Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn tỉnh Kon Tum tiếp tục duy trì mức tăng trưởng và khởi sắc hầu hết ở tất cả các lĩnh vực. Trong tháng 5 năm 2022, các cấp, các ngành tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm, tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, nhất là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, địa phương trong việc đẩy mạnh thực hiện nghị quyết, quyết định, chương trình hành động triển khai thực hiện của các cấp, các ngành; khắc phục có hiệu quả các hạn chế, khuyết điểm nêu trên; nhất là các nhiệm vụ, giải pháp đã xác định tại Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 18 tháng 4 năm 2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI “lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị quý II năm 2022”.
Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả: nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ; công tác chuẩn bị giống và các điều kiện cần thiết để trồng mới các cây trồng chủ lực của tỉnh được chú trọng; du lịch phát triển mạnh mẽ, nhiều sự kiện, hoạt động quảng bá du lịch được tổ chức tốt, gây ấn tượng trong lòng du khách; công tác xúc tiến, thu hút đầu tư được tăng cường; công tác tuyền truyền, khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa được chú trọng; hoạt động thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi; các chế độ, chính sách về an sinh xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời; tình hình dịch bệnh tương đối ổn định, kiểm soát tốt; công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp được triển khai quyết liệt; hoạt động đối ngoại được chú trọng, tăng cường; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Kết quả đạt được trên một số lĩnh vực trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ cụ thể như sau:
1. Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tháng 5 năm 2022, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Kon Tum diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ trọng tâm là tập trung gieo trồng và chăm sóc cây lúa vụ mùa, đảm bảo tiến độ gieo trồng các loại cây hàng năm khác. Công tác phòng chống dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm được giám sát chặt chẽ. Sản xuất lâm nghiệp duy trì ổn định; công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được quan tâm.
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
(1) Sản xuất vụ đông xuân 2021-2022
Tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ đông xuân 2021 – 2022 ước đạt: 9.814,47 ha, tăng 2,79% (+ 266,45 ha) so với vụ đông xuân năm trước. Cụ thể: diện tích, năng suất, sản lượng cây hàng năm vụ đông xuân 2021 – 2022 so với vụ đông xuân năm trước theo báo cáo sơ bộ, như sau:
Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt: 8.002,14 ha, tăng 2,28% (+178,29 ha). Trong đó: Cây lúa DTGT đạt: 7.277, 64 ha, tăng 2,16% (+153,79 ha). Năng suất lúa ước đạt 50,33 tạ/ha, tăng 3,64%; sản lượng lúa ước đạt 36.631,48 tấn, tăng 3,44% (+1.218,62 tấn).
Cây ngô DTGT đạt: 724,5 ha, tăng 3,5% (+24,5 ha). Năng suất ngô ước đạt 39,71 tạ/ha, giảm 1,34%; sản lượng ngô ước đạt 2.877 tấn, tăng 2,11% (+59,56 ha).
Diện tích gieo trồng cây lấy củ có chất bột ước đạt: 40,1 ha, tăng 24,92% (+8 ha).
- DTGT khoai lang ước đạt: 37,5 ha, tăng 28,87% (+8,4 ha). Năng suất ước đạt: 120,40 tạ/ha, tăng 12,31%; sản lượng ước đạt: 451,5 tấn, tăng 44,73% (+139,55 tấn), sản lượng tăng do diện tích gieo trồng tăng.
Diện tích gieo trồng rau, đậu các loại và hoa ước đạt: 1.482,08 ha, tăng 2,38% (+34,49 ha). Trong đó:
- DTGT rau các loại ước đạt: 1.306,14 ha, tăng 2,42% (+30,92 ha). Năng suất ước đạt: 132,95 tạ/ha, tăng 2,99%; sản lượng ước đạt: 17.365,14 tấn, tăng 5,49% (+903,19 tấn).
- DTGT đậu các loại ước đạt: 110,29 ha, tăng 3,58% (+3,81 ha). Năng suất ước đạt: 18,14 tạ/ha, giảm 3,39%; sản lượng ước đạt: 200,06 tấn, tăng 0,06% (+0,12 tấn).
Diện tích gieo trồng cây hàng năm khác ước đạt: 254,33 ha, tăng 23,74% (+48,8 ha). Trong đó: cây gia vị hàng năm đạt: 42,44 ha, tăng 44,75% (+13,12 ha); cây dược liệu, hương liệu hàng năm đạt: 57,64 ha, tăng gấp hơn 2 lần (+33,53 ha), trong đó: sả là 40,44 ha; cây hàng năm khác còn lại đạt: 154,25 ha, tăng 1,41% (+2,15 ha), trong đó: cỏ voi là 150,3 ha.
(2) Sản xuất vụ mùa
Tính đến ngày 15/5/2022, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa là 29.611 ha tăng 5,9% (+1.651,6 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích tăng là do năm nay mưa sớm nên người dân tranh thủ xuống giống gieo trồng. Trong đó:
- Cây lúa ruộng diện tích ước tính đã gieo cấy là 1.339 ha, tăng 18,5% (+208,3 ha).
- Cây lúa rẫy diện tích ước tính là 1.383 ha, tăng 7,71% (+98,9 ha).
- Cây ngô diện tích gieo trồng ước tính là 396 ha, giảm 0,75% (-2,3 ha).
- Rau các loại diện tích ước tính đã gieo trồng là 784 ha, giảm 7,22% (-60,7 ha) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do mưa giông xuất hiện ở một số nơi trên địa bàn nên người dân giảm diện tích gieo trồng rau.
- Đậu các loại diện tích ước tính đã gieo trồng là 151 ha, tăng 31,3% (+35,8 ha).
