các loại 13,0 triệu cái, tăng 59,1%; giày, dép các loại 4,3 triệu đôi, tăng 25,4%; phân ure 43,0 nghìn tấn, gấp 2,6 lần; phân NPK 11,2 nghìn tấn, gấp 2,2 lần; phân lân nung chảy 13,1 nghìn tấn, gấp 2,0 lần; modul camera 26,0 triệu cái, tăng 31,3%; xe ô tô chở hàng 800 chiếc, tăng 45,7%; cần gạt nước ô tô 1,3 triệu cái, tăng 7,8%; điện thương phẩm 241,7 triệu kWh, tăng 6,5%; nước máy thương phẩm 2,4 triệu m3, tăng 16,7%;... Bên cạnh đó, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: xi măng 517,3 nghìn tấn, giảm 9,5%; clanke 324,3 nghìn tấn, giảm 15,1%; linh kiện điện tử 15,0 triệu cái, giảm 26,8%; tai nghe điện thoại di động 850,0 nghìn cái, giảm 57,3%; kính máy ảnh 100,0 nghìn cái, giảm 67,7%; xe ô tô 5-14 chỗ 5,4 nghìn chiếc, giảm 9,6%; đồ chơi hình con vật 1,3 triệu con, giảm 21,8%; điện sản xuất 34,5 triệu kWh, giảm 13,7%...
Tính chung lại, 9 tháng đầu năm 2021 các sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm 2020 là: đá các loại 3,1 triệu m3, tăng 27,6%; dứa đóng hộp 8,2 nghìn tấn, tăng 51,2%; nước dứa tươi 2,2 triệu lít, tăng 23,8%; thức ăn cho gia súc 17,3 nghìn tấn, tăng 14,0%; hàng thêu 1,7 triệu m2, gấp 2,0 lần; quần áo các loại 79,7 triệu cái, tăng 29,1%; giày, dép các loại 33,4 triệu đôi, tăng 27,6%; phân ure 370,8 nghìn tấn, tăng 52,0%; phân NPK 97,4 nghìn tấn, tăng 45,4%; phân lân nung chảy 105,5 nghìn tấn, tăng 38,6%; modul camera 187,9 triệu cái, tăng 53,5%; kính máy ảnh 1,6 triệu cái, tăng 23,1%; xe ô tô 5-14 chỗ 48,8 nghìn chiếc, tăng 2,1%; xe ô tô chở hàng 6,4 nghìn chiếc, gấp 3,7 lần; cần gạt nước ô tô 10,7 triệu cái, tăng 54,9%; đồ chơi hình con vật 10,9 triệu con, tăng 9,9%; điện thương phẩm 1.918,4 triệu kWh, tăng 5,4%; nước máy thương phẩm 20,2 triệu m3, tăng 25,5%... Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm sút như: nước khoáng không có ga 3,6 triệu lít, giảm 10,1%; găng tay 3,6 triệu đôi, giảm 24,8%; clanke 2,3 triệu tấn, giảm 15,6%; linh kiện điện tử 103,1 triệu cái, giảm 26,6%; tai nghe điện thoại di động 5,5 triệu cái, giảm 52,0%; điện sản xuất 496,7 triệu kWh, giảm 16,5%;...
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: trong tháng Chín giảm 26,03% so với cùng tháng năm trước. Duy nhất có 02 ngành có chỉ số tồn kho giảm gồm: ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 60,48% và ngành sản xuất xe có động cơ giảm 91,18%; các ngành còn lại đều có chỉ số tồn kho tăng, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 89,89%; sản xuất trang phục gấp 6,2 lần; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy gấp 2.788,6 lần; sản xuất kim loại gấp 2,7 lần; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học gấp 2,6 lần; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 78,42%...
Khối lượng tồn kho một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu đến 31/8/2021 là: giày, dép vải 3,3 triệu đôi; đạm urê 14,5 nghìn tấn; phân NPK 39,4 nghìn tấn; phân lân nung chảy 16,4 nghìn tấn; kính xây dựng 86,8 nghìn tấn; xi măng 19,0 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim được cán nóng 21,3 nghìn tấn; camera và linh kiện điện tử 3,9 triệu cái; loa, tai nghe điện thoại 741,2 nghìn cái; xe ô tô 5-14 chỗ 121 chiếc...
3. Vốn đầu tư và phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển thực hiện trên địa bàn tháng Chín năm nay ước đạt trên 2.374,6 tỷ đồng, giảm 5,2% so với cùng tháng năm 2020. Chia ra: vốn Nhà nước 422,2 tỷ đồng, tăng 0,9%; vốn ngoài Nhà nước 1.684,4 tỷ đồng, giảm 2,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 268,0 tỷ đồng, giảm 25,4%.
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển 9 tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh ước thực hiện trên 19.555,4 tỷ đồng, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: vốn Nhà nước 3.459,4 tỷ đồng, tăng 18,5%; vốn ngoài Nhà nước 14.842,4 tỷ đồng, tăng 2,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.253,6 tỷ đồng, giảm 0,8%.
