1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tháng là tập trung thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ mùa; triển khai sản xuất vụ Đông; tiếp tục phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng; chăm sóc, phòng bệnh và bảo vệ thủy sản trong mùa mưa bão.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Thu hoạch lúa vụ mùa:Trong tháng, các địa phương tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thu hoạch lúa mùa với phương châm “Xanh nhà hơn già đồng” nhằm tránh những thiệt hại do mưa bão gây ra và tạo quỹ đất trồng cây vụ Đông đảm bảo cho việc gieo trồng cây vụ Đông đúng khung thời vụ.Tính đến ngày 20/10/2021, toàn tỉnh đã thu hoạch được 25,7 nghìn ha lúa, bằng 80,6% diện tích lúa đã cấy. Diện tích lúa đã thu hoạch tập trung chủ yếu ở các huyện: Yên Khánh 7,7 nghìn ha; Yên Mô 6,5 nghìn ha; Kim Sơn 5,2 nghìn ha; Nho Quan 3,2 nghìn ha... Theo đánh giá sơ bộ, năng suất lúa bình quân chung toàn tỉnh vụ mùa năm 2021đạt 54,24 tạ/ha, tăng 0,17% (+ 0,09 tạ/ha) so với cùng vụ năm trước; nguyên nhân năng suất lúa tăng do thời tiết thuận lợi, diện tích gieo cấy nằm trong khung thời vụ tốt nhất, sâu bệnh có ảnh hưởng nhưng mức độ hại nhẹ, nạn chuột phá ít hơn năm trước.
Sản xuất vụ Đông:Tính đến ngày 20/10, toàn tỉnh trồng được hơn 2,4 nghìn ha cây vụ đông, trong đó bao gồm: 0,4 nghìn ha ngô; 0,1 nghìn ha khoai lang; 0,1 nghìn ha lạc và 1,7 nghìn ha rau, đậu các loại...
Diện tích cây vụ Đông trồng tập trung chủ yếu ở các địa phương là: huyện Nho Quan 0,6 nghìn ha, huyện Yên Khánh 0,7 nghìn ha, huyện Yên Mô 0,7 nghìn ha...
Theo dự báo, mùa Đông năm 2021 đến sớm hơn so với trung bình nhiều năm và khả năng không khí lạnh sẽ hoạt động sớm hơn gây khó khăn cho việc gieo trồng cây ưa ấm. Vụ Đông năm 2021, các huyện, thành phố đã chủ động rà soát, điều chỉnh kế hoạch, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp để ứng phó với thời tiết cực đoan. Tiếp tục khuyến khích các tổ chức, cá nhân cho thuê, mượn đất để liên kết đầu tư thành vùng sản xuất tập trung, đưa cơ giới hóa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả; tăng cường chuỗiliên kết tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2. Chăn nuôi
Chăn nuôi trâu, bò phát triển bình thường do dịch bệnh viêm da nổi cục đã hoàn toàn được khống chế. Tổng đàn trâu, bò tại thời điểm báo cáo ước giảm so với cùng thời điểm năm trước, trong đó: đàn trâu ước đạt 12,6 nghìn con, giảm 0,6%; đàn bò ước đạt 36,6 nghìn con, giảm 0,9%.
Chăn nuôi lợn: Tại thời điểm báo cáo, đàn lợn ước đạt 272,6 nghìn con, tăng 24,3% so với cùng thời điểm năm trước. Trong tháng, chăn nuôi lợn gặp khó khăn một mặt do giá thịt lợn hơi giảm sâu, mặt khác dịch tả lợn Châu Phi có nguy cơ phát sinh và lây lan, đặc biệt là các ổ dịch cũ. Nguyên nhân tái dịch trở lại do việc dãn cách từng bước được nới lỏng, lưu thông, vận chuyển tăng lên, dẫn đến việc lâytruyền mầm bệnh giữa các vùng khác nhau;chăn nuôi nhỏ lẻ, tái đàn tăng ở các hộ không đảm bảo an toàn sinh học, không kiểm soát được nguồn lây bệnh.Tính đến ngày 20/10/2021, trên địa bàn tỉnh có 46 xã, phường, thị trấn thuộc 8 huyện, thành phố còn dịch. Số lượng lợn tiêu hủy tính từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 20/10/2021 trên địa bàn tỉnh là 5.451 con với trọng lượng tiêu hủy 403,6 tấn.