- Khoai lang diện tích gieo trồng ước tính là 51 ha, tăng 2,4% (+1,2 ha).
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục được phát triển ổn định. Các cơ quan chuyên môn quan tâm, khẩn trương thực hiện tốt phương án phòng chống dịch bệnh ở động vật; tăng cường công tác khử trùng, tiêu độc, đảm bảo môi trường vệ sinh an toàn.
Ước tính đến thời điểm 31/5/2022, tổng đàn trâu 24.865 con, tăng 1,27% (+312 con); tổng đàn bò 84.049 con, tăng 2,78% (+2.276 con); tổng đàn lợn 152.635 con, tăng 5,16% (+7.485 con); tổng đàn gia cầm 1.723.140 con, tăng 4,41% (+72.740 con) so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình dịch bệnh trong tháng 5 năm 2022
Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) trong tháng, đã phát sinh và tiêu hủy 40 con lợn tại huyện Ngọc Hồi và huyện Đăk Hà. Hiện nay, về cơ bản đã kiểm soát và khống chế dịch bệnh DTLCP trên địa bàn tỉnh.
Các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác như bệnh lở mồm long móng, bệnh viêm da nổi cục ở trâu, bò, bệnh tai xanh, cúm gia cầm...Trong tháng không phát sinh.
1.2. Lâm nghiệp
Tháng 5 năm 2022, sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu thực hiện khâu lâm sinh, khai thác gỗ và củi. Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, luôn đặt trong tư thế chủ động và sẵn sàng, được các cơ quan chuyên môn chú trọng thực hiện. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương, tập hợp sức mạnh của nhân dân thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng.
Tính đến ngày 15/5/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 25 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 35,2 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh chưa tiến hành. Đến nay hầu hết các địa phương, đơn vị đều đang tổ chức rà soát, đảm bảo quỹ đất trồng rừng năm 2022.
Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 31/5/2021, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 58.140 m3, tăng 3,52% (+1.976 m3) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác là 108.400 ster, giảm 3,94% (- 4.444 ster) so với cùng kỳ năm trước
1.3. Thuỷ sản
Hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi ao hồ từ quảng canh cải tiến sang thâm canh, bán thâm canh, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
- Ước tính 5 tháng đầu năm 2022, diện tích nuôi trồng thủy sản là 775,8 ha, tăng 9,11% (+64,8 ha) so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng thủy sản ước tính đạt 2.437 tấn, tăng 7,36% (+167 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 836 tấn, tăng 6,5% (+51 tấn); Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 1.601 tấn, tăng 7,81% (+116 tấn).
Nhìn chung sản lượng thủy sản trong kỳ tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với năm trước, cùng với khai thác đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối tăng.
2. Sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng Năm năm 2022 tiếp tục ổn định và tăng trưởng trở lại do hầu hết các đơn vị đã thích nghi với trạng thái “bình thường mới”, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Năm ước tính tăng 1,49% so với tháng trước và tăng 5,07% so với cùng kỳ năm trước do dịch Covid-19 đã được kiểm soát, các doanh nghiệp chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất. Tính chung 5 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 20,90% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao như ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và ngành sản xuất, phân phối điện; riêng ngành sản xuất điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất (+40,38%).
2.1. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 5 năm 2022 ước tính tăng 5,07% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện (+7,16%); ngành công nghiệp khai khoáng tăng 5,9%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,18%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 6,2%.
So với tháng trước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 5/2022 ước tính tăng 1,49%. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất phân phối điện (+13,29%); ngành khai thác khoáng sản tăng 1,59%. Riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 21,53%; đến tháng 5 nguồn nguyên liệu sắn giảm do đã vào cuối vụ thu hoạch, sản lượng tinh bột sắn sản xuất ước tính giảm nhiều so tháng trước nên chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm mạnh. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.
Tính chung 5 tháng đầu năm chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện tăng (+40,38%); ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,06%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,38%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 5,2%.
Chỉ số sản xuất 5 tháng đầu năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 40,38%; Khai khoáng khác tăng 12,06%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 15,78%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 1,74%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 2,95%. Ở chiều ngược lại, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,32%; Sản xuất trang phục giảm 6,15%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 11,72%; In, sao chép bản ghi các loại giảm 2,56%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 16,98%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 1,90%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 3,28%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 3,06%; Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu giảm 7,70%.
2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 5 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 30.228,5 m3, tăng 9,52%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 6.590 tấn, tăng 42,83%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 18,506 triệu viên, tăng 0,37%; điện sản xuất 205,9 triệu Kwh, tăng 6,25%.
Tính chung 5 tháng đầu năm một số sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 1.052 triệu Kwh, tăng 42,32%; Đá xây dựng khác đạt 142.042 m3, tăng 15,16%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 69,256 triệu viên, tăng 14,95%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 111 nghìn viên, tăng 7,41%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 84.456 chiếc, tăng 2,46%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm sâu hoặc tăng thấp so với cùng kỳ năm trước: Tinh bột sắn đạt 102.613 tấn, giảm 11,41%; Đường RE đạt 7.188 tấn, giảm 14,18%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 707,8 ngàn cái, giảm 5,01%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 12.542 m3, giảm 11,42%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 73,7 triệu trang, giảm 2,56%; Cồn béo công nghiệp đạt 3.940 tấn, giảm 18,04%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 35.824 chiếc, giảm 1,03%; Phân vi sinh đạt 476 tấn, giảm 4,23%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hóa trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 775 tấn, giảm 1,9%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 10.842 tấn, giảm 7,07%.