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện trong 9 tháng đầu năm 2021 tập trung ở một số công trình, dự án như:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn, xã Gia Xuân, huyện Gia Viễn ước đạt 128,8 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đê hữu Hoàng Long và sông Đáy kết hợp giao thông đoạn từ Bái Đính đi Kim Sơn ước đạt 115,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Bái Đính (Ninh Bình) - Ba Sao (Hà Nam), đoạn qua địa phận tỉnh Ninh Bình ước đạt 99,8 tỷ đồng; dự án làm đường ô tô đến trung tâm các xã Mai Sơn, Khánh Thượng, Khánh Thịnh, huyện Yên Mô ước đạt 62,0 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu Trung tâm Hành chính huyện Gia Viễn ước đạt 37,8 tỷ đồng; dự án Xây dựng tuyến đường khu dân cư phố thống nhất vào Mỹ Cát ước đạt 32,9 tỷ đồng…
- Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Các dự án xây dựng, sửa chữa, cải tạo công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt gần 154,3 tỷ đồng; dự án xây dựng các công trình thủy lợi của Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Ninh Bình ước đạt 10,1 tỷ đồng.
- Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án xây dựng khu trung tâm liên hợp du lịch và thể thao sân golf hồ Yên Thắng của Công ty Cổ phần Đầu tư PV- Inconess ước đạt 154,6 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy nước sạch Hoàng Long và mạng lưới đường ống cung cấp nước ước đạt 127,5 tỷ đồng, dự án xây dựng hạ tầng Cụm công nghiệp Gia Phú, huyện Gia Viễn đạt 75,5 tỷ đồng của Công ty TNHH MTV Đầu tư và Xây dựng Hoàng Dân; dự án xây dựng hầm Tràng An và bến thuyền Tràng An ước đạt 91,0 tỷ đồng của DNTN Xây dựng Xuân Trường…
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện camera modul của Công ty TNHH McNex Vina ước đạt 449,5 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty cổ phần sản xuất ô tô Huyndai Thành Công Việt Nam ước đạt 291,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất mỹ phẩm, xà phòng của Công ty TNHH Global Tone ước đạt 128,4 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc phục vụ sản xuất giày của Công Ty TNHH Sản Xuất Giày Chung Jye ước đạt 96,5 tỷ đồng…
- Dự án vốn ODA: Dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 100,0 tỷ đồng; dự án xây dựng hệ thống cống kiểm soát ngăn mặn và nâng cấp đê Dưỡng Điềm kết hợp nâng cấp bờ sông thành đường cứu hộ, cứu nạn chống xâm nhập mặn, phục vụ phòng chống lụt bão liên huyện Yên Khánh - Kim Sơn ước đạt 23,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp, mở rộng tuyến thoát lũ, kè chống sạt lở bờ tả, hữu sông Hoàng Long, trồng tre chắn sóng đoạn từ cầu Trường Yên đến cầu Gián Khẩu ước đạt 20,5 tỷ đồng.
- Dự án vốn Trái phiếu Chính phủ: Dự án thành phần đầu tư xây dựng Đoạn Cao Bồ-Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía đông ước đạt 322,8 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng xây dựng tuyến đường cao tốc Cầu Giẽ Ninh Bình với Quốc lộ 1A đoạn qua thành phố Tam Điệp ước đạt 398,1 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đê Bình Minh 4, huyện Kim Sơn ước đạt 78,1 tỷ đồng.
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
Trong những tháng đầu năm 2021, ngành thương mại, dịch vụ của tỉnh có sự hồi phục đáng kể đạt tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ. Tuy nhiên, từ cuối tháng Tư, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động thương mại, vận tải, dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh gặp rất nhiều khó khăn khi trong quý III một số ngành kinh doanh dịch vụ gồm hoạt động du lịch, dịch vụ không thiết yếu nhiều lần phải tạm ngừng hoạt động, đến khi được phép hoạt động trở lại phải thực hiện nghiêm các biện pháp về phòng chống dịch Covid-19 theo quy định, điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Vì thế tuy có sự sụt giảm ở các tháng trong quý III nhưng tính chung 9 tháng đầu năm nay doanh thu các ngành dịch vụ vẫn đạt mức tăng khá so với cùng kỳ năm 2020.
4.1. Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh tháng Chín ước đạt gần 2.760,6 tỷ đồng giảm 1,0% so với tháng 9/2020, là tháng đầu tiên kể từ đầu năm 2021 ghi nhận mức sụt giảm của hoạt động bán lẻ, tập trung ở một số nhóm hàng hóa không thiết yếu như: nhóm hàng may mặc ước đạt 196,5 tỷ đồng, giảm 17,1%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 286,6 tỷ đồng, giảm 7,5%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 53,2 tỷ đồng, giảm 1,5%; phương tiện đi lại (trừ ô tô, kể cả phụ tùng) 154,0 tỷ đồng, giảm 13,0%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 60,2 tỷ đồng, giảm 1,7%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 89,5 tỷ đồng, giảm 4,1%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 69,8 tỷ đồng, giảm 4,0%... Bên cạnh đó, các nhóm hàng hóa thiết yếu vẫn đạt mức tăng so với cùng tháng năm trước: lương thực, thực phẩm 866,6 tỷ đồng, tăng 6,9%; gỗ và vật liệu xây dựng 474,4 tỷ đồng, tăng 1,7%; hàng hóa khác 118,5 tỷ đồng, tăng 4,6%.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh trong 9 tháng năm 2021 ước thực hiện trên 25.152,1 tỷ đồng, tăng 18,2% so với 9 tháng 2020. Tất cả các nhóm hàng đều đạt mức tăng khá, cụ thể: lương thực, thực phẩm ước đạt 7.615,0 tỷ đồng, tăng 17,7%; hàng may mặc 1.885,5 tỷ đồng, tăng 17,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 2.772,2 tỷ đồng, tăng 13,2%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 434,1 tỷ đồng, tăng 18,2%; gỗ và vật liệu xây dựng 4.184,7 tỷ đồng, tăng 16,8%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 1.280,8 tỷ đồng, tăng 22,1%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 1.485,1 tỷ đồng, tăng 7,4%; xăng, dầu các loại 2.351,1 tỷ đồng, tăng 27,9%; nhiên liệu khác 547,4 tỷ đồng, tăng 19,2%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 875,0 tỷ đồng, tăng 22,0%; hàng hoá khác 1.060,8 tỷ đồng, tăng 32,6%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 660,4 tỷ đồng, tăng 18,2%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong tháng Chín ước đạt gần 377,5 tỷ đồng, tăng 2,4% so với cùng tháng năm trước, doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt trên 239,8 tỷ đồng, tăng 5,1%.
Trong 9 tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 3.540,8 tỷ đồng, tăng 29,2% so với cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 244,1 tỷ đồng, tăng 22,6%; doanh thu dịch vụ ăn uống 3.296,7 tỷ đồng, tăng 29,8%); doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 3,5 tỷ đồng, giảm 21,4%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 2.150,8 tỷ đồng, tăng 21,4%.
4.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Thị trường giá cả hàng hóa trên địa bàn tỉnh trong tháng Chín nhìn chung diễn biến tương đối ổn định. Sau hai tháng tăng liên tiếp trước đó, chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chung (CPI) tháng Chín giảm 0,49% so với tháng trước. So với tháng 12 năm 2020 CPI tháng này tăng 1,59% và tăng 0,95% so với cùng tháng năm trước. Bình quân 9 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 0,95% so với cùng kỳ.
So với tháng trước, chỉ có 03 trong tổng số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giảm, cụ thể: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm sâu nhất với 1,46% là nguyên nhân chính tác động làm giảm CPI trong tháng; trong đó: nhóm lương thực giảm 0,54% do trong tháng người dân bắt đầu thu hoạch lúa vụ mùa nên nguồn cung gạo dồi dào kéo theo giá gạo giảm 1,4% so với tháng trước (giá gạo tẻ thường giảm 1,27%; gạo tẻ ngon giảm 2,24%); nhóm thực phẩm giảm 2,14% chủ yếu do tác động của giá lợn giảm 8,69% khi dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn tỉnh cơ bản được kiểm soát, các hộ chăn nuôi tiếp tục mở rộng tái đàn trở lại nên nguồn cung thịt lợn tăng cao dẫn đến giá nhóm thịt gia súc giảm 6,9% và giá nhóm thịt chế biến cũng giảm 3,89% (giá thịt quay, giò, chả giảm 3,97%); riêng nhóm ăn uống ngoài gia đình vẫn giữ nguyên. Tiếp đến nhóm giao thông giảm 0,52% do sau khi được điều chỉnh giảm giá, giá xăng đã giảm 1,37%, giá dầu diezel giảm 1,6% làm cho giá nhiên liệu giảm 1,34% so với tháng trước; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm nhẹ 0,08%. Hai nhóm có chỉ số giá tăng gồm: nhóm giáo dục tăng 0,42%, do trong tháng học sinh trong tỉnh bắt đầu đi học nên nhu cầu mua sắm sách vở, đồ dùng học tập tăng làm cho giá của nhóm hàng này tăng 1,98%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,24%, do giá điện sinh hoạt bình quân tăng 0,72% và giá gas tăng 1,05%. Sáu nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giữ nguyên gồm: nhóm đồ uống và thuốc lá, nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình, nhóm thuốc và dịch vụ y tế, nhóm bưu chính viễn thông và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác.
CPI bình quân 9 tháng đầu năm 2021 tăng 0,95% so với cùng kỳ năm trước. Có đến 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: nhóm giao thông tăng cao nhất 8,38%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 5,48%; nhóm giáo dục tăng 4,64%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,02%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,84%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,49%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,35%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,17%. Ba nhóm còn lại có chỉ số giảm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,62% (lương thực tăng 5,01%; thực phẩm giảm 4,38%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,86%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,37%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,19%.
Một số nguyên nhân chính làm tăng CPI 9 tháng 2021: i) Giá xăng, dầu liên tục được điều chỉnh tăng trong 9 tháng kéo theo nhóm nhiên liệu tăng 24,44% so với cùng kỳ năm trước; ii) Giá điện sinh hoạt bình quân tăng 12,23% do trong các tháng 5, tháng 6 và tháng 7 năm 2020 khách hàng sử dụng điện được hỗ trợ giảm giá điện và tiền điện theo gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp khó khăn do dịch Covid-19; iii) Giá gas trong nước tăng theo đà tăng của giá gas thế giới, so với cùng kỳ năm trước giá gas bình quân trong 9 tháng năm nay đã tăng 15,17%; iiii) Giá dịch vụ giáo dục tăng 5,55% do mức học phí các cấp học đồng loạt tăng theo Nghị quyết số 21/2018/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Ninh Bình ngày 10/7/2018 đã quy định từ năm học 2019-2020 trở đi, hàng năm, mức tăng học phí được tính bằng mức học phí của năm trước liền kề nhân với mức tăng bình quân chỉ số giá tiêu dùng do Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo (làm tròn đến hàng nghìn).
Bên cạnh đó, một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 9 tháng đầu năm 2021 là: i)Tình hình chăn nuôi trong 9 tháng đầu năm đã phục hồi trở lại khi dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát, các hộ chăn nuôi yên tâm tái đàn nên nguồn cung thịt dồi dào, so với cùng kỳ năm trước giá thịt gia súc giảm 11,39%; ii) Trước ảnh hưởng của 2 đợt dịch Covid-19 lần thứ 3 và thứ 4, người dân hạn chế đi lại và đi du lịch, theo đó giá dịch vụ giao thông công cộng giảm 1,58%; giá du lịch trọn gói giảm 3,23%.
Chỉ số giá vàng và chỉ số Đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng này tăng 0,05% so với tháng trước, giảm 2,72% với tháng 12/2020 và giảm 3,02% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá bán lẻ đô la Mỹ giảm 0,16% so với tháng 8/2021, tăng 2,3% so với tháng 12 năm trước và giảm 4,35% so với tháng 9/2020. Bình quân 9 tháng đầu năm, chỉ số giá vàng tăng 14,29%; chỉ số Đô la Mỹ giảm 7,52% so với cùng kỳ năm 2020.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu tháng Chín năm 2021 đạt trên 247,7 triệu USD, giảm 19,2% so với tháng Chín năm 2020. Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 9 tháng năm nay ước đạt trên 2.025,0 triệu USD, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 306,6 triệu USD; xi măng, clanke đạt 422,0 triệu USD; giày, dép các loại đạt 461,7 triệu USD; camera và linh kiện 584,4 triệu USD; linh kiện điện tử 50,4 triệu USD; phân u rê 18,3 triệu USD…
Trong 9 tháng năm nay, sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của tỉnh tăng khá so với cùng kỳ như: quần áo các loại 49,2 triệu chiếc, tăng 29,2%; sản phẩm cói khác 1,6 triệu sản phẩm, gấp 2,3 lần; hàng thêu ren 136,5 nghìn chiếc, tăng 75,8%; xi măng, clanke 11,1 triệu tấn, tăng 5,6%; camera và linh kiện 195,0 triệu sản phẩm, tăng 54,9%; giày, dép các loại 44,3 triệu đôi, tăng 53,1%; cần gạt nước 11,3 triệu chiếc, tăng 43,7%; kính quang học 1,4 triệu chiếc, tăng 14,2%... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút so với cùng kỳ như: dứa, dưa chuột đóng hộp 7,5 nghìn tấn, giảm 27,0%; thảm cói 12,4 nghìn m2, giảm 65,7%; găng tay các loại 3,3 triệu đôi, giảm 24,0%; phôi nhôm 7,5 nghìn tấn, giảm 54,0%...
Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu tháng Chín ước đạt 286,7 triệu USD, tăng 8,7% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 9 tháng năm nay ước đạt 2.326,0 triệu USD, tăng 4,4% so với 9 tháng năm 2020. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 871,1 triệu USD; linh kiện điện tử 638,8 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 329,1 triệu USD; vải và phụ liệu may mặc 158,2 triệu USD; phế liệu sắt thép 85,6 triệu USD; máy móc, thiết bị 49,8 triệu USD; ô tô 35,5 triệu USD…
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Trước tác động của dịch bệnh Covid-19, hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh cũng chịu ảnh hưởng đáng kể, đặc biệt là vận tải hành khách, trong đó vận tải hành khách bằng ô tô từ Ninh Bình đi, đến các vùng có dịch và ngược lại phải dừng hoạt động, vận tải hành khách bằng đường thủy do chủ yếu phục vụ khách du lịch nên có sự sụt giảm khi các khu du lịch tạm ngừng đón khách. Vận tải hàng hóa duy trì bình thường nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ nghiêm các biện pháp về phòng chống dịch Covid-19 và phải thực hiện xét nghiệm kháng nguyên theo quy định.
Vận tải hành khách: Hoạt động vận tải hành khách trong tháng Chín tiếp tục sụt giảm, khối lượng vận chuyển hành khách ước thực hiện trên 0,9 triệu lượt khách, giảm 43,9% so với cùng tháng năm trước, khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 52,0 triệu lượt khách.km, giảm 41,6%. Tính chung 9 tháng năm 2021, khối lượng hành khách vận chuyển ước thực hiện gần 12,7 triệu lượt khách, tăng 4,1% so với 9 tháng 2020. Trong đó, chủ yếu là vận tải đường bộ ước đạt 11,7 triệu lượt khách, tăng 9,0%; vận tải đường thủy 1,0 triệu lượt khách, giảm 31,8%. Khối lượng luân chuyển hành khách ước thực hiện gần 696,8 triệu lượt khách.km, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vận tải đường bộ ước đạt 692,9 triệu lượt khách.km, tăng 6,4%; vận tải đường thủy 3,9 triệu lượt khách.km, giảm 30,9%.
Vận tải hàng hóa: Tháng Chín ước thực hiện trên 4,5 triệu tấn vận chuyển, giảm 8,2% so với tháng 9 năm trước và luân chuyển 656,5 triệu tấn.km, giảm 10,2%. Ước tính 9 tháng đầu năm 2021, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt gần 39,4 triệu tấn, tăng 3,6% và luân chuyển trên 5.561,8 triệu tấn.km, tăng 3,5% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 18,5 triệu tấn, tăng 2,8% và 965,1 triệu tấn.km, tăng 5,4%; vận tải đường thủy nội địa gần 19,6 triệu tấn, tăng 3,9% và 3.885,1 triệu tấn.km, tăng 2,1%; vận tải đường biển trên 1,3 triệu tấn, tăng 9,6% và 711,6 triệu tấn.km, tăng 9,5%.
Doanh thu vận tải: Trong tháng Chín ước đạt 509,3 tỷ đồng, giảm 11,6%. Ước tính trong 9 tháng đầu năm, doanh thu vận tải toàn tỉnh đạt gần 4.782,9 tỷ đồng, tăng 5,4% so với cùng kỳ. Phân theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước thực hiện 575,6 tỷ đồng, tăng 12,3%; vận tải hàng hóa 4.054,1 tỷ đồng, tăng 6,2%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 149,0 tỷ đồng, giảm 28,4%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 4,2 tỷ đồng, gấp gần 3,7 lần.
4.5. Hoạt động du lịch
Năm 2021, tiếp tục là một năm đầy khó khăn và thách thức đối với ngành du lịch Ninh Bình do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Để đảm bảo phòng, chống dịch trên địa bàn, các điểm du lịch đã phải tạm ngừng đón khách từ ngày 07/5/2021, sau khi được hoạt động trở lại trong thời gian ngắn nửa đầu tháng Bảy (từ ngày 03/7/2021 đến hết ngày 17/7/2021), từ 00 giờ 00 phút ngày 18/7/2021 lại tiếp tục ngừng đón khách. Vì thế số lượng khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn toàn tỉnh 9 tháng năm 2021 giảm mạnh, đặc biệt là khách quốc tế.
Ước tính tổng số lượng khách đến các điểm thăm quan du lịch trên địa bàn toàn tỉnh 9 tháng năm 2021 đạt 925,7 nghìn lượt, giảm 54,5% so với 9 tháng năm 2020, chia ra: khách trong nước đạt 912,3 nghìn lượt, giảm 50,9%; khách quốc tế 13,4 nghìn lượt, giảm 92,5%. Số lượt khách đến các cơ sở lưu trú đạt trên 178,1 nghìn lượt khách, giảm 45,0%; số ngày khách lưu trú ước đạt gần 239,8 nghìn ngày khách, giảm 44,6%.
Doanh thu du lịch trong 9 tháng ước thực hiện trên 594,9 tỷ đồng, giảm 49,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu lưu trú ước thực hiện trên 132,3 tỷ đồng, giảm 44,9%; doanh thu nhà hàng trên 217,7 tỷ đồng, giảm 51,5%...
5. Một số vấn đề xã hội
Bước sang năm 2021, tiếp tục chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, đặc biệt đợt bùng phát dịch lần thứ tư vào cuối tháng Tư, đầu tháng Năm tới nay có diễn biến khá phức tạp và nghiêm trọng, nhất là ở Hà Nội và các tỉnh phía Nam, đã tác động sâu, rộng đến các hoạt động kinh tế, đời sống. Trước tình hình đó, để đảm bảo sức khỏe cho nhân dân, đồng thời đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cả hệ thống chính trị của tỉnh đã tập trung cao cho công tác phòng, chống dịch, bên cạnh đó thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh.
5.1. Lao động và việc làm
Trong 9 tháng năm 2021, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 14,0 nghìn lao động, trong đó xuất khẩu lao động gần 0,5 nghìn trường hợp; tổ chức đào tạo nghề cho gần 11,5 nghìn lao động, trong đó lao động đào tạo dài hạn là 3,0 nghìn người, đào tạo ngắn hạn 8,5 nghìn người; tư vấn, giới thiệu việc làm cho gần 18,0 nghìn lao động; giải quyết cho 3,7 nghìn lao động được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp.
Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, tính đến ngày 14/9/2021 toàn tỉnh đã thực hiện hỗ trợ 3.021,5 triệu đồng cho 1.369 đối tượng; giảm mức đóng vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho 2.481 đơn vị, tương ứng với số lao động được được giảm mức đóng là 99.072 người; hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương cho người lao động ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất, kinh doanh với số tiền là gần 1,3 tỷ đồng.
5.2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo luôn được quan tâm thực hiện, các chính sách đã đến được với người dân, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số đã từng bước tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, công tác giảm nghèo đã đạt được kết quả tốt. Các chính sách cụ thể, thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, giúp các hộ nghèo phát triển kinh tế và vươn lên thoát nghèo bền vững như: sửa chữa, xây mới về nhà ở, cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, hỗ trợ tiền điện sinh hoạt cho hộ nghèo, hỗ trợ vay vốn ưu đãi, đào tạo nghề…. Tỉnh đã hỗ trợ tiền điện sinh hoạt cho hộ nghèo với định mức hỗ trợ 55.400 đồng/hộ/tháng; giải quyết cho 450 lượt hộ nghèo, 980 hộ cận nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội để phát triển sản xuất với số kinh phí 73,2 tỷ đồng và 1.600 hộ mới thoát nghèo với số kinh phí 84,0 tỷ đồng; giải quyết cho 96 hộ nghèo, cận nghèo, hộ khó khăn được vay vốn để xây mới, sữa chữa về nhà ở với số kinh phí 35,0 tỷ đồng. Đồng hành cùng các hộ nghèo, hộ cận nghèo bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 964/QĐ-UBND về việc hỗ trợ tiền nước sinh hoạt đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh, theo đó mỗi hộ được hỗ trợ 350 nghìn đồng/hộ trong 6 tháng năm 2021, tính từ tháng Năm đến hết tháng Mười năm 2021.
Công tác bảo trợ xã hội và công tác chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người có công cũng thường xuyên được quan tâm thực hiện. Trong 9 tháng năm nay, các cấp, các ngành từ Trung ương đến Địa phương, các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư đã tổ chức nhiều hoạt động thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng là gia đình chính sách, người có công với cách mạng; người cao tuổi; các hộ nghèo, cận nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng bảo trợ xã hội đang nuôi dưỡng tại các trung tâm... với tổng kinh phí 80,7 tỷ đồng cho 236,7 nghìn lượt đối tượng, trong đó, quà của Chủ tịch nước là 8,6 tỷ đồng tặng cho 28,0 nghìn lượt đối tượng; quà của Tỉnh là 44,9 tỷ đồng, tặng cho 136,5 nghìn lượt đối tượng; quà của huyện, xã là 12,3 tỷ đồng, tặng cho 36,5 nghìn lượt đối tượng; quà từ nguồn xã hội hóa là 14,9 tỷ đồng, tặng cho 35,7 nghìn lượt đối tượng.
5.3. Công tác giáo dục, đào tạo
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về việc tiếp tục triển khai một số biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, ngành Giáo dục Ninh Bình đã chủ động điều chỉnh kế hoạch năm học 2020-2021, chú trọng công tác phòng chống dịch, bảo đảm an toàn cho học sinh và giáo viên, đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng công tác dạy và học. Bên cạnh đó, ngành giáo dục đã đạt được một số kết quả khả quan, cụ thể là:
- Tổ chức thành công các kỳ thi cấp tỉnh như: thi chọn học sinh giỏi quốc gia Trung học phổ thông (THPT) năm học 2020-2021, kết quả 33/74 thí sinh đạt giải, chiếm tỷ lệ 44,6%; thi chọn học sinh giỏi, học viên giỏi lớp 12 cấp tỉnh năm học 2020-2021, kết quả, có 531/1.004 thí sinh dự thi đạt giải, chiếm 52,9%; thi chọn học sinh giỏi lớp 9 Trung học cơ sở cấp tỉnh, có 380/684 thí sinh đăng ký dự thi ở 9 môn học đạt giải, chiếm tỷ lệ 55,6%; thi Olympic tài năng Tiếng Anh cấp tỉnh cho học sinh lớp 8 và lớp 11, kết quả có 76 thí sinh đạt giải, trong đó có 04 giải Nhất, 13 giải Nhì, 19 giải Ba và 40 giải Khuyến khích.
- Ngành Giáo dục đã tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2021-2022 và kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2021. Trong đó, kết quả kỳ thi THPT năm 2021 tỉnh Ninh Bình tiếp tục khẳng định chất lượng giáo dục, đào tạo ổn định, vững chắc. Điểm trung bình các môn thi là 6,903 điểm, cao thứ Ba so với toàn quốc. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp toàn tỉnh đạt 99,06%, trong đó khối THPT đạt 99,69%; khối Giáo dục thường xuyên đạt 95,38%. Có 397 thí sinh đạt từ 27 điểm trở lên; 143 thí sinh đạt từ 27,5 điểm trở lên; và 39 thí sinh đạt từ 28 điểm trở lên; toàn tỉnh có 726 điểm 10, có 06 thủ khoa ở 05 khối thi truyền thống, trong đó: 01 thí sinh khối A00 đạt 28,6 điểm; 02 thí sinh khối A01 đạt 28,85 điểm; 01 thí sinh khối D01 đạt 28,20 điểm; 01 thí sinh khối B00 đạt 28,30 điểm; 01 thí sinh khối C00 đạt 28,75 điểm.
- Tham dự các cuộc thi cấp quốc gia như: cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học năm học 2020 - 2021 tại thành phố Huế, có 02 dự án tham gia dự thi đều đạt giải (giải Nhất: Dự án “Giường bệnh thông minh hỗ trợ cho người mất chức năng vận động tay chân sử dụng tại nhà” của Nguyễn Trần Đạt và Đinh Hoàng Nam, học sinh Trường THPT Hoa Lư A; giải Tư: Dự án “Khảo sát hoạt tính kháng Oxi hóa và ức chế sản xuất hóa chất gây viêm nhiễm TNF-a/IFG-y của cao chiết CHLOROFORM từ cây ngải dại trong điều trị bệnh viêm da cơ địa” của Đỗ Đăng Quang và Đỗ Việt Bình Minh, học sinh Trường THPT Ninh Bình - Bạc Liêu); tham gia Hội thi Trạng nguyên Tiếng Anh toàn quốc do Hội đồng Đội Trung ương và Báo Nhi Đồng tổ chức có 8/8 học sinh lọt vào vòng chung kết, 02 học sinh đạt giải Trạng nguyên, 06 học sinh đạt giải Trạng nguyên tích cực; tham gia cuộc thi vẽ tranh quốc tế TOYOTA “Chiếc ô tô mơ ước” lần thứ X do Báo Thiếu niên Tiền phong và Nhi đồng và Công ty ô tô Toyota Việt Nam tổ chức, đạt 01 giải Nhất, 01 giải Nhì, 02 giải Khuyến khích.
5.4. Hoạt động Y tế
Trước tình hình dịch Covid -19 bùng phát trở lại và có diễn biến ngày càng phức tạp, ngành Y tế đã bám sát và chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc nội dung các văn bản chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh; rà soát, kích hoạt lại phương án phòng, chống dịch ở mức cao nhất, bổ sung các tình huống phù hợp với diễn biến của dịch bệnh; cập nhật, rà soát, quản lý cách ly người đi về từ các địa phương đang có dịch, tổ chức tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho các đối tượng ưu tiên theo Nghị Quyết 21/NQ-CP trên địa bàn tỉnh. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn, UBND tỉnh Ninh Bình đã thành lập Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch Covid-19 nhằm sẵn sàng tiếp nhận, xử lý thông tin khẩn cấp về tình hình dịch Covid-19 thông qua số điện thoại đường dây nóng.
Tính đến ngày 19/9/2021 toàn tỉnh đã tiếp nhận và cách ly và giám sát 61.179 trường hợp; trong đó: Cách ly tại cơ sở y tế là 1.895 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung là 10.114 trường hợp. Tổng số mẫu đã lấy là 230.377 trường hợp; số ca đã lấy mẫu xét nghiệm là 166.389 trường hợp; số ca đã có kết quả âm tính là 166.193 trường hợp; số ca đã có kết quả dương tính là 195 trường hợp. Trong đó, đã điều trị khỏi và xuất viện 126 trường hợp; chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 06 trường hợp; đang điều trị 61 trường hợp; chuyển sang tỉnh Nam Định quản lý 01 trường hợp; số tử vong 01 trường hợp. Đã triển khai tiêm phòng vắc xin Covid-19 tối thiểu 01 mũi cho 71.246 người, tiêm đủ 02 mũi cho 44.551 người.
Trong 8 tháng năm 2021, toàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc tại huyện Gia Viễn làm 08 người mắc và 123 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm; 23 ca mắc chân tay miệng; 278 ca mắc thủy đậu; 23 ca sốt xuất huyết… Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 718,2 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho 106,6 nghìn lượt, khám phụ khoa 33,9 nghìn lượt, khám thai 32,7 nghìn lượt, đặt vòng 1.678 ca, triệt sản 33 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong 8 tháng đầu năm phát hiện mới 36 người nhiễm HIV, có 13 trường hợp tử vong do AIDS.
5.5. Văn hoá thông tin
Hoạt động thông tin tuyên truyền và cổ động trực quan được tập trung thực hiện sâu rộng, nội dung và hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú gắn liền với những sự kiện nổi bật như: Chào đón năm mới, mừng Đảng, mừng Xuân Tân Sửu 2021; Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia - Lễ hội Hoa Lư, Ninh Bình năm 2021; tuyên truyền về Cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; tuyên truyền kỷ niệm 20 năm Ngày gia đình Việt Nam 28/6 và Tháng hành động quốc gia phòng, chống bạo lực gia đình, đặc biệt là tiếp tục tuyên truyền về phòng chống dịch Covid-19; tuyên truyền kỷ niệm 76 năm Quốc khánh đất nước (02/9/1945 – 02/9/2021)…
Trong 9 tháng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật được tổ chức trước khi dịch Covid-19 bùng phát trở lại lần thứ Tư vào cuối tháng Tư, đầu tháng Năm, cụ thể: Tổ chức Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia - Lễ hội Hoa Lư, Ninh Bình năm 2021; tổ chức trưng bày, giới thiệu sách báo, triển lãm ảnh nghệ thuật… Nhà hát chèo đã tổ chức được 67 buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ nhân dân; trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng đã thực hiện 156 buổi chiếu phim, phục vụ gần 22 nghìn lượt người xem. Để đảm bảo phòng, chống dịch Covid-19, ngăn chặn nguy cơ lây lan dịch bệnh trong cộng đồng, UBND tỉnh đã ban hành văn bản chỉ đạo tạm dừng các hoạt động vui chơi, giải trí, các hoạt động của các khu, điểm du lịch, các di tích, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh từ ngày 07/5/2021.
5.6. Hoạt động thể dục, thể thao
Hoạt động thể dục thể thao cũng bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, một số hoạt động thể thao quần chúng phải tạm dừng tổ chức như: Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân gắn với Giải Việt dã xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình lần thứ VI năm 2021 - Cup SHB; Giải chạy Tràng An Marathon; Giải chạy Cúc Phương Jungle Paths năm 2021; Đại hội thể dục thể thao cấp xã, phường, thị trấn năm 2021...
Đối với thể thao thành tích cao, các đoàn vận động viên của Tỉnh đã tham gia thi đấu các giải thể thao trong nước, đạt 22 huy chương các loại, trong đó có 06 HCV, 05 HCB và 11 HCĐ. Cụ thể: đoàn VĐV Bóng chuyền nam Tràng An và Đội Bóng chuyền nữ Ninh Bình Doveco tham dự giải Bóng chuyền Cúp Hùng Vương năm 2021 tại Phú Thọ, kết quả Đội Bóng chuyền nam Tràng An đạt giải Nhì và Đội Bóng chuyền nữ Ninh Bình Doveco đạt giải Ba; đoàn vận động viên môn cờ vua tham gia thi đấu giải Cờ vua quốc gia năm 2021 tại Thành phố Hồ Chí Minh đạt 01 HCĐ và tham gia thi đấu giải Cờ vua đồng đội quốc gia năm 2021 tại thành phố Cần Thơ đạt 01 HCĐ; đoàn vận động viên môn Kick Boxing tham gia thi đấu giải Vô địch Cúp Kick Boxing toàn quốc năm 2021 tại Bình Định đạt 04 HCĐ; đoàn vận động viên môn Bowling tham gia giải Vô địch Bowling các đội mạnh quốc gia năm 2021 tại thành phố Đà Nẵng đạt 07 huy chương, gồm: 02 HCV, 03 HCB và 02 HCĐ;....
Hiện nay, các hoạt động thể thao thành tích cao đang tạm thời dừng các hoạt động do tình hình dịch Covid-19 diễn biến ngày càng phức tạp ở nhiều địa phương trên toàn quốc. Tuy vậy, phong trào rèn luyện thể dục, thể thao quần chúng trên địa bàn tỉnh vẫn tiếp tục được đẩy mạnh, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia, thường xuyên duy trì luyện tập để rèn luyện, nâng cao sức khỏe nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ nghiêm các quy định về phòng chống dịch Covid-19.
5.7. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Trong 9 tháng, lực lượng an ninh chủ động lên kế hoạch, triển khai các phương án đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ trong các kỳ nghỉ lễ, tết và đặc biệt các sự kiện quan trọng của tỉnh như: Lễ khai mạc Năm Du lịch Quốc gia - Lễ hội Hoa Lư năm 2021; Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026… Bên cạnh đó, phối hợp với ngành Y tế và các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, đảm bảo an ninh trật tự ở các khu cách ly tập trung; lập chốt kiểm soát dịch bệnh nhất là đối với địa bàn giáp ranh với các tỉnh; rà soát, xác minh, truy vết các trường hợp đi về từ vùng dịch hoặc tiếp xúc với trường hợp dương tính với Covid-19; phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm quy định phòng chống dịch, đăng tin sai sự thật về dịch bệnh…
Tiếp tục thực hiện nghiêm Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ, đặc biệt là quy định về xử phạt vi phạm nồng độ cồn. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, công tác bảo đảm trật tự ATGT có những chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông giảm đáng kể.
Tính từ ngày 15/8/2021 đến 14/9/2021, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 09 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 02 người và bị thương 08 người; xảy ra 29 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 18 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy với 23 đối tượng .
Tính chung lại, từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/9/2021 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 89 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 23 người và bị thương 76 người (giảm 18 vụ, giảm 06 người chết và giảm 16 người bị thương so với cùng kỳ năm 2020); xảy ra 02 vụ tai nạn giao thông đường sắt và 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy làm 03 người chết; xảy ra 267 vụ phạm pháp hình sự (giảm 28 vụ); phát hiện 237 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy với 342 đối tượng (tăng 05 vụ và tăng 85 đối tượng); xảy ra 06 vụ cháy, gây thiệt hại gần 347 triệu đồng trong đó có 01 vụ cháy xưởng may của công ty TNHH thời trang Itas Mars Intimates, gây thiệt hại trên 300 triệu đồng, không có thương vong về người./.
Cục thống kê tỉnh Ninh Bình