Chăn nuôi gia cầm:Tổng đàn gia cầm ước đạt 6,7 triệu con, tăng 6,3%,trong đó đàn gà ước đạt 4,5 triệu con, tăng 4,7% so với cùng thời điểm năm trước.
Từ ngày 16/10-21/10 tại xóm 10 Tây, xã Xuân Chính, Kim Sơn phát hiện trường hợp vịt bị ốm chết có triệu chứng của bệnh cúm gia cầm. Kết quả xét nghiệm khẳng định nguyên nhân do bệnh cúm gia cầm A/H5N8, đây là chủng virut lần đầu tiên xâm nhập vào trong nước, trong tỉnh. Tổng số vịt ốm chết, tiêu hủy bắt buộc là 1.030 con. Chi cục Thú y đã cấp 27,0 nghìn liều vắc xin cúm giacầm, 12 lít hóa chất, 1,5 tấn vôi bột để khử trùng tiêu độc, phòng chống dịch bệnh.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được các ngành, các cấp quan tâm, vì thế trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.
Trong tháng Mười, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt32 ha, tăng 9,6% so với cùng tháng năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,2 nghìn m3,tăng 3,8%; sản lượng củi khai thác ước đạt 2,4 nghìn ste,tăng 0,8%.Tính chung 10 tháng đầu năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt207 ha, giảm 6,8%so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 22,8 nghìn m3,tăng 3,4%; sản lượng củi khai thác 25,2 nghìn ste,giảm3,0%.
1.3. Thủy sản
Do ảnh hưởng của bão số 8 kết hợp với không khí lạnh nên khu vực tỉnh Ninh Bình có nơi mưa lớn trên diện rộng. Đối với vùng nuôi thủy sản nội đồng các hộ nuôi thả đã chủ động các biện pháp gia cố bờ bao, thu hoạch sản phẩm, hạn chế thất thoát do thời tiết gây ra. Tại vùng nuôi thuỷ sản nước lợ huyện Kim Sơn:để hạn chế hiện tượng giảm độ mặn đột ngột trong ao nuôi tôm, người nuôi phải có kế hoạch điều tiết nước đảm bảo độ mặn thích hợp để ít ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của con nuôi.
Sản lượng thủy sản tháng Mười ước đạt 5,7 nghìn tấn,tăng 9,3%so với cùng tháng năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,2 nghìn tấn, tăng 10,3%; sản lượng khai thác ước đạt 0,5 nghìn tấn,tăng 0,9%.
Tính chung lại, sản lượng thủy sản 10 tháng năm nay ước đạt 53,0 nghìn tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 47,3 nghìn tấn, tăng 7,9%; sản lượng khai thác ước đạt 5,7 nghìn tấn, tăng 0,7%.
2. Sản xuất công nghiệp
Mặc dù dịch Covid-19 đã từng bước được kiểm soát tốt trên cả nước, song hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp trong tỉnh vẫn gặp rất nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của dịch bệnh mang lại: các doanh nghiệp không ký kết được đơn đặt hàng mới chủ yếu sản xuất dựa trên các đơn hàng đã có, một số doanh nghiệp thiếu nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất nên phải thu hẹp quy mô, thêm vào đó thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra cả trong nước và xuất khẩu đều giảm. Vì thế sản xuất công nghiệp của tỉnh trong tháng tuy đạt mức tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm trước nhưng tốc độ tăng không đáng kể.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)toàn tỉnh tháng Mười năm nay ước tính tăng 0,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng giảm 16,00%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,72%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 27,66%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 21,44%.
So với tháng trước (tháng 9/2021), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 6,83%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,95%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,57%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 16,11%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,46%.
Tính chung lại 10 tháng năm 2021 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 6,96%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 21,90%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,35%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,15%; riêng công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 5,63%.