2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Năm ước tính giảm 0,40% so với tháng trước và giảm 1,13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 6,64%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,23%. Chia theo ngành kinh tế, trong 5 tháng đầu năm, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng giảm 37,61%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,05%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí nước tăng 27,56%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 15,61% so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2022 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước vởi chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 20,9%; một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao như ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và ngành sản xuất, phân phối điện; riêng ngành sản xuất điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất (+40,38%) do một số công trình thủy điện đã hoàn thành và đưa vào vận hành, một mặt năm nay mùa mưa đến sớm hơn, hiện tại lượng nước trên các hồ chứa vẫn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động hết công suất nên sản lượng điện sản xuất tăng cao. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sản xuất giảm so cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do một số ngành sản xuất như chế biến tinh bột sắn, sản xuất cồn, chế biến gỗ... còn khó khăn trong khâu thu mua nguyên liệu sản xuất nên sản lượng sản phẩm của các ngành này giảm.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Tính từ đầu năm đến ngày 19/5/2022, toàn tỉnh có 170 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký trên 3.382 tỷ đồng, tăng 54% về số doanh nghiệp và giảm 0,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2021. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 5 tháng đầu năm 2022 đạt 19,9 tỷ đồng, giảm 35,8 % so với cùng kỳ năm 2021. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 85 doanh nghiệp, tăng 11,84% so với cùng kỳ năm trước nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động lên đến 255 doanh nghiệp, tăng 37% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2022 (tính đến ngày 19/5/2022) số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động 120 doanh nghiệp, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm trước ngoài ra, có 11 doanh nghiệp đã giải thể.
4. Hoạt động ngân hàng
4.1. Tình hình thực hiện lãi suất
a) Lãi suất huy động: Các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động. Mặt bằng lãi suất huy động tại các TCTD trong tháng tương đối ổn định, không có sự biến động so với tháng trước. Theo đó, mức lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn dưới 6 tháng từ 3,1-4,0%/năm; đối với kỳ hạn từ 6 đến 12 tháng từ 4,0-5,8%/năm; đối với các kỳ hạn trên 12 tháng từ 5,5%-6,3%/năm. Lãi suất huy động bằng USD thực hiện theo mức quy định tối đa 0% đối với tiền gửi cá nhân và tổ chức.
b) Lãi suất cho vay: Mặt bằng chung lãi suất cho vay trong tháng tiếp tục duy trì ổn định. Mặt bằng lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường duy trì ở mức từ 7,0-10,5%/năm; cho vay trung và dài hạn ở mức từ 10-11%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm. Ngoài ra, một số ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi với nhiều gói tín dụng ưu tiên của mỗi hệ thống với mức lãi suất từ 5,5-6,5%/năm.
4.2. Hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng
a) Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn đến 31/5/2022 ước đạt 20.000 tỷ đồng tăng 7% (+1.319 tỷ đồng) so với thời điểm cuối năm 2021, tăng 1,5% (+286 tỷ đồng) so với tháng trước. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 3.300 tỷ đồng (chiếm 16,5% nguồn vốn huy động) giảm 45,2% so với thời điểm 31/12/20216. Phân theo loại tiền tệ, nguồn vốn huy động bằng tiền gửi VND ước đạt 19.560 tỷ đồng, chiếm 97,8% tổng nguồn vốn huy động; nguồn vốn huy động bằng tiền gửi ngoại tệ ước đạt 140 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 15.200 tỷ đồng, chiếm 76% tổng nguồn vốn huy động, tăng 5,3% (+771 tỷ đồng) so với đầu năm, tiền gửi thanh toán ước đạt 4.500 tỷ đồng, chiếm 22,5% tổng nguồn vốn huy động, tăng 19,2% (+725 tỷ đồng) so với đầu năm. Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 300 tỷ đồng, chiếm 1,5% tổng nguồn vốn huy động.
b) Hoạt động tín dụng: Đến 31/5/2022, tổng dư nợ tín dụng toàn địa bàn ước đạt 41.100 tỷ đồng so với đầu năm, tăng 6,9% (+ 2.661 tỷ đồng) và tăng 1,2% (+468 tỷ đồng) so tháng trước. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 24.800 tỷ đồng, chiếm 60,3% tổng dư nợ; dư nợ trung dài hạn ước đạt 16.300 tỷ đồng, chiếm 39,7% tổng dư nợ; Cơ cấu tín dụng theo loại tiền tệ được duy trì tương đối ổn định, dư nợ cấp tín dụng bằng VND vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu, ước đạt 40.960 tỷ đồng, chiếm 99,7% tổng dư nợ, dư nợ bằng ngoại tệ không đáng kể. Cơ cấu tín dụng tiếp tục được tập trung vào sản xuất kinh doanh, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.
5. Vốn đầu tư
Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm, đồng thời, chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Trong 5 tháng đầu năm 2022 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh nhìn chung đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2021 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2022 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng Năm ước tính đạt 225.263 triệu đồng, tăng 0,13% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 162.983 triệu đồng, chiếm 72,35% trong tổng số nguồn vốn; vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 62.280 triệu đồng, chiếm 27,65% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa...
Tính chung 5 tháng đầu năm 2022 vốn đầu tư thực hiện đạt 823.404 triệu đồng, tăng 12,87% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 611.091 triệu đồng, chiếm 74,22% trong tổng số nguồn vốn, tăng 9,43% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 270.475 triệu đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 300.313 triệu đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết đạt 12.800 triệu đồng; nguồn vốn khác đạt 15.905 triệu đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 212.313 triệu đồng, chiếm 25,78% trong tổng số nguồn vốn, tăng 24,09% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện đạt 167.943 triệu đồng; nguồn vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 41.570 triệu đồng; và nguồn vốn khác đạt 2.800 triệu đồng.
