Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11/2021 trên địa bàn tỉnh diễn ra trong bối cảnh dịch Covid-19 đang dần được kiểm soát, mặc dù vẫn xuất hiện ca mắc mới trên địa bàn; Với sự nỗ lực, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị đã đạt được kết quả quan trọng trong công tác phòng, chống dịch bệnh, ổn định đời sống của nhân dân, từng bước phục hồi và phát triển kinh tế.
Thực hiện Chỉ thị 19/CT-UBND ngày 08/10/2021 của UBND tỉnh về việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 và từng bước phục hồi, phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn và Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế - xã hội”. Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 trên địa bàn đã có những khởi sắc rõ nét góp phần quan trọng vào kết quả 11 tháng năm 2021 như sau:
1. Sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có chuyển biến tích cực trong các tháng cuối năm. Hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã và đang tổ chức sản xuất trở lại, do cơ bản khống chế kiểm soát dịch bệnh. Với phương châm phải thích ứng và cách làm phù hợp với thực tế, hoạt động xuất khẩu có mức tăng cao, do các doanh nghiệp sản xuất có các đơn hàng từ đầu năm và thị trường xuất khẩu đang thuận lợi. Tuy nhiên bên cạnh những tín hiệu lạc quan, các doanh nghiệp trong đó các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, do tác động tiêu cực bởi dịch bệnh Covid-19 do đứt gãy chuỗi cung ứng, lực lượng lao động thiếu hụt do sau thời gian giãn cách xã hội phòng dịch lao động chưa trở lại làm việc đủ như trước. Do vậy Lãnh đạo tỉnh Đồng Nai sớm đưa ra các giải pháp như: khoanh vùng dịch tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đủ điều kiện hoạt động trở lại, thu hút lượng lao động đã về quê quay trở lại làm việc…nên tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 11/2021 đã có những chuyển biến tích cực rõ nét.
Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 tăng 6,06% so tháng trước, tăng 9,67% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng so tháng 10 và cùng kỳ là do sau thời gian ngưng sản xuất để phòng chống dịch nay tái sản xuất trở lại, các doanh nghiệp tăng tốc sản xuất để kịp tiến độ giao hàng vào những tháng cuối năm nhu cầu xuất khẩu tăng cao; Tháng 11 có 26/27 ngành tăng so tháng trước, một số ngành có chỉ số tăng so với tháng trước như sau: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,17%; Sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 10,1%, dệt tăng 3,96%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 6,34%; sản xuất kim loại tăng 15,12%; sản xuất xe có động cơ tăng 6,75%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,5%; sản xuất kim loại tăng 15,12%; sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 13,88%; sản xuất phân phối điện tăng 9,65%. Nguyên nhân tăng là từng bước kiểm soát dịch bệnh, thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng chống dịch để phục hồi các hoạt động kinh tế trong tình hình mới, nên các doanh nghiệp đã chủ động khôi phục sản xuất để đảm bảo đáp ứng nhu cầu đơn hàng cuối năm, cũng như xúc tiến tìm kiếm đơn hàng mới để đảm bảo chiến lược sản xuất kinh doanh trong thời gian tới.
Lũy kế 11 tháng năm 2021 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,4% so cùng kỳ năm 2020, có 21/27 ngành tăng và 6/27 ngành giảm. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,54%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,97%; sản xuất và phân phối điện giảm 8,01%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,27%. Đây là mức tăng thấp do ảnh hưởng nặng nề do dịch bệnh Covid-19 trong quý 3 và kéo dài sang quý 4/2021; Mặt khác một số nước trên Thế giới là khách hàng, thị trường tiềm năng phục hồi chậm, nên việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa gặp nhiều khó khăn.
Chỉ số sản xuất 11 tháng năm 2021 của một số ngành công nghiệp chủ lực thuộc ngành công nghiệp cấp II tăng khá so với cùng kỳ như: Dệt tăng 5,35%; sản xuất trang phục tăng 7,42%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 7,37%; sản xuất hóa chất tăng 2,28%, ngoài ra các ngành sản xuất khác như: sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 10,85%; sản xuất xe có động cơ tăng 7,39%, Ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành giảm sâu so với cùng kỳ như: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính giảm 24,59%; Sản xuất thiết bị điện giảm 6,87%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 4,6%..những ngành có mức giảm mạnh, do ngừng sản xuất dài ngày để phòng dịch, mặt khác tiêu thụ sản phẩm từ đầu năm đến nay gặp nhiều khó khăn, sản phẩm tồn kho nhiều, thị trường tiêu thụ chậm. Ngành sản xuất phân phối điện giảm trên 8% do sản lượng sản xuất các doanh nghiệp ngành sản xuất điện thực hiện theo kế hoạch sản xuất của Tập đoàn Điện lực Việt Nam nên từ đầu năm đến nay sản lượng liên tục giảm. Ngành chế biến thực phẩm tăng thấp (chỉ tăng 0,42%); Đây là ngành có quy mô sản xuất lớn nhưng do ngành sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm giá nhập khẩu nguyên liệu đầu vào tăng cao, tiêu thụ sản phẩm chậm nên sản xuất ảnh hưởng lớn.
- Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Dự ước tháng 11 năm 2021 có 20/25 sản phẩm công nghiệp tăng so với tháng cùng kỳ như: cà phê các loại đạt 38,7 ngàn tấn, tăng 11,71%; Bột ngọt đạt 28,7 tấn, tăng 22,26%; Thức ăn gia súc đạt 327,7 ngàn tấn, tăng 32,52%; Sợi các loại đạt 117,2 ngàn tấn, tăng 11,7%, vải các loại đạt 54,5 triệu m2, tăng 10,35%; quần áo các loại đạt 19,7 triệu cái, tăng 12,64%, Giày dép các loại đạt 56,6 triệu đôi, tăng 10,93%. Nguyên nhân sản lượng tăng do các doanh nghiệp vẫn duy trì được lượng đơn đặt hàng có hợp đồng dài hạn, đồng thời sau khi giãn cách xã hội thị trường tiêu thụ và các đối tác vẫn luôn tin tưởng vào doanh nghiệp ở thị trường Việt Nam nên vẫn tiếp tục giao đơn hàng để các doanh nghiệp sản xuất, từ đó doanh nghiệp nhanh chóng bổ sung lực lượng lao động để nâng công suất đáp ứng đơn hàng bị gián đoạn trong thời gian qua. Tuy nhiên cũng có một số sản phẩm giảm so cùng kỳ đó là: Sơn các loại giảm 9,18%, mạch điện, tủ điện giảm 30,36%, giường tủ bàn ghế giảm 24,89%, nguyên nhân giảm là do tháng này nhiều doanh nghiệp thiếu lao động nên sản xuất chưa hết công suất, mặt khác thị trường tiêu thụ xuất khẩu qua các nước đối tác quan trọng như Trung Quốc, Mỹ, EU và một số nước đối tác khác vẫn còn khó khăn do chịu ảnh hưởng của dịch Covid 19, nền kinh tế phục hồi còn chậm.
Nhìn chung, hoạt động sản xuất công nghiệp tháng 11 đã dần hồi phục nhưng tính chung 11 tháng năm 2021 vẫn bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh. Vẫn còn một số doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc dần hồi phục hoạt động sản xuất, đặc biệt là các khó khăn về lao động, Từ tháng 11/2021, nếu đà kiểm soát dịch bệnh theo chiều hướng khả quan, các biện pháp hỗ trợ, khôi phục nền kinh tế được triển khai đồng bộ, khả năng sản xuất công nghiệp tháng tới sẽ có sự tăng trưởng khá hơn.
2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp tháng 11 tương đối ổn định, tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được kiểm soát, tình hình sản xuất nông nghiệp đã ổn định sản xuất trở lại, người nông dân đang bắt nhịp sản xuất trong trạng thái bình thường mới, tuy nhiên sau thời gian giãn cách để phòng, chống dịch Covid-19 nhiều diện tích cây trồng gần như không được chăm sóc nên cây trồng suy kiệt, trong khi đó giá phân bón và vật tư nông nghiệp tăng cao, đã ảnh hưởng đến việc khôi phục sản xuất của nông dân do chi phí tiếp tục tăng; ngành chăn nuôi vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn khi tất cả nguồn nguyên liệu và chi phí đầu vào tăng cao, nhất là giá thức ăn chăn nuôi… Để tháo gỡ khó khăn, trong sản xuất và xuất khẩu trong những tháng cuối năm, ngành nông nghiệp tập trung triển khai các chương trình, chính sách hỗ trợ nông dân phục hồi sản xuất bảo đảm đúng tiến độ, đạt hiệu quả và chất lượng, đồng thời xây dựng các cơ chế chính sách về hỗ trợ các mô hình sản xuất công nghệ cao, mô hình nông sản sạch, an toàn và giới thiệu chương trình kết nối tiêu thụ nông, đa dạng các kênh tiêu thụ sản phẩm..., nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn và ổn định sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
a) Nông nghiệp
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm tính đến tháng 11 đạt 144.784 ha, giảm 3.744 ha (-2,52%) so cùng kỳ. Diện tích gieo trồng cây hàng năm giảm chủ yếu là cây lương thực có hạt, do một số diện tích thiếu nước chưa xuống giống và một số diện tích chuyển đổi cây trồng. Cụ thể ở một số cây giảm so với cùng kỳ như: Lúa mùa là giảm 1,18%, cây bắp giảm 0,9%, cây khoai mì (sắn) giảm 4,3%; đậu các loại giảm 18,02%…
Năng suất lúa mùa ước đạt 54,61 tạ/ha, tăng 0,29% so cùng kỳ năm trước; ngô đạt 80,04 tạ/ha (+0,14%); khoai lang đạt 126,31 tạ/ha, (+4,65%); Đậu tương 16,47 tạ/ha, (+2,86%); Lạc 21,91 tạ/ha, (+4,32%); rau các loại đạt 167,63 tạ/ha, (+1%), đậu các loại đạt 13,85 tạ/ha, (-0,98%)... Nguyên nhân năng suất một số cây trồng chính tăng là do người dân từng bước cải thiện được việc đầu tư, chăm sóc cây trồng, áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật, thay đổi các loại giống cây trồng phù hợp với khí hậu thổ nhưỡng, chủ động được nguồn nước đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt.