Giá trị sản xuất:Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh trong tháng Mười ước đạt 9.375,9 tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng 10/2020. Trong đó: công nghiệp khai khoáng ước đạt 41,3 tỷ đồng, giảm 12,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo 9.223,2 tỷ đồng, tăng 1,8%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 90,6 tỷ đồng, tăng 13,0%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 20,8 tỷ đồng, tăng 11,8%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 80.761,9 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: công nghiệp khai khoáng ước đạt 484,2 tỷ đồng, tăng 20,4%; công nghiệp chế biến, chế tạo 79.221,2 tỷ đồng, tăng 7,1%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 893,8 tỷ đồng, giảm 3,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 162,7 tỷ đồng, tăng 8,4%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Trong tháng Mười năm 2021 một số sản phẩm công nghiệp tăng khá so với cùng tháng năm trước là: ngô ngọt đóng hộp 350,0 tấn, tăng 15,9%; dứa đóng hộp 1,3 nghìn tấn, gấp 2,2 lần; nước dứa tươi 220,0 nghìn lít, tăng 20,2%; thức ăn cho gia súc 2,2 nghìn tấn, gấp 2,4 lần; hàng thêu 171,1 nghìn m2, tăng 40,0%; quần áo các loại 10,8 triệu cái, tăng 38,9%; giày, dép các loại 5,7 triệu đôi, tăng 40,9%; găng tay 395,0 nghìn đôi, tăng 23,8%; phân NPK 9,5 nghìn tấn, tăng 13,1%; phân lân nung chảy 6,0 nghìn tấn, tăng 15,4%; modul camera 26,0 triệu cái, tăng 54,8%; xe ô tô chở hàng 318 chiếc, tăng 28,7%; cần gạt nước 1,1 triệu cái, tăng 37,9%; điện sản xuất 55,0 triệu kWh, tăng 55,4%; nước máy thương phẩm 2,4 triệu m3, tăng 12,0%... Bên cạnh đó, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: đá các loại 268,2 nghìn m3, giảm 15,4%; phân ure 33,8 nghìn tấn, giảm 15,7%; kính nổi 35,0 nghìn tấn, giảm 5,1%; xi măng và clanke 942,6 nghìn tấn, giảm 11,9%; thép cán các loại 22,0 nghìn tấn, giảm 17,0%; linh kiện điện tử 12,4 triệu cái, giảm 28,3%; tai nghe điện thoại 450,0 nghìn cái, giảm 81,2%; kính máy ảnh 200,0 nghìn cái, giảm 23,8%; xe ô tô 5-14 chỗ 5,7 nghìn chiếc, giảm 14,3%; đồ chơi hình con vật 1,4 triệu con, giảm 16,9%…
Tính chung lại, 10 tháng năm 2021 các sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: đá các loại 3,3 triệu m3, tăng 22,4%; dứa đóng hộp 9,4 nghìn tấn, tăng 57,3%; nước dứa tươi 2,3 triệu lít, tăng 18,3%; thức ăn cho gia súc 19,3 nghìn tấn, tăng 20,1%; hàng thêu 1,7 triệu m2, tăng 79,3%; quần áo các loại 88,4 triệu cái, tăng 27,2%; giày, dép các loại 38,3 triệu đôi, tăng 26,8%; phân urê 412,0 nghìn tấn, tăng 45,1%; phân NPK 104,1 nghìn tấn, tăng 38,1%; phân lân nung chảy 111,0 nghìn tấn, tăng 36,5%; modul camera 213,3 triệu cái, tăng 53,2%; kính máy ảnh 1,9 triệu cái, tăng 21,1%; xe ô tô chở hàng 6,7 nghìn chiếc, gấp 3,4 lần; cần gạt nước ô tô 11,6 triệu cái, tăng 50,4%; nước máy thương phẩm 22,5 triệu m3, tăng 23,4%... Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm sút: ngô đóng hộp 2,7 nghìn tấn, giảm 6,0%; găng tay 4,0 triệu đôi, giảm 21,9%; dược phẩm chứa hooc môn nhưng không có kháng sinh dạng viên 59,8 triệu viêm, giảm 4,9%; xi măng và clanke 8,8 triệu tấn, giảm 6,4%; thép cán các loại 234,8 nghìn tấn, giảm 4,3%; linh kiện điện tử 112,6 triệu cái, giảm 28,6%; tai nghe điện thoại di động 5,5 triệu cái, giảm 60,3%; điện sản xuất 560,2 triệu kWh, giảm 11,1%;…
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạotháng Mười năm nay tăng 2,06% so với tháng trước và giảm 22,7% so với cùng tháng năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho cao so với cùng tháng năm trước như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 87,55%; sản xuất đồ uống tăng 66,67%; sản xuất trang phục tăng 65,61%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy gấp 8,1 lần; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 87,58%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vitính và sản phẩm quang học gấp 2,9 lần; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 54,52%...