- Tình hình thực hiện dự án từ nguồn vốn ngân sách nhà nước thực hiện trong kỳ
Nhìn chung trong 5 tháng đầu năm 2022 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2021 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2022 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông tiếp nối tỉnh lộ 674 đi đường tuần tra Biên giới xã Mô Ray huyện Sa Thầy; Đường trục chính phía Tây TP Kon Tum; …
6. Thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng Năm khá sôi động khi đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Năm tăng 37,61% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 38,75% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều hoạt động hưởng ứng, thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh đã được tổ chức thành công; đặc biệt là chuỗi hoạt động trong khuôn khổ Diễn đàn “Du lịch Kon Tum - Tiềm năng và triển vọng” năm 2022 và công bố Kế hoạch phát triển du lịch khu vực tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam giai đoạn 2025 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với quy mô cấp quốc gia.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 5 năm 2022 đạt 2.644,89 tỷ đồng, giảm 5,33% so với tháng trước và tăng 37,61% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.295,35 tỷ đồng, chiếm 86,78% trong tổng số, giảm 6,41% so với tháng trước và tăng 37,61% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 225,06 tỷ đồng, chiếm 8,51% trong tổng số, tăng 2,89% so với tháng trước và tăng 45,97% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 124,483 tỷ đồng, chiếm 4,71% trong tổng số, tăng 1,48% so với tháng trước và tăng 9,38% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh thực hiện tháng 5 năm 2022 giảm với tháng 4 năm 2022 là do: giá xăng dầu trên thị trường tăng, gây sức ép lớn về chi phí vận chuyển, sản xuất cho các doanh nghiệp, làm tăng chi phí sản xuất các mặt hàng sử dụng xăng dầu làm đầu vào cho sản xuất, từ đó kéo theo giá cả một số mặt hàng sẽ tăng nên sức mua của tháng này sẽ giảm so với tháng trước.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 13.864,434 tỷ đồng, tăng 38,63% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 12.058,5 tỷ đồng, chiếm 86,97% trong tổng số, tăng 40,75% so với cùng kỳ năm trước. Xét theo ngành hoạt động trong doanh thu bán lẻ hàng hoá có ngành hàng lương thực, thực phẩm, tăng 43,09%; hàng may mặc, tăng 26,91%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 29,46%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 21,62%; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 45,23%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 37,36%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 27,57%; Xăng, dầu các loại tăng 230,51%; Hàng hoá khác tăng 20,20%; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 35,52% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.119,65 tỷ đồng, chiếm 8,08% trong tổng số và tăng 34,42% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó Dịch vụ lưu trú tăng 25,79%; Dịch vụ ăn uống tăng 34,90%; Dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ tăng 68,83% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác đạt 686,29 tỷ đồng, chiếm 4,57% trong tổng số, tăng 14,13% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 5 tháng đầu năm 2022 tăng là do hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng 5 tháng đầu năm 2022 có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát, cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại; Các doanh nghiệp đã sẵn sàng thích ứng an toàn với dịch Covid-19, linh hoạt trong hoạt động để sản xuất kinh doanh, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành phục hồi mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước, đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19.
7. Hoạt động vận tải
Trong tháng Năm, hoạt động vận tải ghi nhận sự phục hồi khá tích cực. Vận tải hàng hóa duy trì đà phục hồi từ những tháng trước với sản lượng vận chuyển hàng hoá tăng 22,64% và luân chuyển tăng 21,65% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2022, vận chuyển hành khách giảm 20,05%, luân chuyển hành khách giảm 19,46% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 15,05%, luân chuyển hàng hóa tăng 15,34% so với cùng kỳ năm trước
- Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải: ước tính tháng 5 năm 2022 đạt 174.252 triệu đồng, giảm 2,99% so với tháng trước và tăng 26,99% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đạt 872.225 triệu đồng, tăng 7,28% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu vận tải hành khách ước đạt 44.237 triệu đồng, tăng 9,15% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 129.107 triệu đồng, tăng 34,58% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 908 triệu đồng, tăng 21,38% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hành khách: trong tháng 5 vận chuyển ước đạt 769 nghìn lượt khách, tăng 4,51%; Luân chuyển ước đạt 101.378 nghìn lượt khách.km, tăng 7,05% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng vận chuyển ước đạt 3.991 nghìn lượt khách, giảm 20,05%; Luân chuyển ước đạt 517.455 nghìn lượt khách.km, giảm 19,46% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá: trong tháng 5 vận chuyển ước đạt 1.355 nghìn tấn, tăng 22,64%; luân chuyển ước đạt 79.361 nghìn tấn.km, tăng 21,65% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng vận chuyển ước đạt 7.023 nghìn tấn, tăng 15,05%; luân chuyển ước đạt 350.217 nghìn tấn.km, tăng 13,34% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với cùng kỳ trước, một mặt là do tình hình dịch Covid-19 đã ổn định nên hoạt động vận chuyển hành khách trở lại hoạt động bình thường, nhu cầu đi lại của người dân tăng. Mặc khác là do tháng 5 năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid-19 hoạt động vận tải hành khách giảm mạnh.
Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng là do một số cơ sở kinh doanh vận tải hàng hóa đầu tư trang bị thêm các dòng xe mới có trọng tải lớn và hoạt động vận chuyển hàng hóa phục vụ ngành xây dựng tăng.