Sản lượng lúa mùa ước đạt 102.099 tấn, giảm 3.049 tấn (-2,9%); Bắp đạt 274.781,2 tấn, giảm 2.496 tấn (-0,9%); khoai mì (sắn) đạt 380.072,3 tấn, giảm 17.097,5 tấn (-4,3%); Mía đạt 300.558,6 tấn, giảm 47.848,25 tấn (-13,73%); Rau các loại đạt 271.237,4 tấn, tăng 6.628 tấn (+2,5%); Đậu các loại đạt 4.622 tấn, giảm 1.016 tấn (-18,02%) so cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng lúa, bắp, khoai mì, mía và đậu các loại giảm là do diện tích gieo trồng bị thu hẹp; riêng sản lượng rau các loại tăng so cùng kỳ, một phần là diện tích gieo trồng tăng, dịch bệnh không phát sinh và giá cả tương đối ổn định, nên người dân chủ động khâu làm đất để gieo trồng, bên cạnh đó các hoạt động sản xuất từng bước khôi phục, tạo điều kiện cho thương lái, doanh nghiệp tổ chức thu mua nông sản cung cấp cho thị trường thuận lợi hơn, góp phần tăng sản lượng so cùng kỳ.
- Cây lâu năm:
Tổng diện tích hiện có cây lâu năm toàn tỉnh đến tháng 11 năm 2021 là 170.577,95 ha, tăng 506,53 ha (+0,3%) so cùng kỳ. Trong đó cây ăn trái tăng 737,12 ha (+1,05%); cây chứa dầu, tăng 0,01%..., nguyên nhân các loại cây này tăng là do chuyển đổi một số diện tích cây cà phê, tiêu, cao su đã già cỗi và một số diện tích từ cây hàng năm sang cây ăn trái, diện tích tăng chủ yếu ở các huyện Thống Nhất, Trảng Bom, Vĩnh Cửu và Cẩm Mỹ…
Sản lượng một số cây trông tăng so cùng kỳ như: Xoài đạt 101.773,5 tấn, tăng 4,39%; Chuối 124.331,7 tấn, tăng 4,8%; Thanh long 15.006,8 tấn, tăng 3,6%; Cam đạt 11.874,8 tấn, tăng 4,43%; Bưởi đạt 65.096,8 tấn, tăng 4,4%; Chôm chôm đạt 163.841 tấn, tăng 2,18%...nguyên nhân sản lượng nhóm cây ăn quả tăng là do năm nay khí hậu thuận lợi, sâu bệnh phát sinh nhẹ, mặt khác hiện nay nhiều hộ dân, hợp tác xã chủ động đầu tư khâu chọn giống, chăm bón nên hầu hết sản lượng đều tăng so cùng kỳ.
- Chăn nuôi
Tháng 11 năm 2021, tình hình chăn nuôi tiếp tục phát triển thuận lợi hơn so tháng trước, công tác tái đàn có chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn khi chi phí đầu vào đều tăng cao. Bên cạnh đó giá tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi thấp đã ảnh hưởng đến công tác tái đàn trên địa bàn. Trong giai đoạn khó khăn hiện nay, cả doanh nghiệp và người chăn nuôi càng phải nỗ lực tìm những giải pháp để tiết kiệm hơn nữa chi phí đầu vào sản xuất mới có lãi; đồng thời các ngành chức năng cần tiếp tục có các giải pháp hỗ trợ lĩnh vực chăn nuôi, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã sớm phục hồi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm… nhằm khôi phục ngành chăn nuôi vượt qua khó khăn, tăng đàn gia súc, gia cầm để cung cấp thị trường dịp cuối năm.
Dự ước tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 11/2021 là 2.113.860 con, tăng 8,41% so cùng kỳ. Trong đó: Trâu đạt 3.803 con, giảm 0,78% so cùng kỳ; Bò đạt 86.311 con, giảm 0,18% so cùng kỳ. Số lượng giảm chủ yếu do ảnh hưởng dịch bệnh viêm da nổi cục trên đàn trâu, bò. đến nay tỉnh đã khống chế được dịch này và tổ chức tiêm vaccine đạt trên 93% tổng đàn.
Số lượng đàn Heo đạt 2.023.746 con (Không tính heo con chưa tách mẹ), tăng 164.112 con (+8,82%) so cùng kỳ. Số lượng đàn heo tăng do hầu hết các đơn vị chăn nuôi có quy mô lớn như: Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam, Công ty JapFa Việt Nam, Công ty CJ ViNa Agri... do có đủ các điều kiện an toàn đảm bảo công tác tái đàn, đảm bảo con giống, cũng như heo bố mẹ... Các doanh nghiệp, trang trại quy mô lớn chăn nuôi theo chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ, cung cấp cho các kênh phân phối như siêu thị, hệ thống cửa hàng bán lẻ hiện đại vẫn tiêu thụ tốt, giá bán được bao tiêu với mức giá ổn định nên vẫn có kế hoạch tăng đàn, đảm bảo nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong những tháng cuối năm. Tuy nhiên giá thịt heo hơi trên thị trường chỉ dao động 42 đến 46 ngàn đồng/kg, giá bán này vẫn thấp hơn giá thành sản xuất, nguyên nhân là do giá thức ăn chăn nuôi và chi phí đầu vào tăng cao, làm cho giá thành sản xuất các sản phẩm chăn nuôi tăng, ngược lại giá bán thấp hơn giá thành, đồng nghĩa là người chăn nuôi đang chịu tổn thất nặng nề. Trong thời gian tới khi thị trường xuất khẩu ổn định hơn và nhu cầu thị trường tiêu dịp cuối năm tăng cao, giá bán cao hơn giá thành để người chăn nuôi đảm bảo được lợi nhuận, từng bước ổn định hoạt động chăn nuôi trên địa bàn.