Số lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 30/9/2021 là: giày, dép 3,1 triệu đôi; đạm urê 19,2 nghìn tấn; phân NPK 34,5 nghìn tấn; phân lân nung chảy 16,9 nghìn tấn; kính nổi 90,5 nghìn tấn; xi măng 7,0 nghìn tấn; thép cán các loại 18,7 nghìn tấn; camera và linh kiện điện tử 4,4 triệu cái; loa, tai nghe điện thoại 741,2 nghìn cái; kính máy ảnh 500 cái; xe ô tô 5-14 chỗ 84 chiếc...
3. Vốn đầu tư và phát triển
Tổng số vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tháng Mười năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 2.393,4 tỷ đồng, tăng 0,7% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: vốn Nhà nước đạt 418,8 tỷ đồng, giảm 0,5%; vốn ngoài Nhà nước 1.745,4 tỷ đồng, tăng 1,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 229,2 tỷ đồng, giảm 1,0%.
Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn và khu dân cư mới xã Gia Xuân, huyện Gia Viễn ước đạt 14,5 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường khu dân cư phố Thống Nhất vào phố Mỹ Cát, huyện Gia Viễn ước đạt 10,0 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án xây dựng tuyến đường nối khu nhà ở công nhân với khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn ước đạt 7,9 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Mầm non xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô ước đạt 5,0 tỷ đồng…
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện camera modul của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 85,0 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Huyndai Thành Công Việt Nam ước đạt 80,0 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Sản xuất giày Chung Jye Việt Nam ước đạt 20,0 tỷ đồng…
Một số dự án, công trình khởi công mới trong tháng như: Dự án nâng cấp các tuyến đường nội thị thị trấn Nho Quan với tổng mức đầu tư 19,2 tỷ đồng; dự án sửa chữa nâng cấp Trường Tiểu học xã Thanh Lạc, huyện Nho Quan với tổng mức đầu tư 12,9 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đường giao thông thôn 4 xã Phú Long, huyện Nho Quan với tổng mức đầu tư 11,0 tỷ đồng…
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển 10 tháng năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 21.998,3 tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2020. Chia ra: vốn Nhà nước đạt 3.869,1 tỷ đồng, tăng 15,9%; vốn ngoài Nhà nước đạt 16.646,4 tỷđồng, tăng 3,0%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.482,8 tỷ đồng, giảm 0,8%.
Các công trình, dự án có khối lượng lớn vốn đầu tư thực hiện trong 10 tháng năm 2021 như sau:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn và khu dân cư mới xã Gia Xuân, huyện Gia Viễn ước đạt 143,3 tỷ đồng; dự án làm đường ô tô đến trung tâm các xã miền núi Mai Sơn, Khánh Thịnh, Khánh Thượng, huyện Yên Mô ước đạt 62,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường khu dân cư phố Thống Nhất vào phố Mỹ Cát, huyện Gia Viễn ước đạt 42,9 tỷ đồng; dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu Trung tâm Hành chính huyện Gia Viễn ước đạt 37,8 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án xây dựng tuyến đường nối khu nhà ở công nhân với khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu tại xã Gia Tân, huyện Gia Viễn ước đạt 33,5 tỷ đồng…
- Dự án vốn ODA: Dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 90,0 tỷ đồng; dự án xây dựng hệ thống cống kiểm soát ngăn mặn và nâng cấp đê Dưỡng Điềm kết hợp nâng cấp bờ sông thành đường cứu hộ, cứu nạn chống xâm nhập mặn, phục vụ phòng chống lụt bão liên huyện Yên Khánh - Kim Sơn ước đạt 24,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp, mở rộng tuyến thoát lũ, kè chống sạt lở bờ tả, hữu sông Hoàng Long, trồng tre chắn sóng đoạn từ cầu Trường Yên đến cầu Gián Khẩu ước đạt 22,0 tỷ đồng…
- Dự án vốn Trái phiếu Chính phủ: Dự án thành phần đầu tư xây dựng Đoạn Cao Bồ - Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía Đông ước đạt 286,6 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng xây dựng tuyến đường cao tốc Cầu Giẽ Ninh Bình với Quốc lộ 1A đoạn qua thành phố Tam Điệp ước đạt 398,1 tỷ đồng…
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện camera modul của Công ty TNHH McNex Vina ước đạt 534,5 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Huyndai Thành Công Việt Nam ước đạt 371,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất mỹ phẩm, xà phòng của Công ty TNHH Global Tone ước đạt 134,4 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc phục vụ sản xuất giày của Công Ty TNHH Sản xuất Giày Chung Jye Việt Nam ước đạt 116,5 tỷ đồng…
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
4.1. Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh tháng Mười ước đạt gần 2.817,6 tỷ đồng giảm 0,5% so với cùng tháng năm trước, tập trung ở một số nhóm hàng hóa không thiết yếu như: nhóm hàng may mặc ước đạt 201,5 tỷ đồng, giảm 16,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 297,0 tỷ đồng, giảm 6,2%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 156,2 tỷ đồng, giảm 13,0%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 91,6 tỷ đồng, giảm 3,7%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 72,9 tỷ đồng, giảm 0,2%... Bên cạnh đó, các nhóm hàng hóa thiết yếu vẫn đạt mức tăng so với cùng kỳ như: lương thực, thực phẩm 876,2 tỷ đồng, tăng 5,9%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 52,5 tỷ đồng, tăng 5,6%; gỗ và vật liệu xây dựng 487,3 tỷ đồng, tăng 3,1%; hàng hóa khác 119,0 tỷ đồng, tăng 4,8%.