8. Giá cả thị trường
8.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 năm 2022 tăng 0,57% so với tháng trước; tăng 2,79% so với cùng tháng năm trước; tăng 1,95% so với tháng 12 năm trước; tăng 6,19% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 5 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,25%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 7 nhóm tăng là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,76%; nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%; nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,03%; nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,3%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,2%; nhóm Giao thông tăng 2,78%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,19%. Có 02 nhóm giảm là nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,26%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,33%. Có 02 nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.
- Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
(1) Chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,76%, trong đó:
+ Nhóm lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,26%, riêng chỉ số nhóm gạo tăng 0,27%, trong đó gạo tẻ thường tăng 0,28%, gạo tẻ ngon tăng 0,09%, gạo nếp giảm 0,19%, nguyên nhân là do sản phẩm trái vụ và do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 2,06%, trong đó ngô tăng 3,79%, khoai tăng 0,63%, sắn tăng 2,9% là do nhu cầu tiêu dùng tăng và sản phẩm trái vụ.
+ Nhóm thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,78%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống giảm 0,14%, trong đó thịt lợn giảm 0,23%; thịt bò giảm 0,03%; nội tạng động vật giảm 0,07% là giảm theo giá thịt lợn. Giá thịt lợn và thịt bò giảm là do lượng cung tăng và nhu cầu tiêu dùng giảm. Nhóm thịt gia cầm tăng 0,31%, trong đó thịt gà tăng 3,14% là do nhu cầu tiêu dùng tăng trong khi đó lượng cung giảm. Nhóm trứng các loại tăng 0,71%, trong đó trứng tươi các loại tăng 0,73%. Nhóm dầu, mỡ ăn và chất béo khác tăng 0,33, trong đó mỡ động vật giảm 1,75% là do giảm theo giá thịt lợn.
Nhóm thủy sản tươi sống tăng 0,22% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,16%; thủy, hải sản tươi sống khác tăng 0,97%, nguyên nhân là do lượng cung gỉam nên làm cho giá tăng. Nhóm nước mắm, nước chấm tăng 0,42% là do nhu cầu tiêu dùng tăng.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 4,92%, trong đó bắp cải tăng 3,3% (tăng từ 1.000 đồng – 2.000 đồng/kg), su hào tăng 9,17% (tăng từ 2.000 đồng – 3.000 đồng/kg), cà chua tăng 5,05% (tăng từ 1.000 đồng – 2.000 đồng/kg), rau muống tăng 4,24%, đỗ quả tươi tăng 12,63%, rau dạng củ, quả tăng 8,58%, rau tươi khác tăng 4,65%, rau gia vị tươi khô các loại tăng 2,82%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng đồng thời lượng cung giảm do các sản phẩm trên trái vụ.
Nhóm quả tươi, chế biến giảm 0,19%, trong đó quả có múi giảm 0,81%, táo giảm 0,65%, xoài giảm 0,35%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng giảm đồng thời sản phẩm đang mùa thu hoạch.
Nhóm đồ gia vị tăng 0,46%, trong đó đồ gia vị các loại tăng 1,06%; Nhóm đường mật tăng 1,23%, trong đó đường tăng 2,35%; Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,45%, trong đó sữa bột người lớn tăng 0,9%, sữa bột trẻ em tăng 1,53%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên làm cho giá tăng theo; Nhóm bánh, kẹo, mứt tăng 0,38%, trong đó socola tăng 1,52%, kẹo các loại tăng 0,93%.
Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 1,01%, trong đó ăn ngoài gia đình tăng 1,03%, uống ngoài gia đình tăng 1,99%, nguyên nhân chủ yếu là các cơ sở kinh doanh hàng ăn, uống tăng thu thêm chi phí phục vụ.
(2) Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%, tác động tăng chủ yếu là do nhóm bia các loại tăng 1,74%, trong đó bia chai tăng 2,69%, bia lon tăng 1,62%. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng chi phí lưu thông tăng.
(3) Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,3%, trong đó nhóm vải các loại tăng 0,53%, nhóm may mặc khác tăng 0,18%, nhóm mũ nón tăng 0,73%; nhóm giầy, dép tăng 0,1%. Nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên các cơ sở kinh doanh tăng nhẹ giá bán.
(4) Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,3%, giá dầu hỏa tăng 3,95% so với tháng trước; điện sinh hoạt tăng 1,97% là do trong tháng lượng điện tiêu dùng tăng làm cho giá bình quân tăng; nước sinh hoạt tăng 0,14% là do trong tháng nhu cầu tiêu dùng tăng làm cho giá bình quân tăng; nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,6%, trong đó vật liệu bảo dưỡng nhà chính tăng 0,55, vật liệu bảo dưỡng nhà khác tăng 0,66%, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng chi phí lưu thông tăng; nhóm nhà ở thuê tăng 0,28% là do có một hộ trước đây có giảm giá hỗ trợ ảnh hưởng dịch Covid-19 nay thu giá ổn định trở lại. Riêng chỉ số gas giảm 5,94%, giảm 31.000 đồng/bình 12kg từ ngày 01/5/2022.
(5) Chỉ số nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,2%, tăng chủ yếu là do máy điều hòa nhiệt độ tăng 2,26%, tủ lạnh tăng 2,1%, đồ điện tăng 1,55%, giường, tủ bàn, ghế tăng 0,44%, hàng dệt trong nhà tăng 0,9%. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng chi phí lưu thông tăng.
(6) Chỉ số nhóm giao thông tăng 2,78%, tác động chính là do nhóm nhiên liệu tăng 5,75%, là do trong tháng có đợt điều chỉnh giá xăng, dầu ngày 04/5/2022, ngày 11/5/2022 và ngày 23/5/2022, tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng tăng 5,92%, dầu diezel 0,05S-II tăng 4,0%.