Tổng đàn gia cầm có đến thời điểm tháng 11/2021 là 24.113,04 ngàn con, tăng 1,54% so cùng kỳ. Trong đó gà đạt 21.403,05 ngàn con, tăng 1,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn gà tăng là do nhu cầu thị trường xã hội có xu hướng tăng bên cạnh đó người chăn nuôi vẫn nỗ lực đầu tư tái đàn, tăng đàn kịp phục vụ nhu cầu tiêu thụ dịp tết Nguyên Đán sắp tới.
b) Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng 11 ổn định. Lượng mưa tương đối nhiều nên các đơn vị lâm nghiệp tiếp tục xuống giống trồng rừng trên phần diện tích đất trống. Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 11 đạt 41,61 ha, tăng 0,48% so với tháng cùng kỳ. Luỹ kế 11 tháng diện tích rừng trồng mới ước đạt 4.011,4 ha, tăng 3,25% so với cùng kỳ.
Sản lượng khai thác gỗ ước đạt 30.208 m3 tăng 40,1% so với tháng cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác tăng cao do nhu cầu sản lượng gỗ nguyên liệu tăng, nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ đã tái khởi động và tăng tốc sản xuất nhằm đáp ứng các đơn đặt hàng xuất khẩu cuối năm. Dự ước sản lượng gỗ khai thác 11 tháng đạt 261.208 m3, tăng 2,1% so với cùng kỳ.
c) Thủy sản
Tình hình nuôi trồng thủy sản tháng 11 phát triển tương đối ổn định. Dự ước tổng sản lượng thủy sản tháng 11/2021 đạt 7.150,82 tấn, tăng 1,73% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng sản lượng thủy sản đạt 64.432,32 tấn, tăng 4,48% so với cùng kỳ. Trong đó: sản lượng cá đạt 57.282,04 tấn, tăng 4,82%; tôm đạt 6.174,11 tấn, tăng 2,76%; thuỷ sản khác đạt 976,17 tấn, giảm 3,61%.
- Sản lượng khai thác tháng 11 ước 325,32 tấn, giảm 0,95% so với tháng cùng kỳ; Luỹ kế 11 tháng đạt 5.492,6 tấn, giảm 1,22% so với cùng kỳ.
- Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong tháng 11 ước đạt 6.825,5 tấn, tăng 1,86% so với tháng cùng kỳ. Luỹ kế 11 tháng sản lượng nuôi trồng đạt 58.939,72 tấn, tăng 5,05% so với cùng kỳ, trong đó: Cá tăng 5,4%, tôm tăng 3%, thủy sản khác giảm 4,82%. Diện tích nuôi tập trung ở các huyện Định Quán, Xuân Lộc, Trảng Bom, Vĩnh Cửu, Nhơn Trạch…
3. Thương mại dịch vụ, giá cả, vận tải và du lịch
Bước vào tháng 11 các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cơ bản đã bắt nhịp và ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã có các đơn hàng mới, việc vận chuyển, lưu thông hàng hóa thuận lợi. Các hoạt động vui chơi, giải trí, thể thao ngoài trời cũng đang dần được khôi phục. Ngoài ra tháng 11 cũng là tháng có nhiều đợt khuyến mãi, giảm giá cuối năm nên nhu cầu mua sắm, dịch vụ trong tháng 11 tăng so với tháng trước. Cụ thể như sau:
a) Thương mại dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 11 năm 2021 ước đạt 16.830,6 tỷ đồng, tăng 9,7% so với tháng trước và tăng 6,51% so tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tính đạt 169.640 tỷ đồng, tăng 1,49% so với cùng kỳ. Trong đó kinh tế nhà nước ước đạt 9.175,43 tỷ đồng, giảm 9,29%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 156.991,86 tỷ đồng, tăng 2,43%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 3.472,7 tỷ đồng, giảm 8,07% so với cùng kỳ. Nguyên nhân tổng mức bán lẻ tăng thấp so với cùng kỳ do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trong thời gian dài, cuối tháng 4 đặc biệt là quý III vừa qua nhiều hoạt động dịch vụ tạm ngưng hoạt động.
b) Giá cả thị trường
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11 so với tháng trước giảm 0,14% và so với cùng tháng năm trước tăng 2,54%; chỉ số giá bình quân 11 tháng tăng 2,5% so với cùng kỳ. Nếu so với tháng trước thì có 06 nhóm hàng có chỉ số giá giảm như: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,23%; Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 0,12%; Nhóm thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,01%; Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,23%; Nhóm giáo dục giảm 1,75%; Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,13%. Có 05 nhóm hàng có chỉ số giá tăng như: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,11%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,11%; Nhóm thiết bị đồ dùng và gia đình tăng 0,04%; Nhóm giao thông tăng 3,77%; Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,56% so với tháng trước.
- Chỉ số giá tháng 11 so với tháng 12/2020 tăng 1,83% (tức là chỉ số giá 11 tháng). Trong đó có 7/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng; Nhóm giao thông tăng cao nhất với 20,59%; nhóm giáo dục giảm mạnh nhất là 6,21%.
- Chỉ số giá bình quân 11 tháng so cùng kỳ năm trước tăng 2,5%. Trong đó: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,26%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,55%; May mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,43%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,03%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,55%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,23%; Giao thông tăng 11,35%; Giáo dục tăng 1,48%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,38%. Có 2 nhóm có chỉ số giảm đó là: Bưu chính viễn giảm 0,44% và văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,68%.
- Giá vàng trong nước biến động theo với giá vàng thế giới; Chỉ số giá vàng tháng 11/2021 tăng 2,73% so với tháng trước; tăng 1,3% so với tháng cùng kỳ năm 2020; bình quân 11 tháng năm 2021 tăng 9,06% so cùng kỳ.
- Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 11/2021 giảm 0,85% so tháng trước; so với cùng tháng năm trước giảm 1,66%; bình quân 11 tháng giảm 0,02%.
c) Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Trong tháng 11/2021, các cơ sở, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định dần sau thời gian thực hiện giãn cách xã hội. Các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 vẫn được các doanh nghiệp tiếp tục thực hiện song song với việc sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đã tăng tốc sản xuất, đáp ứng các đơn hàng đang bị trễ hạn giao hàng do bị gián đoạn; tìm cách huy động từ lượng lao động, nguyên vật liệu để dồn sức cho sản xuất, xuất khẩu những tháng cuối năm để đảm bảo hàng hóa xuất khẩu theo hợp đồng đã ký; chủ động tìm kiếm và đón nhận các đơn hàng mới cho năm 2022, trong bối cảnh phải phòng chống dịch một cách nghiêm túc, hiệu quả để phục hồi sản xuất do đó kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 11 vẫn duy trì được mức tăng khá so tháng trước. Tình hình kim ngạch xuất, nhập khẩu như sau:
Kim ngạch xuất khẩu tháng 11 năm 2021 ước tính đạt 1.683,19 triệu USD tăng 18,55% so tháng trước. Hầu hết các các mặt hàng xuất khẩu đều tăng cao, trong đó: Hạt điều tăng 13,07%; Cà phê tăng 16,62%; Cao su tăng 8,6%; Sản phẩm gỗ tăng 21,26%; Hàng dệt may tăng 16,08%; Giày dép các loại tăng 18,09%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 15,92%; Máy móc thiết bị và phụ tùng tăng 16,99%; Xơ, sợi dệt các loại tăng 23,6%; Sản phẩm từ sắt thép tăng 21,16%... so với tháng trước.
Tính chung 11 tháng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 19.200,1 triệu USD, tăng 13,36% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước đạt 450,68 triệu USD, tăng 9,19%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 3.682,47 triệu USD, giảm 7,09%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15.066,95 triệu USD, tăng 19,95%. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, nhưng kim ngạch xuất khẩu của Đồng Nai lại có bước tăng trưởng khả quan, ngoài mặt hàng cà phê, hàng dệt may, giày dép các loại giảm thì các mặt hàng chủ lực còn lại đều có mức tăng khá như: Cao su tăng 82,35%; Sản phẩm gỗ tăng 9,34%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 37,94%; Máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng tăng 12,33%; Xơ, sợi dệt các loại tăng 60,67% so với cùng kỳ.
Về thị trường xuất khẩu trong 11 tháng tập trung chủ yếu: Hoa Kỳ ước đạt 5.530,92 triệu USD, chiếm 28,81%; Trung Quốc ước đạt 1.999,48 triệu USD, chiếm 10,41%; Nhật Bản ước đạt 1.765,18 triệu USD, chiếm 9,19%; Hàn Quốc đạt 1.094,92 triệu USD, chiếm 5,7% tổng kim ngạch xuất khẩu; các thị trường khác cũng có kim ngạch xuất khẩu tương đối ổn định như: Đài Loan, Hàn Quốc, Bỉ, Đức, Nga...chiếm tổng tỷ trọng 45,88%.
Ước kim ngạch nhập khẩu tháng 11/2021 đạt 1.364,43 triệu USD, tăng 11,8% so với tháng trước. Trong đó: Thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 11,75%; Hóa chất tăng 10,58%; Chất dẻo (Plastic) nguyên liệu tăng 15,44%; Xơ, sợi dệt các loại tăng 12,5%; Sắt thép các loại tăng 13,48%; Máy móc thiết bị, DCPT khác tăng 8,16%... so với tháng trước. Nguyên nhân tăng là do nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu cho sản xuất, do đó các đơn vị chủ động nhập thêm vật tư, nguyên liệu để đảm bảo cho sản xuất và xuất khẩu.
Tính chung 11 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 16.972,09 triệu USD, tăng 30,62% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước ước đạt 239,68 triệu USD, giảm 9,77%; kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 3.064,13 triệu USD, giảm 7,83%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 13.668,29 triệu USD, tăng 45,36% so cùng kỳ. Một số mặt hàng nhập khẩu 11 tháng tăng cao so cùng kỳ như: Hạt điều 105,5 triệu USD, tăng 68,47% (do giá hạt điều trên thế giới đang có xu hướng tăng, nhu cầu nhập khẩu hạt điều ở những tháng cuối năm phục vụ các ngày lễ cũng tăng cao); Thức ăn gia súc và nguyên liệu 1.055,73 triệu USD tăng 24,31%; Hóa chất 1.643,4 triệu USD tăng 85,32% (do các doanh nghiệp bắt đầu sản xuất lại nên nhu cầu về hóa chất để xử lý sản phẩm tăng mạnh); Chất dẻo (Plastic) nguyên liệu 1.576,45 triệu USD, tăng 43,93%; Sắt thép các loại 1.318,39 triệu USD, tăng 57,43% (do nhiều công trình bị tạm ngưng trong thời gian giãn cách xã hội đến nay được phép xây dựng trở lại, giá sắt thép thế giới tăng cao làm tăng trị giá nhập khẩu); Máy móc thiết bị, DCPT khác 1.461,92 triệu USD, tăng 3,76%... so với cùng kỳ.