Tính chung trong 10 tháng 2021, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện trên 27.980,3 tỷ đồng, tăng 16,1% so với 10 tháng 2020. Tất cả các nhóm hàng đều đạt mức tăng khá, cụ thể: lương thực, thực phẩm 8.486,0 tỷ đồng, tăng 16,3%; hàng may mặc 2.089,9 tỷ đồng, tăng 13,3%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 3.071,9 tỷ đồng, tăng 11,1%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 486,7 tỷ đồng, tăng 16,7%; gỗ và vật liệu xây dựng 4.673,9 tỷ đồng, tăng 15,3%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 1.423,8 tỷ đồng, tăng 19,6%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 1.641,4 tỷ đồng, tăng 5,1%; xăng, dầu các loại 2.616,6 tỷ đồng, tăng 24,7%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 607,4 tỷ đồng, tăng 16,8%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 968,1 tỷ đồng, tăng 19,2%; hàng hoá khác 1.178,9 tỷ đồng, tăng 29,0%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 735,7 tỷ đồng, tăng 16,4%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong tháng Mười ước đạt trên 383,2 tỷ đồng, giảm 1,4% so với cùng tháng năm trước; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 243,1 tỷ đồng, tăng 5,1%.
Trong 10 tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 3.925,7 tỷ đồng, tăng 25,6% so với cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 267,2 tỷ đồng, tăng 16,2%; doanh thu dịch vụ ăn uống 3.658,5 tỷ đồng, tăng 26,4%); doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 3,5 tỷ đồng, giảm 32,7%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 2.394,3 tỷ đồng, tăng 19,8%.
4.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Tiếp đà giảm của tháng Chín, chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười giảm 0,64% so với tháng trước, nhưng lại tăng 0,97% so với tháng 12 năm 2020 và tăng 0,5% so với cùng tháng năm trước. Bình quân 10 tháng 2021, CPI tăng 0,91% so với cùng kỳ.
So với tháng trước, chỉ có 03 trong tổng số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giảm, cụ thể: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm sâu nhất với 2,28% là nguyên nhân chính tác động làm giảm CPI, trong đó: nhóm lương thực giảm 0,83% do trong tháng các địa phương tập trung đẩy nhanh tiến độ thu hoạch lúa mùa với năng suất cao nên nguồn cung gạo dồi dào dẫn đến giá gạo giảm 2,1% so với tháng trước (giá gạo tẻ thường giảm 2,34%; giá gạo tẻ ngon giảm 2,27%; giá gạo nếp giảm 0,38%); nhóm thực phẩm giảm 3,35% nguyên nhân chủ yếu do tác động của giá thịt lợn giảm sâu 15,59% khi việc tái đàn trở lại khiến nguồn cung thịt lợn tăng cao nhưng do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nhu cầu tiêu thụ thịt lợn lại giảm kéo theo giá nhóm thịt gia súc giảm 12,48% và giá nhóm thịt chế biến giảm 6,4%; riêng nhóm ăn uống ngoài gia đình vẫn giữa nguyên. Tiếp đến, nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,19% do thời tiết trong tháng có nhiều đợt không khí lạnh nên nhu cầu sử dụng điện của người dân giảm, giá điện sinh hoạt bình quân giảm 0,98% so với tháng trước; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm nhẹ 0,01%. Ba nhóm có chỉ số giá tăng gồm: nhóm giao thông tăng 2,26% do sau lần điều chỉnh tăng giá vào ngày 11/10/2021, giá xăng đã tăng 6,15% lập đỉnh cao nhất trong vòng 7 năm qua, giá dầu diezel tăng 7,54% làm cho giá nhóm nhiên liệu tăng 6,01%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,16% và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng nhẹ 0,02%. Năm nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại giữ chỉ số ổn định gồm: nhóm đồ uống và thuốc lá, nhóm may mặc, mũ nón và giày dép, nhóm bưu chính viễn thông, nhóm giáo dục và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác.