(7) Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,19% là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 0,86%, trong đó hàng chăm sóc cơ thể tăng 1,31%; đồng hồ đeo tay tăng 2,38%; đồ trang sức tăng 1,2%, nguyên nhân là do tăng theo giá vàng.
- Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm
(1) Chỉ số nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,33% là do thiết bị điện thoại giảm 0,96%, trong đó máy điện thoại di động thông thường giảm 0,94%, máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 2,25%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động để kích cầu.
(2) Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,26% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 1,17%, trong đó ti vi màu giảm 1,22%, nguyên nhân chủ yếu là do giảm giá kích cầu.
- Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá không có biến động gồm: nhóm giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế.
8.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng tăng so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 5/2022 được bán với giá bình quân khoảng 6.645.000 đồng/chỉ, tăng 0,96% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 23.234 đồng/USD tăng 0,6%.
Chỉ số giá vàng tháng Năm năm 2022 tăng 0,96% so với tháng trước; tăng 25,02% so với cùng kỳ năm trước; tăng 14,79% so với tháng 12 năm trước.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng Năm năm 2022 tăng 0,6% so với tháng trước; tăng 0,35% so với cùng kỳ năm trước; tăng 1,0% so với tháng 12 năm trước.
9. Một số tình hình xã hội
9.1. Về y tế
a) Tình hình dịch bệnh trong tháng
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19): Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 2.915 ca mắc mới, giảm 17.021 ca so với tháng trước. Lũy tích tổng số ca mắc từ khi có dịch đến nay ghi nhận 30.951 ca mắc.
Tay - chân - miệng: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới, bằng so với tháng trước và giảm 19 ca so với tháng 4/2021. Lũy tích đến 30/4/2022, không có tử vong, ghi nhận 03 ca mắc tại huyện Đăk Hà, giảm 37 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 14 ca mắc mới (Đăk Tô 07, Tu Mơ Rông 02, Kon Plông 05), giảm 04 ca so với tháng trước, giảm 51 ca so với tháng 4/2021. Lũy tích đến 30/4/2022, không có tử vong, ghi nhận 75 ca, giảm 53 ca so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 03 ca mắc mới (Tu Mơ Rông), bằng so với tháng trước, giảm 02 so với tháng 4/2021. Lũy tích đến 30/4/2022, không có tử vong, ghi nhận 11 ca mắc, bằng so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 03 ca mắc mới (Đăk Hà), bằng so với tháng trước, giảm 07 ca so với tháng 4/2021. Lũy tích đến 30/4/2022, không có tử vong, ghi nhận 19 ca mắc mới, giảm 02 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt rét: Trong tháng, ghi nhận 01 ca mắc mới (Tu Mơ Rông), giảm 01ca so với tháng trước, tăng 01 ca so với 4/2021. Lũy tích đến 30/4/2022, không có ca tử vong, không có ca mắc sốt rét ác tính; ghi nhận 03 ca mắc (Tu Mơ Rông 01, Ia H’Drai 02), tăng 02 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong 4 tháng năm 2022, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), cúm A(H1N1), bệnh do vi rút Zika, viêm gan vi rút A, bạch hầu, dại, ho gà, sởi, viêm não Nhật Bản.
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 20 người, trong đó lao phổi AFB (+) 9. Không ghi nhận bệnh nhân phong mới; tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 163 người; quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia: Tổng số người bệnh phong (là trại viên) đang quản lý 56 người, số người bệnh cũ điều trị nội trú đầu tháng 14 người, số lượt người bệnh đến khám (kê đơn) trong tháng 45 lượt, số người nhập viện trong tháng 09 người, số người bệnh xuất viện trong tháng 07 người, số người bệnh hiện còn đang điều trị nội trú 15 người, số người bệnh tập vật lý trị liệu 12 người.
b) Tiêm chủng mở rộng: Triển khai các đợt tiêm nhắc và bổ sung của chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho người từ 18 tuổi trở lên và đợt 01 chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi. Kết quả đến 30/4/2022:
Tổng số đã tiêm đủ mũi 386.195 người; trong đó ≥ 18 tuổi 329.171 người, chiếm tỷ lệ 98,58%; 12 - 17 tuổi 57.024 người, chiếm tỷ lệ 96,23%.
Tổng số người chỉ mới tiêm 01 mũi 14.557 người; trong đó ≥ 18 tuổi 3.499 người, chiếm tỷ lệ 1,05%; 12 - 17 tuổi 3.021 người, chiếm tỷ lệ 5,1% ; 5 - dưới 12 tuổi 8.037 người, chiếm tỷ lệ 9,01%.
c) Phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng, không ghi nhận ca nhiễm HIV mới, 01 bệnh nhân chuyển điều trị (đi tỉnh khác). Lũy tích đến ngày 30/4/2022, tổng số nhiễm HIV/AIDS 548 người, trong đó tử vong 199 người và còn sống 349 người (quản lý được 191). Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 147 người (9 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 03 người.
d) Truyền thông, giáo dục sức khỏe: Sở Y tế phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực hiện 01 phóng sự tuyên truyền các biện pháp phòng chống sốt xuất huyết. Tổ chức 59 buổi truyền trực tiếp thông phòng chống sốt xuất huyết và tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi. Phối hợp với các Phòng giáo dục và Đào tạo các huyện tổ chức 15 buổi truyền thông nói chuyện chống sốt xuất huyết và tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.
e) An toàn vệ sinh thực phẩm: Ban Chỉ đạo liên ngành an toàn thực phẩm tỉnh tiếp và làm việc với Đoàn kiểm tra liên ngành Trung ương về an toàn thực phẩm và ban hành Kế hoạch số 927/KH-BCĐ ngày 04 tháng 4 năm 2022 triển khai “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2022 và tổ chức triển khai thực hiện (từ 15/4 đến ngày 15/5/2022).