Thị trường nhập khẩu chủ yếu trong 11 tháng: Trung Quốc ước đạt 4.200,69 triệu USD (chiếm 24,75%); Hàn Quốc 2.245,84 triệu USD, chiếm 13,23%; Hoa Kỳ 1.342,47 triệu USD, chiếm 7,91%; Nhật Bản 1.215,06 triệu USD, chiếm 7,16% tổng kim ngạch nhập khẩu; Các thị trường khác như: Thái Lan, Brazil, Indonesia… chiếm tổng tỷ trọng 46,95% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Giá trị xuất siêu trên địa bàn tỉnh trong 11 tháng đạt khoảng 2.228 triệu USD, nguyên nhân xuất siêu là do năm nay thị trường xuất khẩu thuận lợi hơn, đơn hàng nhiều với giá trị lớn nên các doanh nghiệp có điều kiện đẩy mạnh sản xuất để xuất khẩu.
d) Hoạt động vận tải
Trong tháng ̣11 hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh đã sôi động và khởi sắc hơn so với tháng trước, UBND tỉnh Đồng Nai đã cấp phép cho các tuyến hoạt động vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng ô tô đưa rước công nhân, chuyên gia; hoạt động xe taxi nội tỉnh; hoạt động 06 tuyến xe buýt nội tỉnh; hoạt động các bến chở khách dọc sông, ngang sông nội tỉnh; ngoài ra tỉnh cũng kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh các tuyến vận tải hoạt động trở lại. Vì vậy lĩnh vực vận tải trong tháng 11 tăng so với tháng trước cả về doanh thu và sản lượng. Tổng doanh thu hoạt động ngành vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11/2021 ước đạt 1.375,3 tỷ đồng, tăng 27,62% so với tháng trước, giảm 4,24% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng ước đạt 14.511,5 tỷ đồng, giảm 7,09% so cùng kỳ. Cụ thể từng lĩnh vực vận tải như sau:
e) Bưu chính, chuyển phát
Doanh thu dịch vụ bưu chính, chuyển phát tháng 11/2021 ước đạt 15,4 tỷ đồng, tăng 24,26% so với tháng trước và giảm 0,51% so với tháng cùng kỳ. Do trong tháng 11 các đơn vị bưu chính viễn thông đã đẩy mạnh hoạt động sau thời gian giãn cách xã hội, bên cạnh đó do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên nhu cầu mua sắm theo hình thức online của người dân ngày càng tăng làm cho doanh thu nhóm bưu chính, chuyển phát tăng so với tháng trước. Dự ước 11 tháng ước đạt 138,9 tỷ đồng, tăng 12,31% so với cùng kỳ.
4. Tình hình thực hiện vốn đầu tư nguồn vốn ngân sách nhà nước
Dự ước thực hiện vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do địa phương quản lý tháng 11 năm 2021 ước thực hiện 1.062,2 tỷ đồng, tăng 17,77% so với tháng trước; trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh tăng 17,84 và chiếm 61%, vốn ngân sách nhà nước cấp huyện tăng 17,66% và chiếm 32,65%, vốn ngân sách nhà nước cấp xã tăng 17,58% và chiếm 6,35%, nguyên nhân tăng là do các dự án, công trình “chạy nước rút” để hoàn thành mục tiêu giải ngân hơn 95% nguồn vốn đầu tư công trong năm 2021 mà tỉnh đã đặt ra.
Lũy kế 11 tháng năm 2021 dự ước thực hiện 5.596,6 tỷ đồng, bằng 86,6% so cùng kỳ và đạt 70,47% so kế hoạch năm 2021. Nguyên nhân vốn đầu tư thực hiện chậm là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, ảnh hưởng đến công tác giải phóng mặt bằng của các dự án đầu tư công. Đồng thời, việc vận chuyển vật liệu, vật tư, nhập khẩu máy móc thiết bị và điều động nhân công cũng gặp khó khăn, làm chậm tiến độ các dự án. Mặc khác một số địa phương cấp huyện, chủ đầu tư chưa quyết liệt trong thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và điều hành dự án.
5. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) đến ngày 19/11/2021 đạt 1.167,04 triệu USD, giảm 4,41% so cùng kỳ và đạt 116,7% kế hoạch năm. Trong đó: Cấp mới 50 dự án, giảm 24,2% với vốn đăng ký 381,65 triệu USD, giảm 0,04% so cùng kỳ; điều chỉnh tăng vốn 97 dự án với vốn bổ sung 785,4 triệu USD, giảm 6,39% so cùng kỳ.
- Tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư và điều chỉnh tăng vốn đến ngày 23/11/2021 là 12.704,3 tỷ đồng, giảm 55,8% so cùng kỳ. Trong đó: Cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 24 dự án với số vốn là 10.507,31 tỷ đồng, giảm 56,6%; điều chỉnh tăng vốn 13 dự án với số vốn là 2.197 tỷ đồng, giảm 51,8% so cùng kỳ.
Tính từ đầu năm đến ngày 15/11/2021 tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là: 82.872,74 tỷ đồng, bằng 95,43% so với cùng kỳ 2020. Trong đó, có 2.617 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng 48.748,08 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 73,93% về số lượng doanh nghiệp và bằng 83,85% về số vốn đăng ký; doanh nghiệp đăng ký tăng vốn là 834 doanh nghiệp với số vốn bổ sung khoảng 34.124,66 tỷ đồng.
- Về tình hình giải thể doanh nghiệp, tạm ngừng kinh doanh: Tính từ đầu năm đến ngày 15/11/2021 có 262 doanh nghiệp giải thể, bằng 76,16% so với cùng kỳ và 304 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động, bằng 86,86% so với cùng kỳ; 753 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 10,1% so với cùng kỳ.