CPI bình quân 10 tháng 2021 tăng 0,91% so với cùng kỳ năm trước. Có đến 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: nhóm giao thông tăng cao nhất 9,21%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 5,39%; nhóm giáo dục tăng 4,32%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,92%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,87%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,48%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,34%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,17%. Ba nhóm còn lại có chỉ số giảm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,86% (lương thực tăng 4,98%; thực phẩm giảm 4,76%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,78%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,23%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,17%.
Chỉ số giá vàng và chỉ sốgiáĐô la Mỹ:Chỉ số giá vàng tháng nàygiảm 0,09% so với tháng trước, giảm 2,81% với tháng 12/2020 và giảm2,4% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá bán lẻ Đô la Mỹ giảm 0,09% so với tháng 9/2021, tăng 2,2% so với tháng 12 năm trước và giảm 4,86% so với tháng 10/2020. Bình quân 10 tháng, chỉ số giá vàng tăng 12,5%; chỉ số giá Đô la Mỹ giảm 7,26% so với cùng kỳ năm 2020.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu:Giá trị xuất khẩu tháng Mười năm nay ước đạt gần 311,2 triệu USD, tăng 1,2% so với tháng Mười năm 2020. Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 10 tháng ước đạt gần 2.378,8 triệu USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 339,7 triệu USD; xi măng, clanke đạt 503,2 triệu USD; giày, dép các loại đạt 525,7 triệu USD; camera và linh kiện điện thoại 672,9 triệu USD; linh kiện điện tử 57,5 triệu USD…
Trong 10 tháng năm nay, một số mặt hàng có sản lượng xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ năm trước như: quần áo các loại 56,2 triệu chiếc, tăng 34,0%; sản phẩm cói khác 1,7 triệu sản phẩm, gấp 2,3 lần; hàng thêu ren 156,9 nghìn chiếc, tăng 69,6%; xi măng, clanke 13,0 triệu tấn, tăng 7,2%; camera và linh kiện 223,2 triệu sản phẩm, tăng 47,8%; giày, dép các loại 49,9 triệu đôi, tăng 50,3%; đồ chơi trẻ em 8,7 triệu con, tăng 9,8%... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút so với cùng kỳ như: dứa, dưa chuột đóng hộp 8,8 nghìn tấn, giảm 22,2%; găng tay các loại 3,7 triệu đôi, giảm 19,9%; phôi nhôm 9,9 nghìn tấn, giảm 45,1%; thảm cói 12,4 nghìn m2, giảm 65,7%.
Nhập khẩu:Giá trị nhập khẩu tháng Mười ước đạt gần 317,4 triệu USD, tăng 16,0% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 10 tháng ước đạt 2.646,0 triệu USD, tăng 5,8% so với 10 tháng năm 2020. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện điện tử 716,6 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 988,4 triệu USD; vải và phụ liệu may mặc 153,8 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 456,7 triệu USD; phế liệu sắt thép 102,7 triệu USD; máy móc thiết bị 48,2 triệu USD; ô tô 41,3 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Trước tình hình dịch Covid-19 trên cả nước cơ bản được kiểm soát tốt, các biện pháp về phòng, chống dịch từng bước được nới lỏng đã tạo điều kiện cho các hoạt động vận tải dần trở lại hoạt động bình thường.
Vận tải hành khách:Thực hiện Công điện số 1322/CĐ-TTg ngày 10/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức hoạt động vận tải hành khách đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19; Quyết định số 1777/QĐ-BGTVT ngày 10/10/2021 của Bộ Giao thông vận tải ban hành Quy định tạm thời về tổ chức hoạt động vận tải hành khách đường bộ đảm bảo thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, Sở Giao thông Vận tải Ninh Bình đã thống nhất tiến hành thực hiện thí điểm khôi phục 100% công suất hoạt động vận tải hành khách tại các tuyến Ninh Bình - Hòa Bình, Sơn La, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang và ngược lại trong thời gian từ ngày 13/10/2021 đến hết ngày 20/10/2021.Các đơn vị kinh doanh vận tải trong tỉnh đã nhanh chóng đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo yêu cầu đặt ra của hoạt động thí điểm, qua đó cũng là tiền đề để vận tải hành khách khôi phục hoạt động trong thời gian tới.
Hoạt động vận tải hành khách trong tháng Mười tuy có tăng so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ năm trước vẫn tiếp tục ghi nhận mức giảm. Khối lượng vận chuyển hành khách trong tháng ước thực hiện gần 1,0 triệu lượt khách giảm 41,9% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển trên 57,3 triệu lượt khách.km, giảm 37,5%. Tính chung 10 tháng 2021, vận tải hành khách toàn tỉnh ước thực hiện gần 13,7 triệu lượt khách, giảm 1,4% so với 10 tháng 2020 và luân chuyển trên 756,4 triệu lượt khách.km, tăng 1,0%. Trong đó, chủ yếu là vận tải đường bộ ước đạt 12,7 triệu lượt khách, tăng 3,7% và 752,5 triệu lượt khách.km, tăng 1,4%; vận tải đường thủy nội địa 1,0 triệu lượt khách, giảm 39,4% và 3,9 triệu lượt khách.km, giảm 38,4%.
Vận tải hàng hóa:Tháng Mười ước thực hiện gần 5,0 triệu tấn vận chuyển, tăng 0,9% so với tháng 10/2020 và luân chuyển 739,3 triệu tấn.km, tăng 3,6%. Ước tính 10 tháng năm 2021, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt gần 44,4 triệu tấn, tăng 3,4% và luân chuyển trên 6.315,5 triệu tấn.km, tăng 3,8% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 20,8 triệu tấn, tăng 2,5% và 1.091,1 triệu tấn.km, tăng 5,3%; vận tải đường thủy nội địa gần 22,1 triệu tấn, tăng 3,8% và 4.421,3 triệu tấn.km, tăng 2,6%; vận tải đường biển gần 1,5 triệu tấn, tăng 9,4% và 803,1 triệu tấn.km, tăng 8,9%.
Doanh thu vận tải:Trong tháng Mười ước đạt 557,4 tỷ đồng, giảm 4,0% so với tháng 10/2020. Ước tính trong 10 tháng, doanh thu vận tải toàn tỉnh đạt gần 5.345,0 tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ. Phân theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước thực hiện 621,8 tỷ đồng, tăng 6,7%; vận tải hàng hóa 4.557,3 tỷ đồng, tăng 6,1%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 161,4 tỷ đồng, giảm 33,1%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 4,5 tỷ đồng, gấp trên 3,6 lần.
4.5. Hoạt động du lịch
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, tháng 10 năm nay tiếp tục không đón khách du lịch để đảm bảo phòng chống dịch Covid-19. Ước tính 10 tháng năm nay, tổng số khách đến các điểm thăm quan, du lịchtrên địa bàn tỉnhđạt gần 925,7 nghìn lượt khách, giảm 58,4%so với cùngkỳnăm trước.Trong đó: khách trong nước ước đạt 912,3 nghìn lượt khách, giảm 55,3%; khách quốc tế ước đạt gần 13,4 nghìn lượt khách, giảm 92,8%. Tổng số khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt 181,6 nghìn lượt khách, giảm 50,9%; số ngày khách lưu trú ước đạt gần244,1nghìn ngày.khách, giảm50,3%. Doanh thu du lịch ước thực hiện gần 600,5 tỷ đồng, giảm 54,4%, trong đó: doanh thu lưu trútrên 134,0 tỷ đồng, giảm 50,0%; doanh thu ăn uống220,0 tỷ đồng, giảm 56,1%.
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Văn hoá thông tin, thể thao
Hoạt động văn hóa thông tin trong tháng chủ yếu tập trung tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn như: Kỷ niệm91 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10; kỷ niệm Ngày Quốc tế người cao tuổi 10/10; Ngày doanh nhân Việt Nam 13/10…và tiếp tục tuyên truyền về phòng, chống dịch Covid-19. Các hoạt động văn hóa tập trung đông người như biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim… không được tổ chức để phòng chống dịch bệnh.