Tiếp tục triển khai hoạt động truyền thông về an toàn thực phẩm tại các thôn, làng. Giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm phục vụ các hoạt động Diễn đàn “Du lịch Kon Tum – Tiềm năng và triển vọng” năm 2022; Hội thảo khoa học và Lễ kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh. Kiểm tra “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2022 kết hợp kiểm tra sản phẩm thực phẩm không bảo đảm an toàn thực phẩm theo Công văn số 888/SCT-QLCNKTATMT ngày 18 tháng 02 năm 2022 của Sở Công Thương.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 4 năm 2022 xảy ra 03 trường hợp ngộ độc thực phẩm do ăn uống không bảo đảm vệ sinh.
9.2. Về giáo dục
Sáng 14/5, Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Kon Tum tổ chức Lễ Tuyên dương, khen thưởng học sinh giỏi (HSG), giáo viên giỏi tiêu biểu năm học 2021-2022 và trao tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Trong năm học 2021 - 2022, ngành GD&ĐT tỉnh có 08 em học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia; 01 học sinh có dự án tham gia và đạt giải trong cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia; 01 học sinh đạt giải Cuộc thi "Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" năm 2021; 277 em học sinh được công nhận học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 9, 214 em học sinh được công nhận học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 12, 164 em được công nhận trong cuộc thi khoa học kĩ thuật cấp tỉnh; có 14 thầy cô giáo tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi đạt giải học sinh giỏi quốc gia và 07 cán bộ, giáo viên được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen.
Sáng 19/5/2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Khai mạc Hội thi “Thiếu nhi tuyên truyền, giới thiệu sách năm 2022” nhằm hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam (21/4), Ngày Sách và Bản quyền Thế giới (23/4). Tham gia Hội thi có 75 thí sinh đến từ các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở của 10 huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình Y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông gắn với y tế cơ sở giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Kon Tum[1]; Kế hoạch phổ cập giáo dục, xóa mù chữ trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2022-2025[2]; Kế hoạch thực hiện Chương trình phòng, chống tội phạm trong ngành Giáo dục tỉnh Kon Tum đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030[3].
9.3. Về văn hóa, thể dục thể thao
Tối 23/4, tại huyện Đăk Tô, Tỉnh ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh (24/4/1972-24/4/2022) và đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt di tích lịch sử Điểm cao 1015 và Điểm cao 1049. Nhân dịp này, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum vui mừng được đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử điểm cao 1015 và điểm cao 1049 thuộc huyện Sa Thầy và huyện Đăk Tô vào Di tích Quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh.
Sáng 23/4, tại Trung tâm Hành chính tỉnh (thành phố Kon Tum), Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch phối hợp cùng Công ty Cổ phần Sâm Ngọc Linh Kon Tum tổ chức Khai mạc Lễ hội khinh khí cầu, nhằm chào đón khách du lịch đến Kon Tum, kích cầu du lịch năm 2022 và chào mừng Diễn đàn “Du lịch Kon Tum - tiềm năng và triển vọng”. Lễ hội khinh khí cầu là sự kiện mới lạ, hấp dẫn, lần đầu tiên được tổ chức tại tỉnh nên thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách đến tham quan, chụp hình lưu niệm. Đây là sự kiện quan trọng góp phần khởi động, phát triển du lịch trong điều kiện bình thường mới, tạo ra sản phẩm du lịch mới, gia tăng lượng khách du lịch đến với Kon Tum.
Tối ngày 24/4/2022, UBND huyện Tu Mơ Rông tổ chức khai mạc "Phiên chợ sâm Ngọc Linh, các sản phẩm đặc hữu gắn với du lịch". Đây là lần đầu tiên tỉnh Kon Tum tổ chức phiên chợ này. Tại phiên chợ, có 46 gian hàng và 158 mặt hàng, 9 mặt hàng sâm củ và chiết xuất từ sâm củ của 38 đơn vị đến từ các doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc các xã của huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum và các tỉnh Nam Trà My (Quảng Nam), Đà Nẵng, Bình Dương. Hoạt động này mang thông điệp mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với trục xoay là rừng, sâm Ngọc Linh, dược liệu gắn với du lịch. Huyện đặt ra mục tiêu phát triển rừng để làm bàn đạp phát triển du lịch và dược liệu. Từ đó, đưa hình ảnh, con người và sản phẩm của Tu Mơ Rông đến gần hơn với người dân trong và ngoài tỉnh.
Tối 29/4, tại Hội trường trung tâm huyện (thị trấn Măng Đen), UBND huyện Kon Plông tổ chức Lễ Khai mạc các sự kiện Văn hóa - Du lịch huyện năm 2022 chào mừng Kỷ niệm 47 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2022) và ngày Quốc tế lao động (1/5). Dịp lễ 30/4-1/5 năm nay, UBND huyện Kon Plông tổ chức các sự kiện gồm: Hội thi Cồng chiêng - xoang các DTTS; Hội thi rượu cần; Ngày hội dùng thử sản phẩm đặc trưng, sản phẩm OCOP của huyện tại sảnh Hội trường trung tâm huyện và Quảng trường trung tâm huyện; đồng thời, tổ chức hoạt náo đường phố tại các một số điểm trên các tuyến đường chính ở thị trấn Măng Đen. Các sự kiện được tổ chức nhằm tạo không khí đoàn kết, vui tươi, phấn khởi; giới thiệu, quảng bá nét đẹp văn hóa truyền thống các dân tộc, các sản phẩm đặc trưng, sản phẩm OCOP cho du khách và người dân trên địa bàn huyện trong dịp Lễ 30/4 và 1/5.