6. Một số tình hình xã hội
a) Văn hóa thông tin
Tháng 11 năm 2021, triển khai thực hiện tốt các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình với phương châm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong tỉnh để triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ tuyên truyền theo kế hoạch, đồng thời đảm bảo công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19. Trong tháng hoàn thành tốt công tác tuyên truyền cổ động trực quan các sự kiện chính trị của đất nước và tỉnh Đồng Nai… Kết quả đã phát hành 2.000 tập san; thực hiện 200 m2 pano cố định, 54 m2 phông sân khấu. In, treo 42 m2 băng rôn khẩu hiệu và 416 lá cờ Đảng cờ Tổ quốc, cờ phướn.
b) Thể thao
Trung tâm HL&TĐTDTT tổ chức hai giải đấu trực tuyến cấp tỉnh, gồm: Giải Taekwondo quyền thuật và Giải vô địch Việt dã. Triển khai nhận hồ sơ thi đấu các giải sắp tổ chức như: Giải vô địch các Câu lạc bộ Thể hình tỉnh Đồng Nai; Giải vô địch Bơi tỉnh Đồng Nai.
Tham gia tập huấn chuẩn bị thi đấu các giải như: Giải vô địch Điền kinh quốc gia lần thứ 45 năm 2021 tại Hà Nội; Giải vô địch Boxing toàn quốc năm 2021 tại Bắc Ninh; Giải vô địch Bóng bàn toàn quốc báo Nhân dân lần thứ 39 năm 2021 tại Quảng Nam; Giải vô địch Cử tạ quốc gia và giải vô địch các CLB Cử tạ quốc gia năm 2021 tại Thanh Hóa; Giải Bơi vô địch quốc gia năm 2021 tại Đà Nẵng.
c) Du lịch, vui chơi, giải trí
Thực hiện kế hoạch thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 của tỉnh, các doanh nghiệp như: 03 sân golf (Long Thành, Đồng Nai và Nhơn Trạch); Vườn Quốc gia Cát Tiên, Khu Bảo tồn Thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai, Khu du lịch Đảo Ó - Đồng Trường đã tổ chức các hoạt động đón khách. Trong đó, hệ thống sân golf thu hút được số lượng lớn khách hàng có nhu cầu. Trong tháng 11, thu hút được 9.500 lượt khách, trong đó có 3.325 khách quốc tế là những người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam và 6.175 khách nội địa (khách đến đánh golf và lưu trú); doanh thu dịch vụ du lịch đạt 24,5 tỷ đồng. Lũy kế 11 tháng, đón được 1.113.000 lượt khách (trong đó 31.605 lượt khách quốc tế là những người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam và 1.081.395 lượt khách nội địa); giảm 37% so với cùng kỳ năm 2020; doanh thu dịch vụ du lịch đạt 515 tỷ đồng, giảm 36,9% so với cùng kỳ (doanh thu này bao gồm cả lưu trú, ăn uống và vui chơi giải trí).
d) Giáo dục - Đào tạo
Tiếp tục phối hợp với Đài PTTH Đồng Nai xây dựng và sản xuất một số bài dạy cho khối học sinh lớp 1,2,6 các môn Tiếng Việt/Ngữ văn, Toán, tiếng Anh để phát trên Đài PTTH Đồng Nai. Tổ chức cho giáo viên trung học cốt cán tham gia bồi dưỡng thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 theo kế hoạch của Bộ GD-ĐT.
Trong tháng 11 đã ban hành Quyết định thành lập các đoàn kiểm tra về việc chuẩn bị điều kiện đảm bảo an toàn phòng, chống dịch Covid-19 để tổ chức dạy học trực tiếp tại các đơn vị trường học trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, theo đó: ngày 22/11, trên địa bàn tỉnh bắt đầu cho học sinh trở lại học trực tiếp sau thời gian dài học trực tuyến do dịch bệnh Covid-19, cụ thể: Có 6 trường tổ chức cho học sinh học buổi đầu tiên, gồm: Trường THCS-THPT Huỳnh Văn Nghệ (H.Vĩnh Cửu), Trường THPT Thống Nhất A (H.Trảng Bom), Trường THCS Suối Cao (H.Xuân Lộc), Trường THPT Nhơn Trạch (H.Nhơn Trạch), Trường THCS Phú Hoà và Trường THCS-THPT Tây Sơn (H.Định Quán). Việc cho học sinh vùng 1 (Vùng xanh, an toàn), Vùng 2 (Vùng vàng, nguy cơ thấp) theo Nghị quyết 128 của Thủ tướng Chính phủ đã được Sở Giáo dục và đào tạo phối hợp chặt chẽ với Sở Y tế, các địa phương và các trường trực thuộc tiến hành cẩn trọng, chặt chẽ và linh hoạt. Những trường cho học sinh đi học trực tiếp phải đáp ứng được các tiêu chí trường học an toàn với dịch bệnh Covid-19. Trước ngày học sinh đi học chính thức, các trường đều tiến hành test nhanh Covid-19, nếu tình hình thật sự ổn định và thuận lợi, mới cho học sinh đến trương. Các trường đều được tập huấn và có phương án xử lý trường hợp phát sinh F0 trong lớp học theo đúng hướng dẫn của Sở Y tế.
e) Y tế
Tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh có số ca mắc mới tuy đã có giảm hơn so với tháng trước nhưng vẫn còn mức cao. Tính từ ngày 16/10-16/11/2021) ghi nhận thêm 22.208 trường hợp mắc bệnh. Luỹ kế từ lúc dịch xuất hiện đến nay, đã ghi nhận 79.931 trường hợp mắc Covid-19. Trong đó: có 66.199 trường hợp đã điều trị khỏi bệnh; 13.135 trường hợp đang điều trị; 629 trường hợp tử vong. F1 đang theo dõi: 1.251 trường hợp; F2 đang theo dõi: 1.946 trường hợp; người về từ vùng dịch, nhập cảnh đang theo dõi: 72 trường hợp, lũy kế: 12.724 trường hợp.
Một số dịch bệnh phát sinh tháng 11 và 11 tháng như sau:
- Sốt xuất huyết: Trong tháng 11 ghi nhận 447 trường hợp, so với tháng giảm 39,43% và giảm 39,43% so với tháng cùng kỳ. Số trường hợp mắc sốt xuất huyết cộng dồn đến tháng 11 là 5.907 trường hợp (trong đó số trường hợp trẻ ≤ 15 tuổi là 4.035 trường hợp, chiếm tỷ lệ 68,3%), tăng 18,5% so với cùng kỳ. Ghi nhận 01 trường hợp tử vong.
Số ổ dịch được phát hiện trong tháng là 33 ổ dịch, giảm 89,3% so với cùng kỳ. Tỷ lệ ổ dịch xử lý trong toàn tỉnh đạt 97,3% (1.172 ổ dịch được xử lý/ 1.205 ổ dịch phát hiện).
- Sởi: Trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc sởi. Luỹ kế 11 tháng là 8 trường hợp, giảm 94,33% so với cùng kỳ. Không ghi nhận trường hợp tử vong.
- Hội chứng tay chân miệng: Trong tháng có 06 trường hợp, tăng 03 ca so với tháng trước và giảm 99,7% so với tháng cùng kỳ. Luỹ kế 11 tháng là 2.896 trường hợp, giảm 51,87% so với cùng kỳ. Không ghi nhận trường hợp tử vong.
Hoạt động xử lý ổ dịch: Tính từ đầu năm đến tháng 11 xử lý 372/373 ổ dịch phát hiện, đạt tỷ lệ 99,73%.
Hoạt động phòng, chống dịch: Trước tình hình dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, Sở Y tế chỉ đạo các Trung tâm Kiểm soát bệnh tật và các Trung tâm Y tế huyện, thành phố triển khai đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, vật tư y tế, thuốc và hóa chất sẵn đáp ứng kịp thời cho công tác phòng, chống dịch, nhất là dịch bệnh Covid-19.
Công tác tiêm chủng ngừa Covid-19:
Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh đã thực hiện tiêm 4.918.661 liều vắc xin Covid-19 cho người từ 18 tuổi trở lên. Trong đó có 2.741.923 người được tiêm ít nhất 1 liều (chiếm tỉ lệ 109,32%), có 2.176.738 người đã tiêm đủ 02 liều (chiếm tỉ lệ 78,8%).
Ban hành Kế hoạch phân bổ sử dụng vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh đợt 19 năm 2021 (đợt 73 và 74 của Bộ Y tế), đến nay đã thực hiện tiêm vắc xin mũi 1 cho trẻ từ 12 đến dưới 18 tuổi, đạt tỉ lệ 38,43%.
Tiếp tục thực hiện tiêm vắc xin theo kế hoạch và triển khai Chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 giai đoạn 2021-2022 trên địa bàn tỉnh cho các đối tượng 18 tuổi trở lên và trẻ em từ 12-17 tuổi trong thời gian tới.
Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm: Tiếp tục thực hiện tốt chỉ đạo của UBND tỉnh về tăng cường công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh, Sở Y tế đã chỉ đạo đơn vị chuyên môn tăng cường công tác truyền thông về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh cho các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm;Cung cấp suất ăn đủ điều kiện về quy định an toàn vệ sinh thực phẩm theo quy định để thực hiện cung cấp suất ăn cho các bệnh viện dã chiến điều trị bệnh nhân Covid-19 và các cơ sở cách ly tập trung (F1) của tỉnh. Phối hợp các đơn vị liên quan kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm các đơn vị cung cấp suất ăn cho các bệnh viện dã chiến, khu cách ly tập trung...
f) Công tác việc làm
Trong tháng, đã tiếp nhận 2.967 hồ sơ đề nghị hưởng Bảo hiểm thất nghiệp, đã ban hành 2.690 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp với tổng số tiền là 87.581,6 triệu đồng.
Tiếp nhận, kiểm tra, hướng dẫn cấp 52 giấy phép lao động và 01 trường hợp xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động theo quy định và tham mưu UBND chấp thuận cho 25 lao động người nước ngoài nhập cảnh vào Đồng Nai.
g) Đào tạo nghề
Trong tháng 11 các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chỉ mới nhận hồ sơ tuyển sinh online cho 5.612 người, trong đó: Cao đẳng là 52 người và Sơ cấp là 5.560 người. Tổng số tuyển mới từ đầu năm đến nay là 61.962 người, đạt 77,74% kế hoạch. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức thi, xét tốt nghiệp cho 7.048 người, trong đó: Cao đẳng là 412, Trung cấp: 67 người và Sơ cấp là 6.569 người. Tổng số tốt nghiệp từ đầu năm đến nay là 38.500 người, đạt 55,8% kế hoạch năm 2021./.