Hoạt động thể thao chủ yếu tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện, nâng cao thành tích cho vận động viên các đội tuyển, các hoạt động thể thao quần chúng tiếp tục tạm dừng tổ chức để đảm bảo an toàn phòng chống dịch Covid-19. Trong tháng, đoàn VĐV môn cờ vua của tỉnh tham gia giải Vô địch Cờ vua trẻ Đông Á 2021 qua hình thức trực tuyến từ ngày 24/9/2021 đến ngày 03/10/2021, kết quả đạt 02 HCV và 01 HCB.
5.2. Hoạt động y tế[1]
Trong tháng ngành Y tế tiếp tục theo dõi sát sao các văn bản chỉ đạo của Trung ương và của UBND tỉnh về tình hình diễn biến dịch Covid-19 để có phương án ứng phó kịp thời, hạn chế tối đa sự lây lan dịch bệnh trên địa bàn tỉnh. Do vậy, đến nay dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh vẫn được kiểm soát tốt, không có ca bệnh lây nhiễm trong cộng đồng.
Tính đến ngày 23/10/2021 toàn tỉnh đã tiếp nhận, cách ly và giám sát 73.232 trường hợp; trong đó: cách ly tại cơ sở y tế là 2.067 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung là 15.367 trường hợp; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú 55.798 trường hợp.Tổng số mẫu đã lấy là 299.148 trường hợp; số ca đã lấy mẫu xét nghiệm là 215.334 trường hợp; số ca đã có kết quả âm tính là 215.047 trường hợp; số ca đã có kết quả dương tính là 255 trường hợp. Đã điều trị khỏi và xuất viện 196 trường hợp; chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 07 trường hợp; đang điều trị 51 trường hợp; chuyển sang tỉnh Nam Định quản lý 01 trường hợp...Đến ngày 23/10/2021, toàn tỉnh đã triển khai tiêm phòng vắc xin Covid-19 mũi 1 cho 545.395 người, tiêm đủ 02 mũi cho 83.947 người.
Trongtháng9,toàn tỉnh xảy ra 15 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm; 01ca mắc thủy đậu; 32 ca viêm gan virut…Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 95,1 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho 14,8 nghìn lượt, khám phụ khoa 4,1 nghìn lượt, khám thai 3,9 nghìn lượt, đặt vòng1.720 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng 9, phát hiện mới18người nhiễm HIV, không có trường hợp tử vong do AIDS.
5.3. Hoạt động giáo dục
Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã tổ chức thi chọn học sinh giỏi THPT cấp tỉnh và đội dự tuyển học sinh giỏi Quốc gia THPTnăm học 2021-2022.Kết quả có 115/434 học sinh tham dự được chọn vào 10 đội tuyển thuộc 10 bộ môn: Lịch sử, Địa lý, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Tiếng Anh, Tiếng Pháp.
Ngành giáo dục hiện đang tổ chức ôn luyện cho các đội tuyển và chuẩn bị các điều kiện tham gia kỳ thi học sinh giỏi THPT quốc gia năm học 2021-2022, bên cạnh đó tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu kép, vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa đẩy mạnh phong trào thi đua ‘‘Dạy tốt, học tốt’’.
5.4. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]
Hưởng ứng tháng cao điểm bảo đảm trật tự an toàn giao thông (TTATGT), Công an tỉnh đã quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp trọng tâm, góp phần giảm tai nạn giao thông trên địa bàn; tăng cường tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm về TTATGT, đồng thời phối hợp với ngành y tế và các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường kiểm soát dịch Covid-19, nhất là tại các chốt giao thông với các tỉnh giáp ranh.
Tính từ 15/9/2021 đến 14/10/2021, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 03 người, bị thương 07 người; đã xảy ra 27 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện, xử lý 43 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 49 đối tượng.
5.5. Tình hình cháy nổ, bảo vệ môi trường[3]
Trong tháng trên địa bàn tỉnhxảy ra 01 vụ cháy, không có thương vong về người, thiệt hại tài sản không đáng kể và không xảy ra vụ vi phạm về môi trường./
[1]Số liệu Y tế là số liệu tháng 9/2021
[2]Theo số liệu của Công an tỉnh từ 15/9/2021 đến 14/10/2021
[3]Theo số liệu của Công an tỉnh từ 15/9/2021 đến 14/10/2021
Cục thống kê tỉnh Ninh Bình