Sáng 26/4, tại Khu liên hiệp thể thao Công an tỉnh Kon Tum, Liên đoàn Quần vợt Việt Nam và các đơn vị liên quan tổ chức Lễ khai mạc Giải Vô địch Quần vợt nam - nữ Quốc gia Cúp sâm Ngọc Linh Kon Tum K5 năm 2022 (VTF Masters 500 - 1 - Sam Ngoc Linh Kon Tum K5 Cup 2022). Đây là 1 trong 4 giải đấu quan trọng nhất trong hệ thống thi đấu môn Quần vợt cấp Quốc gia hàng năm. Tham dự giải lần này có sự góp mặt của hơn 100 vận động viên đến từ các Câu lạc bộ Quần vợt thuộc các tỉnh, thành phố: Hưng Thịnh TPHCM, Hải Đăng Tây Ninh, Hà Nội, Kiên Giang, Quân Đội, Bình Dương, Đồng Nai, CLB Quần vợt TPS Thành Phong, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Nước sạch Hải Dương, Kon Tum. Các vận động viên sẽ tranh tài ở 5 nội dung: đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ và đôi nam nữ.
Sáng 27/4, huyện Đăk Hà tổ chức Lễ khai mạc Đại hội TDTT lần thứ VII-2022. Đại hội TDTT lần này là dịp để cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học… huyện Đăk Hà đánh giá, tổng kết phong trào TDTT thời gian qua. Đại hội TDTT huyện Đăk Hà lần thứ VII - 2022 thi đấu 10 môn với sự tham gia của 700 vận động viên thuộc 18 cơ quan, đơn vị, địa phương.
Sáng 13/5, tại bể bơi Trung tâm Văn hóa - Thể thao Thanh thiếu nhi tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức khai mạc Giải bơi lội trong khuôn khổ các môn thi đấu tại Đại hội TDTT tỉnh Kon Tum lần thứ VII/2022. Tham gia giải có gần 40 vận động viên của các đơn vị Công an tỉnh, huyện Đăk Hà, Kon Rẫy, Ia H’Drai và thành phố Kon Tum.
9.4. Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương
Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm tiếp tục được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hoạt động của tội phạm theo băng, nhóm, tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” được đấu tranh, triệt xóa, không có băng, nhóm hoạt động phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, cụ thể:
Phạm tội về trật tự xã hội: Trong tháng, phát hiện 32 vụ (tăng 04 vụ so tháng trước), hậu quả, thiệt hại: 01 người chết; 04 người bị thương, mất một số tài sản khoảng 1.053 triệu đồng; thu giữ 01 khẩu súng, 33 súng thể thao.
Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Xảy ra 01 vụ Vận chuyển hàng cấm trên địa bàn huyện Ngọc Hồi (giảm 01 vụ so tháng trước).
Phạm tội về ma túy: Phát hiện 10 vụ (không tăng, giảm so tháng trước), gồm: Tàng trữ trái phép chất ma túy 05 vụ; Vận chuyển trái phép chất ma túy 01 vụ; Lôi kéo người khác sử dụng chất ma túy 01 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ 0,222g Heroin; 315,261g ma túy tổng hợp.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông làm 09 người chết (tăng 04 vụ, tăng 05 người chết, giảm 03 người bị thương so tháng trước). Thiệt hại về tài sản: 04 ô tô, 07 mô tô ước tính khoảng 105 triệu đồng.
Tình hình cháy, nổ, sự cố, tai nạn: Xảy ra 02 vụ cháy nhà dân (tăng 02 vụ so tháng trước). Nguyên nhân do sơ xuất trong việc sử dụng lửa 01 vụ, sự cố hệ thống điện 01 vụ. Thiệt hại: Làm 01 người chết, về tài sản ước tính khoảng 98 triệu đồng.
9.5. Tình hình môi trường
a) Vi phạm môi trường
Trong tháng không phát hiện vụ vi phạm môi trường.
b) Tình hình thiên tai
Diễn biến thiên tai: Theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai – tìm kiếm cứu nạn và phòng thủ dân sự tỉnh. Từ ngày 20/4/2022 đến ngày 19/5/2022 tỉnh Kon Tum bị ảnh hưởng mưa kèm theo giông sét và gây ra thiệt hại về người tại huyện Tu Mơ Rông.
Tình hình thiệt hại: Làm chết 01 người (nguyên nhân do lũ cuốn trôi), giảm 01 người so tháng trước. Tổng giá trị thiệt hại ước tính 150 triệu đồng. Lũy kế, đầu năm đến 19/5/2022 ước thiệt hại 150 triệu đồng, giảm so cùng kỳ năm trước 1.300 triệu đồng.
Trong tháng không ghi nhận thiệt hại về nhà ở, y tế, văn hóa, giáo dục, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thủy lợi.
[1] Kế hoạch số 1418/KH-UBND ngày 13/5/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum.
[2] Kế hoạch số 1324/KH-UBND ngày 06/5/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum.
[3] Kế hoạch số 1295/KH-UBND ngày 05/5/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum.
File đính kèm: BC_so_lieu_thang_5_(Kon_Tum).pdf
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum