Năm 2022 là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, dự báo sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của dịch bệnh, nhất là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và thiên tai đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân trong tỉnh. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2022. Ngay từ đầu năm 2022, tỉnh đã ban hành Quyết định số 25/QĐ-UBND ngày 14 tháng 01 năm 2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Hội đồng nhân dân tỉnh về kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2022. Trên tinh thần đó, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, tỉnh đã khẩn trương triển khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm theo chương trình, kế hoạch đề ra, đã tập trung xây dựng kế hoạch để thực hiện đồng bộ các giải pháp góp phần đưa Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội phát huy tác dụng, hiệu quả, tạo động lực đột phá để khôi phục và phát triển kinh tế sớm nhất. Qua đó, tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP (theo giá so sánh năm 2010) ước tính tăng 9,69%[1].
- Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm đạt 2.337 tỷ đồng, đạt 58,4% dự toán và tăng 55,1% so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 4.917 tỷ đồng, đạt 46,1% nhiệm vụ chi và tăng 33,59% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh ước đạt 10.358,89 tỷ đồng, tăng 17,96%.
- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 20,62%.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước đạt 16.622,21 tỷ đồng, tăng 38,54%.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,39% so với cùng kỳ năm trước.
1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 9,69% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng trưởng trên là rất quan trọng, thể hiện tỉnh chủ động, kịp thời, hiệu quả các giải pháp của Tỉnh Kon Tum trong thực hiện phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn.
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2022 (giá so sánh năm 2010) ước tính đạt 7.306,55 tỷ đồng, tăng 9,69% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 10,06%; quý II tăng 9,35%) cao hơn mức tăng 6,54% của cùng kỳ năm 2021. Trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản đạt 862,288 tỷ đồng, tăng 5,81%; Khu vực Công nghiệp và Xây dựng đạt 2.239,115 tỷ đồng, tăng 15,84%, trong đó Công nghiệp đạt 964,718 tỷ đồng, tăng 19,20%; Khu vực Dịch vụ đạt 3.567,476 tỷ đồng, tăng 7,25%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 637,672 tỷ đồng, tăng 8,65%. Có thể nói đây là mức độ tăng khá cao so với các năm gần đây, thể hiện đầy đủ và đúng xu hướng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.
Trong mức tăng trưởng chung 9,69% thì nhóm ngành nông, lâm, thủy sản đóng góp 0,71 điểm phần trăm; nhóm ngành công nghiệp, xây dựng đóng góp 4,6 điểm phần trăm, trong đó Công nghiệp đóng góp 2,33 điểm phần trăm; nhóm thương mại, dịch vụ đóng góp 3,62% và Thuế đóng góp 0,76 điểm phần trăm.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt đều có tốc độ tăng trưởng cao, cụ thể các khu vực như sau:
- Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 5,81% so với năm 2021, đóng góp 0,71 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP. Đây là khu vực ghi nhận tốc độ tăng đồng đều trong các quý do ít chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid -19. Dịch tả lợn Châu Phi cơ bản được kiểm soát. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng của một số cây lâu năm, chăn nuôi gia cầm và hoạt động thủy sản phát triển tốt, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu tăng khá nên tốc độ tăng của khu vực này đạt cao. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 tăng 6,43% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,68 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,39%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,94%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm.
- Khu vực Công nghiệp - Xây dựng có mức tăng khá cao, đạt 15,84% so với năm trước, đóng góp 4,6 điểm phần trăm vào mức tăng chung GRDP. Trong đó ngành công nghiệp tăng 19,20%, cao hơn mức tăng 2,44% của quý II năm 2022, đóng góp 2,56 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong mức tăng chung 19,20% của ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp Khai khoáng tăng 15,60% đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,47% đóng góp -0.40 điểm phần trăm; ngành công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước tăng 40,51% đóng góp 2,94 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải giảm 5,3% đóng góp -0,02 điểm phần trăm. Hoạt động xây dựng vẫn tiếp tục tăng trưởng khá giá trị tăng thêm ngành xây dựng 6 tháng đầu năm 2022 tăng 13,42%, đóng góp 2,48 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
- Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng khởi sắc khi nhiều hoạt động dịch vụ sôi động trở lại ước tính giá trị tăng thêm tăng 7,25% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 3,97 điểm % vào vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, cao hơn mức tăng 6,30% của cùng kỳ năm 2021. Đóng góp của một số ngành dịch vụ thị trường có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của 6 tháng năm 2022 như sau: Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy tăng 9,11% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,64 điểm phần trăm; Dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 31,54% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,95 điểm phần trăm; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,78% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,52 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
Quy mô Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2022 tính theo giá hiện hành ước tính đạt 12.736,6 tỷ đồng, trong đó: Khu vực I (Nông - Lâm - Thuỷ sản) đạt 1.442,65 tỷ đồng, chiếm 11,33%; khu vực II (Công nghiệp - Xây dựng) đạt 4.283,25 tỷ đồng, chiếm 33,63%; khu vực III (Dịch vụ) đạt 5.901,17 tỷ đồng, chiếm 46,33%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 1.109,52 tỷ đồng, chiếm 8,71%.
2. Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
a) Thu, chi ngân sách
- Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2022 được Hội đồng nhân dân tỉnh giao 4.000 tỷ đồng; thực hiện thu 05 tháng đầu năm là 2.016 tỷ đồng, đạt 50,4% dự toán, bằng 158,2% so với cùng kỳ năm trước; ước thực hiện thu 6 tháng đầu năm là 2.337 tỷ đồng, đạt 58,4% dự toán và tăng 55,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa đạt 2.171 tỷ đồng tăng 60,07%; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: ước đạt 166 tỷ đồng, tăng 10,22% .
Dự toán chi ngân sách địa phương năm 2022 được Hội đồng nhân dân tỉnh giao trên 8.597 tỷ đồng; nhiệm vụ chi năm 2021 còn tiếp tục chuyển nguồn sang năm 2022 là 2.011,5 tỷ đồng; nguồn trung ương bổ sung mục tiêu trong năm là 51,3 tỷ đồng. Nhiệm vụ chi ngân sách địa phương năm 2022 (tính cả chuyển nguồn và nguồn bổ sung trong năm) là 10.659,8 tỷ đồng. Thực hiện 05 tháng đầu năm được 3.496 tỷ đồng, đạt 32,8% nhiệm vụ chi, bằng 112% so cùng kỳ năm trước; Ước thực 6 tháng là 4.917 tỷ đồng, đạt 46,1% nhiệm vụ chi và tăng 33,59% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chi đầu tư phát triển là 1.896,23 tỷ đồng, tăng 39,65% so cùng kỳ năm trước; Chi thường xuyên ước thực hiện 2.574 tỷ đồng, tăng 11,17% so cùng kỳ năm trước.
b) Hoạt động ngân hàng
- Về thực hiện lãi suất huy động: Các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động. Mặt bằng lãi suất huy động tại các TCTD 6 tháng đầu năm 2022 tương đối ổn định. Theo đó, mức lãi suất phổ biến bằng VND đối với với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng từ 0,1-0,2%/năm; đối kỳ hạn dưới 6 tháng từ 3,1-4,0%/năm; đối với kỳ hạn từ 6 đến 12 tháng từ 4,0-5,8%/năm; đối với các kỳ hạn trên 12 tháng từ 5,5%-6,3%/năm. Lãi suất huy động bằng USD thực hiện theo mức quy định tối đa 0% đối với tiền gửi cá nhân và tổ chức.
- Về thực hiện lãi suất cho vay: Trong 6 tháng đầu năm 2022, mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục được duy trì ổn định. Lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường duy trì ở mức từ 7,0-10,5%/năm; cho vay trung và dài hạn ở mức từ 10-11%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm. Ngoài ra, một số ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi với nhiều gói tín dụng ưu tiên của mỗi hệ thống với mức lãi suất từ 5,5-6,5%/năm.
- Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn đến 30/6/2022 ước đạt 19.700 tỷ đồng tăng 5,5% (+ 1.019 tỷ đồng) so với thời điểm cuối năm 2021, tăng 1,4% (+ 270 tỷ đồng) so với tháng trước. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 3.300 tỷ đồng (chiếm 16,8% nguồn vốn huy động), giảm 45,2% so với thời điểm 31/12/202126. Phân theo loại tiền tệ, nguồn vốn huy động bằng tiền gửi VND ước đạt 19.260 tỷ đồng, chiếm 97,8% tổng nguồn vốn huy động; nguồn vốn huy động bằng tiền gửi ngoại tệ ước đạt 140 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 15.250 tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng nguồn vốn huy động, tăng 5,7% (+821 tỷ đồng) so với đầu năm, tiền gửi thanh toán ước đạt 4.150 tỷ đồng, chiếm 21,1% tổng nguồn vốn huy động, tăng 9,9% (+375 tỷ đồng) so với đầu năm. Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 300 tỷ đồng, chiếm 1,5% tổng nguồn vốn huy động.
Mặc dù, mức lãi suất huy động thấp sẽ gây khó khăn cho các TCTD trong công tác huy động vốn tại chỗ, tuy nhiên trong thời điểm nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, gửi tiền vào ngân hàng vẫn là kênh đầu tư hiệu quả và an toàn đối với đại đa số người dân, bên cạnh đó, trong 6 tháng đầu năm 2022, các TCTD trên địa bàn đã tích cực triển khai nhiều biện pháp như đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng nhân dịp sinh nhật khách hàng, ngày thành lập doanh nghiệp,...và nhiều chương trình khuyến mại để thu hút tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó, hoạt động huy động vốn đã có mức tăng trưởng khá tốt so với cùng kỳ năm trước và so với đầu năm, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng trên địa bàn, tuy nhiên, còn một số TCTD vẫn gặp khó khăn trong công tác huy động, tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động toàn địa bàn còn khá khiêm tốn với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên.
- Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ tín dụng toàn địa bàn ước tính đến 30/6/2022 đạt 41.100 tỷ đồng, so với đầu năm tăng 6,9% (+2.661 tỷ đồng), và tăng 16,7% so cùng năm trước. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 25.000 tỷ đồng, chiếm 60,8% tổng dư nợ; dư nợ trung dài hạn ước đạt 16.100 tỷ đồng, chiếm 39,2% tổng dư nợ. Cơ cấu tín dụng theo loại tiền tệ được duy trì tương đối ổn định, dư nợ cấp tín dụng bằng VND vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu, ước đạt 40.960 tỷ đồng, chiếm 99,7% tổng dư nợ, dư nợ bằng ngoại tệ không đáng kể.
3. Giá cả, lạm phát
3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2022 tăng 0,56% so với tháng trước; tăng 3,09% so với cùng tháng năm trước; tăng 2,52% so với tháng 12 năm trước; tăng 6,78% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 6 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,39%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 07 nhóm tăng là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69%; nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 0,09%; nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,47%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%; nhóm Giao thông tăng 3,7%; nhóm Giáo dục tăng 0,3%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,54%. Có 03 nhóm giảm là nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,38%; nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,24%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,76%. Có 01 nhóm không biến động giá là nhóm thuốc và dịch vụ y tế.
- Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
(1) Chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,69%, trong đó:
- Nhóm lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,3%
- Nhóm thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 0,59%; Nhóm thủy sản tươi sống giảm 2,24% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh giảm 2,72%; thủy, hải sản tươi sống khác giảm 2,93%; Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 3,54%; Nhóm quả tươi, chế biến tăng 0,94%; Nhóm đồ gia vị tăng 0,16%.
- Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 1,17%, trong đó ăn ngoài gia đình tăng 1,35%, uống ngoài gia đình tăng 0,68%, nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đầu vào tăng.
(2) Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09%, tác động tăng chủ yếu là do nhóm rượu bia tăng 0,19%, trong đó rượu các loại tăng 0,24%, bia các loại tăng 0,15%. Nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng chi phí lưu thông tăng.
(3) Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,47%, trong đó nhóm quần áo may sẵn tăng 0,52%, nhóm mũ nón tăng 0,59%; nhóm giầy, dép tăng 0,74%. Nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên các cơ sở kinh doanh tăng giá bán.
(4) Chỉ số nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,11%, tăng chủ yếu là do máy điều hòa nhiệt độ tăng 2,64%, tủ lạnh tăng 1,47%, đồ điện tăng 1,61%, giường, tủ bàn, ghế tăng 0,12%. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng và ảnh hưởng chi phí lưu thông tăng.
(5) Chỉ số nhóm giao thông tăng 3,7%, đây là nhóm tăng mạnh nhất trong các nhóm tăng, tác động chính là do nhóm nhiên liệu tăng 8,21%, do trong tháng có đợt điều chỉnh giá xăng, dầu ngày 01/6/2022, ngày 13/6/2022 và ngày 21/6/2022, tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng tăng 8,28%, dầu diezel 0,05S-II tăng 8,49%.
(6) Chỉ số nhóm giáo dục tăng 0,3% là do nhóm văn phòng phẩm tăng 1,34%, trong đó sản phẩm từ giấy tăng 2,47%, sách giáo khoa tăng 2,14%. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu mua sắm sách, vở cho học sinh chuẩn bị vào năm học mới tăng mạnh nên làm cho giá tăng theo quy luật cung cầu.
(7) Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,54% là do nhóm dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 2,09%, trong đó cắt tóc gội đầu tăng 2,13%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở dịch vụ tăng giá.
- Ba nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
(1) Chỉ số nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,76% là do thiết bị điện thoại giảm 2,2%, trong đó máy điện thoại di động thông thường giảm 2,37%, máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 0,89%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động để kích cầu.
(2) Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,24% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 1,84%, trong đó ti vi màu giảm 1,93%; Nhóm thiết bị dụng cụ thể thao giảm 0,75% do nhóm thiết bị thể dục thể thao giảm 2,47%. Nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá kích cầu.
(3) Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,38%, tác động chính là do giá gas 6,97% (giảm 31.000 đồng/bình 12kg từ ngày 1/6/2022). Điện sinh hoạt tăng 0,27% là do trong tháng lượng điện tiêu dùng tăng làm cho giá bình quân tăng; nước sinh hoạt tăng 0,13% là do trong tháng nhu cầu tiêu dùng tăng làm cho giá bình quân tăng.
- Một nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá không có biến động là các mặt hàng nhóm thuốc và dịch vụ y tế.
3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng giảm so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 6/2022 được bán với giá bình quân khoảng 6.576.000 đồng/chỉ, giảm 1,04% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 23.420 đồng/USD, tăng 0,8%.
Chỉ số giá vàng tháng Sáu năm 2022 giảm 1,04% so với tháng trước; tăng 21,49% so với cùng kỳ năm trước; tăng 13,59% so với tháng 12 năm trước.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng Sáu năm 2022 tăng 0,8% so với tháng trước; tăng 1,41% so với cùng kỳ năm trước; tăng 1,81% so với tháng 12 năm trước.
3.3. Chỉ số giá sản xuất (PPI)
Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II năm 2022 tăng 0,66% so với quý I/2022 và tăng 6,72% so với cùng kỳ năm trước. Từ đầu năm 2022 đến nay, việc lưu thông hàng hóa giữa các địa phương trên cả nước khá thuận lợi nên tình hình biến động giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên địa bàn tỉnh có một phần ảnh hưởng bởi sự biến động giá chung của một số mặt hàng trên cả nước và các tỉnh trong khu vực. Mặt khác, quý II năm 2022 giá nhiên liệu liên tục tăng cao đã ảnh hưởng tới tình hình diễn biến giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của một số nhóm hàng chính trong quý II năm 2022.
4. Đầu tư và xây dựng
Hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2022 cơ bản được duy trì ổn định, có sự tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 17,96 % so với cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 9,95% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt.
4.1. Vốn đầu tư
a) Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành quý II năm 2022 ước tính đạt 5.356,81 tỷ đồng, tăng 6,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước đạt 1.115,85 tỷ đồng, chiếm 20,83% và bằng 94,27%; Khu vực ngoài nhà nước đạt 4.236,82 tỷ đồng, chiếm 79,09% và tăng 9,95%; Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 4,15 tỷ đồng, chiếm 0,07% trong tổng nguồn vốn.
Ước tính 6 tháng đầu năm 2022 vốn đầu tư thực hiện theo giá hiện hành trên địa bàn tỉnh Kon Tum đạt 10.358,89 tỷ đồng, tăng 17,96% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn Nhà nước đạt 2.182,92 tỷ đồng, chiếm 21,08% và tăng 7,42%, trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước do trung ương quản lý đạt 656,64 tỷ đồng, nguồn vốn Nhà nước do địa phương quản lý đạt 1.526,28 tỷ đồng.
Nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực ngoài Nhà nước là 8.162,91 tỷ đồng tăng 21,01% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 78,8% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp đạt 4.680,41 tỷ đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 3.482,5 tỷ đồng chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, trồng trọt...
Nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 13,07 tỷ đồng, chiếm 0,13% trong tổng số nguồn vốn.
Xét theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư XDCB đạt 6.946 tỷ đồng, chiếm 67,05% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư mua sắm TSCĐ dùng cho sản xuất không qua XDCB đạt 2.218,7 tỷ đồng, chiếm 21,42% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư sửa chữa, nâng cấp TSCĐ đạt 704,32 tỷ đồng, chiếm 6,8% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động đạt 450,88 tỷ đồng, chiếm 4,38% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư khác đạt 39,01 tỷ đồng, chiếm 0,38%.
b) Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2022
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 1.069,96 tỷ đồng tăng 9,95% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm:
Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước là 791,07 tỷ đồng tăng 3,83% so với cùng kỳ và chiếm 73,93% trong tổng số nguồn vốn, Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách tỉnh là 322,48 tỷ đồng, chiếm 40,76%; Vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 401,49 tỷ đồng, chiếm 50,81%; Vốn ODA là 31,96 tỷ đồng, chiếm 4,04%; Vốn Xổ số kiến thiết đạt 12,6 tỷ đồng, chiếm 1,59%; Vốn khác đạt 22,08 tỷ đồng, chiếm 2,79% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh.
Vốn Ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 278,89 tỷ đồng, tăng 32,01% so với cùng kỳ và chiếm 26,07% trong tổng số nguồn vốn. Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách huyện đạt 196,19 tỷ đồng chiếm 70,34%; Vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 78,1 tỷ đồng, chiếm 28%; Vốn khác là 4,6 tỷ đồng, chiếm 1,65% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện.
Trong 6 tháng đầu năm 2022 nguồn vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cải tạo nâng cấp các tuyến đường giao thông, kiên cố hóa các kênh mương, công trình cấp nước sinh hoạt; công trình giáo dục; y tế… Tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng so với cùng kỳ năm trước là do Các Sở ban ngành trên địa bàn tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp tháo gở khó khăn đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư. Bên cạnh đó sau hơn 02 năm do ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19 đến nay tình hình dịch bệnh tại Tỉnh Kon Tum cơ bản được kiểm soát tốt nên các nhà đầu tư tiếp tục tăng cường vốn nên tổng vốn đầu tư tăng cao.
c) Thu hút đầu tư trong và ngoài nước
- Công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tiếp tục được chú trọng. Đã tổ chức xây dựng và chỉ đạo triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Tỉnh ủy về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung danh mục dự án thu hút đầu tư để phù hợp với nhu cầu phát triển của tỉnh. Xây dựng và triển khai chính thức Hệ thống giám sát, theo dõi quản lý tiến độ dự án đầu tư tỉnh Kon Tum. Bên cạnh đó, tỉnh đã chủ động tiếp xúc, kêu gọi, theo dõi, làm việc với nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư trên địa bàn tỉnh. Từ đầu năm đến nay, đã thu hút 15 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 1.362,6 tỷ đồng; trong đó, có 9 dự án tại khu công nghiệp, khu kinh tế với tổng vốn đăng ký gần 82,6 tỷ đồng, 6 dự án ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế với tổng vốn đăng ký 1.280 tỷ đồng; ngoài ra, một số nhà đầu tư, tập đoàn có tiềm lực như: Sun Group, Hùng Nhơn, Công ty CP Him Lam, Nutifood, ... đã đến khảo sát và tìm kiếm cơ hội đầu tư tại tỉnh.
4.2. Xây dựng
Trong 6 tháng đầu năm 2022, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư; Tỉnh đã chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình nhất là các công trình trọng điểm. Những tháng đầu năm, tranh thủ thời tiết thuận lợi các hộ dân cư cũng tiến hành khởi công xây dựng nhà ở, nhà hàng, nhà nghỉ…
Giá trị sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành ước tính đạt 8.240,1 tỷ đồng, tăng 27,67% so với cùng kỳ năm trước.
- Chia theo loại hình sở hữu: Doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 5.682,38 tỷ đồng, tăng 36,02% so với cùng kỳ năm trước; Các loại hình khác (Hộ dân cư và xã/phường/thị trấn) đạt 2.557,73 tỷ đồng, tăng 12,36% so với cùng kỳ năm trước.
- Chia theo loại công trình: Công trình nhà ở đạt 2.533,01 tỷ đồng, chiếm 30,74% trong tổng số và tăng 12,97% so với cùng kỳ năm trước; Công trình nhà không để ở đạt 421,19 tỷ đồng, chiếm 5,11% trong tổng số và tăng 31,11% so với cùng kỳ năm trước; Công trình kỹ thuật dân dụng đạt 5.126,20 tỷ đồng, chiếm 62,21% trong tổng số và tăng 33,67% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 159,67 tỷ đồng, chiếm 1,94% trong tổng số và tăng 187,30% so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm trước tập trung ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước. Trong 6 tháng đầu năm, các đơn vị hoạt động xây lắp tiếp tục triển khai thi công các công trình trọng điểm chuyển tiếp từ năm 2021 có vốn đầu tư cao như:
- Công trình kỹ thuật dân dụng: Dự án Điện gió Đăk Glei (vốn đầu tư 1.800 tỷ đồng), xây dựng cầu số 3 qua sông Đắk Bla, Đường trục chính phía Tây thành phố Kon Tum; Cải tạo, nâng cấp các đoạn xung yếu quốc lộ 24 tỉnh Kon Tum, các công trình đường GTNT ...; Sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên đường bộ Quốc lộ 14, 24, các tỉnh lộ... Công trình thủy điện: Thủy điện Đăk Diu, Thủy điện Plei kần hạ, xúc dọn lòng hồ thủy điện Plei Krông ...
- Xây dựng công trình nhà không để ở: Nhà thi đấu tổng hợp tỉnh Kon Tum, Hội trường Tỉnh ủy, các phòng họp và Trụ sở làm việc các cơ quan tham mưu giúp việc Tỉnh ủy, sửa chữa nhà làm việc Công an huyện Kon Rẫy ...
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
- Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cơ bản được duy trì. Trong 05 tháng đầu năm 2022, có 178 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký 3.416 tỷ đồng. Dự kiến đến hết tháng 6 năm 2022 có 195 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 62% kế hoạch và tăng 43% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 3.550 tỷ đồng, đạt 65% kế hoạch và giảm 10,7% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp giải thể là 33 doanh nghiệp, số doanh nghiệp hoạt động trở lại là 85 doanh nghiệp, bằng so với cùng kỳ năm ngoái; thành lập mới 17 hợp tác xã, đạt 56,7% kế hoạch, tăng 13,3% so với cùng kỳ.
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được triển khai thường xuyên; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, trồng cây xanh và đảm bảo an toàn thuỷ lợi cho sản xuất trong mùa mưa lũ gắn với phòng chống dịch bệnh. Ngành Nông nghiệp đã có nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nên năng suất các loại cây trồng đạt khá, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt.
6.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
(1) Kết quả sản xuất cây hàng năm vụ đông xuân 2021 - 2022
Tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ đông xuân 2021- 2022 ước đạt: 9.814,5 ha, tăng 2,79% (+ 266,45 ha) so với vụ đông xuân năm trước. Sản lượng lương thực có hạt đạt 39.521 tấn, tăng 3,38% (+1.291 tấn) so với vụ đông xuân năm trước. Cụ thể, diện tích, năng suất, sản lượng một số cây hàng năm chủ yếu vụ đông xuân 2021 - 2022 so với vụ đông xuân năm trước như sau:
Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt 8.002 ha, tăng 1,5% (+115,86 ha). Trong đó:
- DTGT cây lúa: 7.278 ha, tăng 2,16% (+153,79 ha). Năng suất lúa ước đạt 50,34 tạ/ha, tăng 1,27%; sản lượng lúa đạt 36.637 tấn, tăng 3,46% (+1.224 tấn).
- DTGT cây ngô: 725 ha, tăng 3,5% (+24,5 ha). Năng suất ngô ước đạt 39,82 tạ/ha, giảm 1,08%; sản lượng ngô đạt 2.885 tấn, tăng 2,39% (+68 tấn).
Diện tích gieo trồng cây lấy củ có chất bột đạt 40 ha, tăng 24,92% (+8 ha). Chủ yếu là DTGT khoai lang: 38 ha, tăng 28,87% (+9 ha). Năng suất ước đạt: 120,53 tạ/ha, tăng 12,44%; sản lượng đạt 452 tấn, tăng 44,9% (+140,05 tấn).
Cây có hạt chứa dầu, chủ yếu là DTGT cậy lạc: 30 ha, giảm 19,3% (-7,13 ha). Năng suất ước đạt: 16,3 tạ/ha, tăng 0,62%; sản lượng đạt 48,61 tấn.
Diện tích gieo trồng rau, đậu các loại và hoa các loại đạt 1.482,08 ha, tăng 2,38% (+34,49 ha). Trong đó:
- DTGT rau các loại: 1.306 ha, tăng 2,42% (+30,92 ha). Năng suất ước đạt: 133,05 tạ/ha, tăng 3,07%; sản lượng đạt 17.378 tấn, tăng 5,56% (+916,09 tấn).
- DTGT đậu các loại: 110 ha, tăng 3,58% (+3,81 ha). Năng suất ước đạt: 18,14 tạ/ha, giảm 3,39%; sản lượng đạt 200 tấn, tăng 0,06% (+0,12 tấn)
- DTGT hoa các loại: 65,65 ha, giảm 0,36% (-0,24 ha).
Diện tích gieo trồng cây hàng năm khác đạt 254,33 ha, tăng 23,74% (+48,8 ha). Trong đó:
- DTGT cây gia vị hàng năm: 42,44 ha, tăng 44,75% (+13,12 ha).
- DTGT cây dược liệu, hương liệu hàng năm: 57,64 ha, trong đó: DTGT cây sả là 40,44 ha.
- DTGT cây hàng năm khác còn lại: 154,25 ha, tăng 1,41% (+2,15 ha), trong đó: cỏ voi là 150,3 ha.
(2) Tình hình sản xuất cây hàng năm vụ mùa 2022
Tính đến ngày 15/6/2022 tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa năm 2022 trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 51.647 ha, tăng 9,35% ( +4.414,7 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích các loại cây trồng đều tăng, do năm nay thời tiết thuận lợi nên bà con tranh thủ xuống giống sớm.
- Cây lúa DTGT ước tính đạt 7.901 ha, tăng 8,03% (+587 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây lúa ruộng diện tích ước tính đã gieo cấy là 4.976 ha, tăng 9,1% (+416,5 ha); Cây lúa rẫy diện tích ước tính là 2.924,8 ha, tăng 6,2% (+170,5 ha).
- Cây ngô DTGT ước tính đạt 3.304 ha, tăng 11,98% (+353,4 ha).
- Cây sắn DTGT ước tính đạt 36.334 ha, tăng 7,33% (+2.481,8 ha).
- Cây khoai lang DTGT ước tính đạt 361 ha, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước (+266 ha). Diện tích tăng là do một số doanh nghiệp trồng xen khoai lang trên đất cao su.
- Cây lạc DTGT ước tính đạt 59 ha, tăng 5,92% (+3,3 ha).
- Rau các loại DTGT ước tính đạt 1.041 ha, tăng 2,87% (+29,1 ha).
- Đậu các loại DTGT ước tính đạt 202 ha, tăng 9,66% (+17,8 ha).
(3) Cây lâu năm
Ước đến thời điểm ngày 30/6/2022, tổng diện tích cây lâu năm trên địa bàn tỉnh đạt 116.933 ha, tăng 4,2% (+4.710 ha) so với năm trước. Trong đó:
Diện tích cây ăn quả ước tính 6.661 ha, tăng 73,81% (+2.829 ha) so với năm trước. Cây ăn quả có diện tích tăng cao so với năm trước là do các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại; đồng thời trong 6 tháng cuối năm 2021, thực hiện chủ trương của tỉnh về phát triển cây ăn quả trên địa bàn, ngành Nông nghiệp tỉnh đã tăng cường chỉ đạo các địa phương xây dựng kế hoạch, triển khai trồng mới các loại cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng trên địa bàn.
Diện tích cây cà phê ước tính 28.986 ha, tăng 2,4% (+670 ha) so với năm trước.
Diện tích cây cao su ước tính 76.826 ha, tăng 0,6% (+446 ha) so với năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm, cây cà phê chưa cho sản lượng thu hoạch. Đối với cây cao su sản lượng thu hoạch cũng không nhiều vì giai đoạn này cây thay lá nên ít khai thác được.
Các loại cây trồng chủ lực của tỉnh tiếp tục được chú trọng phát triển, đến nay, tổng diện tích cây Mắc ca khoảng 1.286 ha (trong đó, trồng mới 57,7 ha); Sâm Ngọc Linh khoảng 1.150 ha (trong đó, trồng mới 13,1ha). Mặc dù chưa đến mùa vụ gieo trồng nhưng do thời tiết thuận lợi nên trong quý II, đã thực hiện trồng mới các loại cây ăn quả, Mắc Ca, Sâm Ngọc Linh và các cây dược liệu khác. Bên cạnh đó, tỉnh đã chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện trồng mới các loại cây trồng, phấn đấu hoàn thành mục tiêu năm 2022 đã đề ra.
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh gặp tương đối khó khăn do liên tiếp các dịch bệnh nguy hiểm xuất hiện trên đàn vật nuôi. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của các cấp, ngành, địa phương và người dân, một số dịch bệnh đã được kiểm soát tốt. Bên cạnh đó, thông qua nhiều hình thức liên kết quy mô lớn và ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi đã giúp gia tăng số lượng và chất lượng gia súc, gia cầm.
(1) Tình hình chăn nuôi ước tính đến ngày 30/6/2022
Tổng đàn trâu 24.990 con, tăng 2% (+478 con) so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung đàn trâu trên toàn tỉnh ổn định về tổng đàn. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2022 là 381 tấn, tăng 1,93% (+7 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn bò 84.550 con, tăng 0,8% (+702 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2022 là 3.243 tấn, tăng 2,14% (+68 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân làm cho đàn bò tăng là do trong kỳ dịch bệnh ít xảy ra, giá cả thịt bò hơi ổn định, người chăn nuôi yên tâm đầu tư làm cho đàn bò tăng lên.
Tổng đàn lợn 155.421 con, tăng 5,25% (+7.749 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2022 là 11.088 tấn, tăng 5,11% ( +539 tấn ) so với cùng kỳ năm trước. Số lượng và sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng do trên địa bàn tỉnh dịch tả lợn châu phi có xảy ra nhưng với mức độ ít nghiêm trọng hơn so với cùng kỳ năm trước nên người dân tranh thủ tái đàn.
Tổng đàn gia cầm 1.851.920 con, tăng 6,7% (+116.840 con) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: đàn gà 1.613.760 con, tăng 7,2% (+108.080 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 2.705 tấn, tăng 8,44% (+211 tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 2.437 tấn, tăng 8,8% (+197 tấn). Số lượng và sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng tăng do dịch bệnh ít xảy ra, giá cả thịt gia cầm ổn định nên người chăn nuôi đầu tư tăng đàn.
(2) Tình hình dịch bệnh (tính từ ngày 16/5/2022 đến ngày 15/6/2022).
Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Trong tháng, đã phát sinh và tiêu hủy 116 con lợn mắc bệnh của 01 hộ chăn nuôi tại thôn 5, xã Tân Cảnh, huyện Đăk Tô, từ ngày 08/6/2022 đến nay, không phát sinh thêm gia súc mắc bệnh.
Bệnh Cúm gia cầm A/H5N1: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã phát sinh và tiêu hủy 1.452 con gà mắc bệnh cúm gia cầm do chủng vi rút độc lực cao A/H5N1 gây ra tại 01 hộ chăn nuôi thôn Hào Lý, xã Sa Loong huyện Ngọc Hồi, từ ngày 02/6/2022 đến nay, không phát sinh thêm gia cầm mắc bệnh, chết buộc tiêu hủy.
Các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác như bệnh lở mồm long móng, bệnh viêm da nổi cục ở trâu, bò, tai xanh... không phát sinh.
(3) Tình hình dịch bệnh trong 6 tháng đầu năm 2022
Trong 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn tỉnh đã phát sinh 10 ổ bệnh bệnh Dịch tả lợn Châu phi (DTLCP), 01 ổ bệnh Cúm gia cầm, 01 ổ bệnh Tụ huyết trùng (THT) ở trâu, bò, cụ thể như sau:
+ Bệnh DTLCP: đã phát sinh và tiêu hủy 209 con lợn mắc bệnh dịch tả lợn Châu phi tại 10 ổ dịch trên 05 huyện gồm: Ngọc Hồi, Sa Thầy, Kon Plông, Đăk Tô và Đăk Hà. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 02 ổ dịch DTLCP tại thị trấn Plei Kần - Ngọc Hồi và Ngọc Réo – Đăk Hà chưa qua 21 ngày.
+ Bệnh Cúm gia cầm: đã phát sinh và tiêu hủy 1.700 con gia cầm (600 con gà, 1.100 con vịt) mắc bệnh cúm gia cầm do chủng vi rút độc lực cao A/H5N1 gây ra trên đàn gia cầm của 01 hộ chăn nuôi tại phường Ngô Mây, thành phố Kon Tum. Ổ bênh đã được khống chế, dập tắt và không lây lan ra diện rộng.
+ Bệnh Tụ huyết trùng ở trâu, bò: đã xảy ra trên 08 con trâu của 03 hộ chăn nuôi tại thôn Kon Brẫy, thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông. Đơn vị đã hướng dẫn địa phương khoanh vùng, cách ly, điều trị cho gia súc mắc bệnh và chăm sóc dự phòng, tiêm phòng cho những con có nguy cơ nhiễm bệnh; sau một thời gian ngắn ổ dịch đã được khống chế và dập tắt.
+ Các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác như bệnh lở mồm long móng, bệnh viêm da nổi cục ở trâu, bò...: Trong 6 tháng đầu năm không phát sinh gia.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác trồng rừng, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững được chú trọng và đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng, vận chuyển lâm sản trái pháp luật và phòng cháy chữa cháy rừng tiếp tục được tăng cường.
Tháng 6 năm 2022, sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu thực hiện khâu lâm sinh, khai thác gỗ và củi. Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, được các cơ quan chức năng thường xuyên tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao ý thức trong công tác phòng chống cháy rừng, lấn chiếm rừng làm nương rẫy. Chuẩn bị sẵn sàng về nhân lực, phương tiện, dụng cụ để huy động nguồn lực tham gia chữa cháy rừng kịp thời, hạn chế thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng.
Tính đến ngày 15/6/2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 26 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 31,6 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Ước tính đến thời điểm 30/6/2022, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh là 84 ha, tăng 90,91% (+40 ha) so với cùng kỳ năm trước. Năm nay thời tiết thuận lợi nên diện tích rừng trồng mới tăng.
Công tác khai thác lâm sản: Ước tính đến thời điểm 30/6/2022, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 65.207 m3, tăng 0,85% (+549 m3) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác là 130.100 ster, tăng 2,36% (+2.996 ster) so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Thuỷ sản
Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
Ước tính đến 30/6/2022, diện tích nuôi trồng thủy sản là 775,8 ha, tăng 7,3% (+56,6 ha), so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 tỉnh Kon Tum đạt 3.045 tấn, tăng 7,33% (+208 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 1.035 tấn, tăng 6,37% (+62 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 2.010 tấn, tăng 7,83% (+146 tấn) so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong 6 tháng đầu năm của tất cả các loại điều tăng. Cụ thể sản lượng một số loại thuỷ sản nuôi trồng trên địa bàn tỉnh tăng như sau:
- Cá rô phi sản lượng là 498 tấn, tăng 2,3% (+11 tấn).
- Cá diêu hồng sản lượng là 245 tấn, tăng 2,9% (+7 tấn).
- Cá quả (cá lóc, cá sộp, cá chuối, cá tràu, cá trõn, cá đô) 155 tấn, tăng 4,7% (+7 tấn).
- Các loại cá khác là 141 tấn, tăng gấp 2 lần (+75 tấn).
Nhìn chung sản lượng thủy sản trong kỳ tăng chủ yếu do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, diện tích nuôi trồng tăng do các đơn vị khoanh nuôi tại các hồ, đập thuỷ điện, thuỷ lợi. Bên cạnh đó sản lượng khai thác, đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối cũng tăng so với cùng kỳ năm trước.
7. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong tháng Sáu, hoạt động sản xuất kinh doanh từng bước được khôi phục trong trạng thái bình thường mới. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 6 ước tính tăng 16,6 % so với cùng kỳ năm trước; Sản xuất công nghiệp trong quý II/2022 tăng trưởng khá do hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và đang dần phục hồi, chỉ số IIP tăng 10,17% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số IIP ước tính tăng 20,62% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 9,87%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 38,69%; ngành chế biến, chế tạo giảm 7,42%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải giảm 5,32%.
7.1. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 6 năm 2022 ước tính tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện tăng (+26,92%); ngành công nghiệp khai khoáng giảm 0,22%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,56% chủ yếu do sản lượng tinh bột sắn của các nhà máy giảm thấp; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,45%.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý II năm 2022 ước tính tăng 10,17% so cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện tăng (+19,03%); ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,60%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,94%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sản xuất giảm chủ yếu ở ngành sản xuất chế biến thực phẩm và ngành sản xuất hóa chất (sản phẩm cồn sinh học); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 6,94%...
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 20,62% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 9,87%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,42%, trong đó giảm chủ yếu ở ngành sản xuất đường và tinh bột sắn, nguyên nhân chủ yếu do thiếu hụt nguyên liệu sản xuất; Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 38,69%, chỉ số ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao so cùng kỳ do một số nhà máy thủy điện trên địa bàn tỉnh mới xây dựng hoàn thành và đưa vào vận hành ổn định, một mặt 6 tháng đầu năm 2022 thời tiết trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn, hiện tại lượng nước trên các hồ chứa vẫn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động hết công suất nên sản lượng điện tăng cao; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 5,32% với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 38,69%; Khai khoáng khác tăng 9,87%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,15%;Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,67%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 3,08%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 0,92%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 0,05%. Ở chiều ngược lại, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,57%; Sản xuất trang phục giảm 8,21%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 7,56%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 18,31%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 2,86%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 6,02%; Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu giảm 7,64%.
Một số sản phẩm chủ yếu sản xuất quý II năm 2022 ước tính so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 94.664 m3, tăng 5,16%; Tinh bột sắn sản lượng 29.942 tấn, giảm 2,78%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 48,56 triệu viên, tăng 0,13%; điện sản xuất 610,9 triệu Kwh, tăng 20,02%.
2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất 6 tháng đầu năm 2022 ước tính so với cùng kỳ năm trước như sau:
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất 1.275,5 triệu Kwh, tăng 40,82%. Đá xây dựng khai thác 176.638,4 m3, tăng 12,83%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 82,04 triệu viên, tăng 6,2%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.085 tấn, tăng 10,15%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Tinh bột sắn ước tính sản xuất 104.688 tấn, giảm 11,73%; Đường RE 7.188 tấn, giảm 14,18%; Cồn béo công nghiệp đạt 4.490 tấn, giảm 19,61%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 103.419 chiếc, giảm 10,42%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 44.681 chiếc, giảm 8,43%.
7.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Sáu ước tính tăng 0,08% so với tháng trước và giảm 0,33% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,45% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 6,13%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,36%. Chia theo ngành kinh tế, trong 6 tháng đầu năm, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng giảm 5,84%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 27,58%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí nước giảm 14,54%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 15,53% so với cùng kỳ năm trước.
7.4. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2022 giảm 5,23% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số tiêu thụ tháng 6 giảm chủ yếu do sản phẩm sản xuất ở hầu hết các nhóm ngành công nghiệp chế biến giảm; Trong đó giảm nhiều nhất ở các sản nhóm ngành chế biến thực phẩm, sản xuất cồn, sản xuất bàn ghế.
7.5. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đến thời điểm 31/6/2022 giảm 21,87% so với cùng thời điểm năm trước; qua đó đánh giá chung được tình hình tiêu thụ sản phẩm sản xuất vẫn ổn định trong các tháng đầu năm 2022. Sang quý II hoạt động xuất khẩu các mặt hàng như tinh bột sắn, cồn sinh học, bàn, ghế tương đối thuận lợi nên chỉ số tồn kho các sản phẩm này giảm.
7.6. Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo quý II năm 2022
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2022 cho thấy: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý II nhìn chung thuận lợi hơn so quý trước, với 43,75% đơn vị có đánh giá tốt hơn; 46,88% đánh giá giữ nguyên và chỉ có 9,38% đơn vị đánh giá tình hình có khó khăn hơn so quý trước. Trong đó các đơn vị đánh giá khó khăn hơn chủ yếu ở ngành sản xuất thực phẩm. Trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất sẽ tốt hơn, cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất tốt hơn tăng lên và chiếm đến 53,13%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 40,63%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất khó khăn hơn giảm còn 6,25%, các doanh nghiệp này cũng chủ yếu ở các ngành sản xuất thực phẩm.
Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong 6 tháng đầu năm năm 2022 hoạt động ổn định; một số nhóm ngành có chỉ số sản xuất tăng cao như ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và ngành sản xuất, phân phối điện. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sản xuất giảm so cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do ngành sản xuất chế biến tinh bột sắn, xuất cồn gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và khan hiếm nguồn nguyên liệu, sản lượng sản phẩm của 2 ngành này giảm nhiều.
8. Thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng trong tháng Sáu có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát, nhu cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại; Các doanh nghiệp đã sẵn sàng thích ứng an toàn với dịch Covid-19, linh hoạt trong hoạt động để sản xuất kinh doanh, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành phục hồi mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước, đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 2.688,08 tỷ đồng, tăng 1,63% so với tháng trước và tăng 37,16% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, ước tính đạt 16.622,21 tỷ đồng, tăng 38,54% so với cùng kỳ năm trước.
8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tháng 6 năm 2022 đạt 2.688,08 tỷ đồng, tăng 1,63% so với tháng trước và tăng 37,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.338,46 tỷ đồng, chiếm 86,99% trong tổng số, tăng 1,89% so với tháng trước và tăng 37,59% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 224,79 tỷ đồng, chiếm 8,36% trong tổng số, giảm 0,13% so với tháng trước và tăng 43,72% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 124,82 tỷ đồng, chiếm 4,64% trong tổng số, tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 20,31% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính quý II năm 2022 đạt 8.196,41 tỷ đồng, giảm 2,72% so với quý I năm 2022 và tăng 38,14% cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 7.102,69 tỷ đồng, chiếm 86,63% trong tổng số, giảm 2,84% so với quý I năm 2022 và tăng 39,64 so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 668,63 tỷ đồng, chiếm 8,17% trong tổng số, giảm 1,07% so với quý I năm 2022 và tăng 41,18% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 425,07 tỷ đồng, chiếm 5,2% trong tổng số, giảm 3,24% so với quý I năm 2022 và tăng 34,96% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính đạt 16.622,21 tỷ đồng, tăng 38,54% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 14.413,35 tỷ đồng, chiếm 86,71% trong tổng số, tăng 40,39% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 49,92%; hàng may mặc tăng 28,59%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 29,01%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 18,55%; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 45,56%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 27,72%; Xăng, dầu các loại tăng 236,08%; Hàng hoá khác tăng 19,07%; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ, tăng 38,62%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.344,47 tỷ đồng, chiếm 8,09% trong tổng số và tăng 35,89%.
Doanh thu dịch vụ khác đạt 864,39 tỷ đồng, chiếm 5,2% trong tổng số, tăng 16,44% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng Sáu năm 2022 tăng so với tháng 5 năm 2022 là do: giá xăng dầu trên thị trường tăng, gây sức ép lớn về chi phí vận chuyển, sản xuất cho các doanh nghiệp, làm tăng chi phí sản xuất các mặt hàng sử dụng xăng dầu làm đầu vào cho sản xuất, từ đó kéo theo giá cả một số mặt hàng tăng. Tính chung 6 tháng tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính tăng là do hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng trong 6 tháng có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát, cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại; Các doanh nghiệp đã sẵn sàng thích ứng an toàn với dịch Covid-19, linh hoạt trong hoạt động để sản xuất kinh doanh, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành phục hồi mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước, đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19.
8.2. Vận tải
Diễn biến của dịch Covid-19 đã được kiểm soát, người dân không còn lo ngại lây nhiễm dịch bệnh nên việc đi lại tăng mạnh, tháng Sáu là thời gian học sinh nghỉ hè nhu cầu đi lại về thăm quê và đi du lịch của người dân tăng. Hoạt động vận tải tháng Sáu tiếp tục tăng so với tháng trước, với mức tăng 50,01% về lượng hành khách vận chuyển và 51,38% về lượng hàng hóa vận chuyển. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, vận chuyển hành khách giảm 13,33% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách giảm 12,54% và vận chuyển hàng hóa tăng 19,64%, luân chuyển hàng hóa tăng 17,92%.
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 6 năm 2022 đạt 177.103 triệu đồng, tăng 1,63% so với tháng trước và tăng 63,79% so cùng kỳ năm trước; quý II ước đạt 530.989 triệu đồng, tăng 27,33% so cùng kỳ năm trước.
Tính chung 6 tháng đầu năm doanh thu vận tải, kho bãi ước tính đạt 1.050.246 triệu đồng, tăng 13,91% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó doanh thu vận tải hành khách đạt 262.633 triệu đồng, giảm 11,36% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hành hoá đạt 782.454 triệu đồng, tăng 25,96% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 5.159 triệu đồng, tăng 13,97% so với cùng kỳ năm trước.
Hành khách vận chuyển trong tháng 6 ước đạt 789 nghìn lượt khách, tăng 50,01% so với cùng năm trước; hành khách luân chuyển ước đạt 104.062 nghìn lượt khách.km, tăng 52,4% so với cùng năm trước; Hành khách vận chuyển trong quý II ước đạt 2.335 nghìn lượt khách, tăng 0,27% so với cùng năm trước; hành khách luân chuyển ước đạt 308.776 nghìn lượt khách.km, giảm 1,3% so với quý trước và tăng 2,63% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 hành khách vận chuyển ước đạt 4.781 nghìn lượt khách, giảm 13,33% so với cùng kỳ năm trước; hành khách luân chuyển ước đạt 621.612 nghìn lượt khách.km, giảm 12,54% so với cùng kỳ năm trước.
Hàng hoá vận chuyển trong tháng 6 ước đạt 1.357 nghìn tấn, tăng 51,38% so với cùng kỳ năm trước; hàng hoá luân chuyển ước đạt 68.689 nghìn tấn.km, tăng 48,6% so với cùng kỳ năm trước. Hàng hoá vận chuyển trong quý II ước đạt 4.150 nghìn tấn, tăng 26,77% so với cùng kỳ năm trước; hàng hoá luân chuyển ước đạt 209.133 nghìn tấn.km, tăng 25,04% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 hàng hoá vận chuyển ước đạt 8.375 nghìn tấn, tăng 19,64% so với cùng kỳ năm trước; hàng hoá luân chuyển ước đạt 418.871 nghìn tấn.km, tăng 17,92% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với cùng kỳ trước, một mặt là do tình hình dịch Covid-19 đã ổn định nên hoạt động vận chuyển hành khách trở lại hoạt động bình thường, nhu cầu đi lại của người dân tăng, tháng 6 là thời gian học sinh nghỉ hè nên nhu cầu đi lại về thăm quê và đi du lịch của người dân tăng. Mặc khác là do tháng 6 năm 2021 ảnh hưởng dịch Covid-19 hoạt động vận tải hành khách giảm mạnh.
Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng là do một số cơ sở kinh doanh vận tải hàng hóa đầu tư trang bị thêm các dòng xe mới có trọng tải lớn và hoạt động vận chuyển hàng hóa phục vụ ngành xây dựng tăng.
9. Thông tin về tình hình kinh tế thế giới [2]
Tại thời điểm tháng 6/2022, kinh tế toàn cầu trong năm 2022 được dự báo giảm so với các dự báo đưa ra trước đó. Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định sau hơn hai năm đại dịch cùng với tác động lan tỏa từ cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na hoạt động kinh tế toàn cầu giảm mạnh, dự kiến chỉ đạt 2,9% năm 2022, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 01/2022. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022 ở mức 3,6%, thấp hơn 0,8 điểm phần trăm so với dự báo tháng 01/2022. Tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo sẽ chậm lại và chỉ đạt mức 3%, thấp hơn 1,5 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 12/2021. Theo Liên hợp quốc, nền kinh tế toàn cầu hiện được dự báo chỉ tăng trưởng 3,1% vào năm 2022, đánh dấu mức điều chỉnh giảm 0,9 điểm phần trăm so với dự báo được công bố vào tháng 01/2022. WB điều chỉnh giảm tăng trưởng của một số nền kinh tế chủ chốt trên thế giới. Theo đó, tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2022 dự báo đạt 2,5%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 01/2022; Khu vực đồng Euro chỉ đạt 2,5%, giảm 1,7 điểm phần trăm; Nhật Bản đạt 1,7%, giảm 1,2 điểm phần trăm; Trung Quốc đạt 4,3%, giảm 0,8 điểm phần trăm. Trong khu vực Đông Nam Á, Ngân hàng Phát triển châu Á nhận định tăng trưởng năm 2022 của In-đô-nê-xi-a đạt 5,0%, Phi-li-pin đạt 6,0%, Thái Lan đạt 3,0%, Xin-ga-po đạt 4,3%, Ma-lai-xi-a đạt 6,0% và Việt Nam đạt cao nhất ở mức 6,5%.
10. Các vấn đề xã hội
10.1. Dân số, lao động và việc làm
Ước tính dân số đến 30/6/2022 của tỉnh Kon Tum là 581.052 người, tăng 2,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó thành thị 188.877 người, chiếm 32,51% so với tổng số, tăng 1,94%; dân số nông thôn 392.175 người, chiếm 67,49% so với tổng số, tăng 2,26%.
Tổng số người từ 15 tuổi trở lên của tỉnh Kon Tum ước tính đến cuối quý II năm 2022 là 395.115 người, trong đó: nữ 195.066 người, chiếm 49,37%; khu vực thành thị là 135.278 người, chiếm 34,26% trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên.
Lực lượng lao động của tỉnh trong những năm qua tăng cả về quy mô và chất lượng. Ước tính đến cuối quý II năm 2022, toàn tỉnh có 325.203 người thuộc lực lượng lao động, trong đó lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị là 100.991 người chiếm 31,05%, khu vực nông thôn là 224.212 người chiếm 68,95% lực lượng lao động; Tỷ lệ nam tham gia lực lượng lao động chiếm 51,79% (168.430 người) và tỷ lệ này ở nữ là 48,21% (156.773 người).
Trong tổng số lực lượng lao động trên toàn tỉnh, số lao động có việc làm là 323.012 người, chiếm 99,33% trong lực lượng lao động trên toàn tỉnh. Trong đó, lao động có việc làm ở khu vực nông thôn chiếm phần lớn, với 223.487 người chiếm 69,19% (do dân số ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 2/3 dân số trên toàn tỉnh).
Số người thất nghiệp ước tính đến cuối quý II năm 2022 là 2.191 người, tỷ lệ thất nghiệp là 0,67% trong tổng số lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh, giảm 0,45% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nữ có 1.322 người, chiếm tỷ lệ 60,31% trong tổng số người thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ là 0,84%, giảm 0,66% so với quý II năm 2021 và cao hơn tỷ lệ thất nghiệp của nam 0,33% (0,84% so với 0,52%). Khu vực thành thị có số người thất nghiệp tương đối cao 1.467 người, tỷ lệ thất nghiệp là 1,45%, khu vực nông thôn có tỷ lệ thất nghiệp là 0,32% (724 người).
10.2. Tình hình đời sống dân cư
a) Tình hình đời sống cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động
(1) Đời sống cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, người lao động
Nhìn chung, 6 tháng đầu năm 2022 tình hình đời sống cán bộ, công chức, viên chức ổn định. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp hoạt động bình thường trở lại đã tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho công nhân và người lao động hưởng lương trên địa bàn tỉnh. Trong điều kiện hoạt động sản xuất, kinh doanh còn khó khăn nhưng các doanh nghiệp đã chi trả đủ tiền lương năm 2021 cho người lao động và hầu hết đều thưởng Tết cho công nhân, người lao động với mức cao nhất là 20 triệu đồng/người, thấp nhất là 200.000 đồng/người.
Hoạt động hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 tiếp tục được các ngành, địa phương quan tâm triển khai; qua đó đã thực hiện hỗ trợ cho 880 doanh nghiệp (với 16.108 lao động) với tổng kinh phí hỗ trợ trên 5.395,5 triệu đồng.
Những tác động từ dịch Covid-19 đã ảnh hưởng cục bộ đến đời sống và thu nhập của một bộ phận người lao động trong một số ngành, lĩnh vực hoạt động kinh tế, nhưng theo đánh giá chung đời sống cán bộ, công chức,viên chức, công nhân người lao động hưởng lương mức độ ảnh hưởng là không lớn; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức thấp.
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh[3]; triển khai, thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về tiếp tục thí điểm thực hiện đưa người lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc theo hình thức hợp tác giữa các địa phương của hai nước.
(2) Giải quyết việc làm
Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm tiếp tục được duy trì. Lũy kế trong 5 tháng đầu năm, số lượt người được tư vấn tìm việc làm, học nghề, xuất khẩu lao động là 1.185/2000 người, đạt 59,25% kế hoạch. Ngoài ra, đã tạo việc làm thông qua nguồn vốn vay Quỹ quốc gia về việc làm đến nay là 1.940 người; lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng là 19 người[4]. Hoạt động hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 tiếp tục được các ngành, địa phương quan tâm triển khai; qua đó đã thực hiện hỗ trợ cho 880 doanh nghiệp (với 16.108 lao động) với tổng kinh phí hỗ trợ trên 5.395,5 triệu đồng, phê duyệt hỗ trợ cho 174 hộ kinh doanh và 5.122 đối tượng với tổng kinh phí phê duyệt 6.538,8 triệu đồng.
Thẩm định 04 hồ sơ nội quy lao động[5] và 03 hồ sơ thỏa ước lao động tập thể[6] của doanh nghiệp. Hướng dẫn 12 lao động hoàn thiện hồ sơ đăng ký dự tuyển tham gia làm việc tại Hàn Quốc; thẩm định và trả 02 hồ sơ đề nghị gia hạn giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài của Công ty CP Thủy điện Đăk Psi 6; thẩm định 05 hồ sơ doanh nghiệp tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó thống nhất cho 02 doanh nghiệp triển khai. Cấp 01 Giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động tại Công ty Cổ phần XNK Trùng Việt; Cấp 01 Giấy phép lao động nước ngoài làm việc tại Công ty TNHH Biophap[7].
b) Tình hình đời sống nông dân tại địa phương
Tình hình kinh tế - xã hội của các xã đạt chuẩn nông thôn mới ngày càng khởi sắc và theo hướng phát triển bền vững, giá trị sản lượng nông nghiệp của toàn tỉnh liên tục tăng, chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, nhiều sản phẩm nông nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận người dân thuộc khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh dần được cải thiện đáng kể. Song, kinh tế ở nông thôn vẫn là khu vực chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính chất của nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự cung tự cấp, nguồn lực lao động, tài nguyên khai thác, sử dụng còn hạn chế. Thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với khu vực thành thị, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi hộ nghèo, nhưng thực tế thu nhập chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo không đáng kể.
Hiện nay, các loại cây trồng vụ đông xuân 2021-2022 đã thu hoạch xong, các địa phương đang rà soát, đánh giá năng suất, sản lượng các loại cây trồng; các cây trồng chủ lực của tỉnh hiện đã có diện tích trồng mới theo tiến độ thời vụ; phòng chống tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được thực hiện tốt; tình hình sâu bệnh hại trên cây trồng được kiểm soát hiệu quả; Chuẩn bị nguồn giống đảm bảo số lượng và chất lượng cho sản xuất; Kiểm tra hệ thống thủy lợi, củng cố, cải tạo thủy lợi nội đồng để chủ động tích trữ nước, ứng phó với tình hình khô hạn, lũ lụt.
Công tác đào tạo nghề được quan tâm, đặc biệt là công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được triển khai đúng hướng, phù hợp với nhu cầu tạo nguồn lao động cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần quan trọng vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục duy trì đào tạo các lớp trung cấp nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, theo Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, với mục tiêu đào tạo phải gắn với quy hoạch sản xuất, quy hoạch xây dựng nông thôn mới và phải gắn với nhu cầu của nhà tuyển dụng. Ngoài ra, thông qua công tác tư vấn giới thiệu việc làm người lao động được giới thiệu đến làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
c) An sinh xã hội
(1) Công tác giảm nghèo
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững là chủ trương lớn của Đảng, là nhiệm vụ trọng tâm vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài của cả hệ thống chính trị và Nhân dân nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của các hộ nghèo, tạo cho hộ nghèo có cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Đã triển khai thực hiện đầy đủ kịp thời các chính sách, dự án cho hộ nghèo, hộ cận nghèo thực hiện đầy đủ chính sách cứu trợ xã hội (cứu trợ thường xuyên, cứu trợ đột xuất) cho các đối tượng đủ điều kiện, bảo đảm an sinh xã hội, không có người dân nào bị đói, rét. Triển khai lồng ghép thực hiện các chính sách, dự án của Đề án giảm nghèo tỉnh Kon Tum.
Qua kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2021, cụ thể:
* Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ, số hộ thoát nghèo là 5.838 hộ; hộ nghèo có 9.072 hộ, chiếm tỷ lệ 6,32% so với tổng số hộ dân toàn tỉnh, trong đó có 8.635 hộ nghèo dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 11,42% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số toàn tỉnh; hộ cận nghèo có 7.876 hộ, chiếm tỷ lệ 5,49% so với tổng số hộ dân toàn tỉnh, trong đó có 7.077 hộ cận nghèo dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 9,36% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số toàn tỉnh.
* Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ: hộ nghèo có 21.989 hộ, chiếm tỷ lệ 15,32% so với tổng số hộ dân toàn tỉnh, trong đó có 20.817 hộ nghèo dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 94,67% so với tổng số hộ nghèo. Hộ cận nghèo có 9.091 hộ, chiếm tỷ lệ 6,33% so với tổng số hộ dân toàn tỉnh. Tổng số hộ nghèo chung là 14.601 hộ (tỷ lệ 10,29%), số hộ thoát nghèo năm 2021 là 5.493 hộ (giảm 3,97%).
Dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022, từ nguồn ngân sách trung ương, cấp tỉnh và các nguồn xã hội hóa khác đã hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là 15.922 triệu đồng (trong đó hộ nghèo là 13.194 triệu đồng; hộ cận nghèo là 2.728 triệu đồng).
+ Ủy ban nhân dân tỉnh đã cấp 13.194 triệu đồng (trong đó: từ nguồn hỗ trợ người thuộc hộ nghèo đã bố trí dự toán năm 2022 số tiền 7.000 triệu đồng[8], nguồn tăng thu, tiết kiệm chi năm 2021 số tiền 6.194 triệu đồng) cho các huyện, thành phố để thực hiện chi hỗ trợ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh đón tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022; đồng thời chỉ đạo Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố chủ động phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp và các tổ chức Hội, đoàn thể huy động, tiếp nhận, phân bổ các nguồn tài trợ, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân trong, ngoài tỉnh (qua “Quỹ vì người nghèo” cấp huyện, thành phố; qua các đơn vị tiếp nhận tài trợ theo yêu cầu của Nhà tài trợ) và cân đối bố trí nguồn ngân sách huyện, thành phố để hỗ trợ cho 9.091 hộ cận nghèo đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022[9] với số tiền 2.728 triệu đồng.
+ Mức hỗ trợ: Hộ nghèo 600.000 đồng/hộ; Hộ cận nghèo là 300.000 đồng/hộ (Theo quy định tại Nghị quyết số 73/NQ-HĐND, ngày 14/12/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Kon Tum). Ngoài ra, Quỹ Thiện Tâm đã hỗ trợ 1.000 suất quà, mức 600.000 ngàn đồng/hộ (bằng tiền mặt) để hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn 02 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP (huyện Tu Mơ Rông và huyện Kon Plong) mỗi huyện 500 suất, tổng kinh phí hỗ trợ 600 triệu đồng.
(2) Bảo trợ xã hội
Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được quan tâm, thực hiện đầy đủ, kịp thời; Các cơ quan, đơn vị, địa phương đã quan tâm, tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho người nghèo, gia đình chính sách, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn …, cụ thể như sau:
- Chi trả trợ cấp thường xuyên: Chi trả kịp thời cho 13.051 đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng chính sách trên địa bàn tỉnh, với kinh phí thực hiện chi trả là hơn 79 tỷ đồng/năm. Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã kịp chi trả trợ cấp thường xuyên cho đối tượng bảo trợ xã hội kịp thời, phù hợp tình hình dịch Covid-19, chi gộp 02 tháng/01 lần[10]. Tổ chức đi thăm các đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh với số tiền và mức quà cụ thể[11].
- Công tác hỗ trợ cứu rét: UBND huyện Tu Mơ Rông đã chủ động suất nguồn ngân sách đảm bảo của huyện thực hiện hỗ trợ cứu rét[12] cho 1.000 hộ/3.711 khẩu với tổng kinh phí thực hiện hỗ trợ là 495 triệu đồng; UBND huyện Đăk Glei hỗ trợ cứu lạnh, cứu rét cho Nhân dân với tổng số lượng 1.185 cái chăn đắp và áo lạnh.
- Công tác hỗ trợ cứu đói: Hỗ trợ 292,2 tấn gạo cho 5.273 hộ nghèo với 19.480 khẩu có nguy cơ thiếu đói dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần và giáp hạt đầu năm 2022, bình quân 15 kg/01 nhân khẩu, trong đó: Chính phủ hỗ trợ cho 254,25 tấn gạo[13] cho 4.474 hộ/16.950 khẩu; Ngân sách địa phương chủ động và vận động xã hội hóa là 37,950 tấn gạo hỗ trợ cho 799 hộ/2.530 khẩu.
- Thực hiện chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi: Thực hiện quyền của người cao tuổi theo Luật, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh trình Chủ tịch Nước gửi thiếp chúc thọ và tổ chức thăm mừng thọ cho 290 người cao tuổi tròn 100 và 90 tuổi, với tổng số tiền 328,657 triệu đồng theo quy định[14]; triển khai cấp huyện, thành phố thực hiện kế hoạch tổ chức chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi thọ 70, 75, 80, 85, 95 và trên 100 tuổi cho 554 người với tổng số tiền là 231,950 triệu đồng đảm bảo theo quy định.
Ủy ban nhân dân tỉnh thăm hỏi và tặng quà cho các Trung tâm Bảo trợ xã hội công lập; ngoài công lập của tỉnh và Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Đăk Lắk (đối tượng tâm thần của tỉnh Kon Tum gửi chăm sóc nuôi dưỡng, điều trị) tổng kinh phí 52 triệu đồng. Riêng Trung tâm Bảo trợ và Công tác xã hội tỉnh đã đón 09 tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đến thăm, tặng quà, chúc tết cho đối tượng tại Trung tâm tổng kinh phí 77 triệu đồng.
(3) Thực hiện chính sách với người có công
Các cấp, các ngành đã thăm, tặng 10.017 suất quà với tổng kinh phí là 2.810 triệu đồng cho người có công với cách mạng[15].
Thực hiện việc xây mới mộ chung (14 liệt sĩ) và sửa chữa mộ chung (43 liệt sĩ) sau khi tách ra từ mộ chung 57 liệt sĩ tại huyện Sa Thầy.
Duyệt danh sách và ra quyết định giải quyết chế độ điều dưỡng năm 2022 cho các đơn vị: thành phố Kon Tum, Đăk Hà, Kon Rẫy, Tu Mơ Rông; Tổ chức đưa đoàn người có công (45 người) đi tham quan Thủ đô Hà Nội. Cung cấp thông tin Mẹ Việt Nam anh hùng gửi quỹ Thiện Tâm (Tập đoàn Vingroup tặng quà các mẹ nhân dịp 27/7/2022, định mức 5.000.000đ/người).
10.4. Tình hình nổi bật về xã hội
a) Về y tế
(1) Tình hình dịch bệnh trong tháng
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19): Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 70 ca mắc mới, giảm 2.844 ca so với tháng trước. Lũy tích tổng số ca mắc từ đầu năm 2022 đến ngày 12/6/2022 ghi nhận 29.464 ca mắc.
Tay - chân - miệng: Trong tháng, ghi nhận 02 ca mắc mới tại thành phố Kon Tum, tăng 02 ca so với tháng trước và giảm 04 ca so với tháng 5/2021. Lũy tích đến 31/5/2022, không có tử vong, ghi nhận 05 ca mắc, giảm 41 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 10 ca mắc mới (Đăk Tô 03 ca, Tu Mơ Rông 01 ca, Kon Rẫy 04 ca, Kon Plông 02 ca), giảm 04 ca so với tháng trước, giảm 16 ca so với tháng 5/2021. Lũy tích đến 31/5/2022, không có tử vong, ghi nhận 85 ca, giảm 53 ca so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 05 ca mắc mới (Đăk Tô 02 ca, Tu Mơ Rông 03 ca), tăng 02 ca so với tháng trước, giảm 09 ca so với tháng 5/2021. Lũy tích đến 31/5/2022, không có tử vong, ghi nhận 16 ca mắc, giảm 11 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 06 ổ dịch mới (Đăk Hà 02 ổ dịch, Ngọc Hồi 01 ổ dịch, Sa Thầy 02 ổ dịch, Ia H'Drai 01 ổ dịch); lũy tích đến 31/5/2022, ghi nhận 21 ổ dịch mới. Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 26 ca mắc mới (Đăk Hà 19 ca, Ngọc Hồi 03 ca, Sa Thầy 02 ca, Ia H' Drai 02 ca), tăng 23 ca so với tháng trước, tăng 09 ca so với tháng 5/2021. Lũy tích đến 31/5/2022, không có ca tử vong, ghi nhận 45 ca mắc mới, tăng 07 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt rét: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích đến 31/5/2022, không có ca tử vong, không có ca mắc sốt rét ác tính, ghi nhận 03 ca mắc (Tu Mơ Rông 01 ca, Ia H’Drai 02 ca), tăng 02 ca so với cùng kỳ năm trước.
Bệnh viêm gan vi rút A: Trong tháng, ghi nhận 04 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 02 ca, Sa Thầy 02 ca), tăng 04 ca so với tháng trước, tăng 04 ca so với tháng 5/2021. Lũy tích đến 31/5/2022, không có ca tử vong, ghi nhận 04 ca mắc (thành phố Kon Tum 02 ca, Sa Thầy 02 ca), tăng 04 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong 5 tháng đầu năm 2022, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), cúm A(H1N1), bệnh do vi rút Zika, bạch hầu, dại, ho gà, sởi, viêm não Nhật Bản.
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 39 người, trong đó lao phổi AFB (+) 30. Không ghi nhận bệnh nhân phong mới; tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 163 người; quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên) đang quản lý 56 người.
(2) Tiêm chủng mở rộng
Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Công văn về việc khẩn trương triển khai các nhiệm vụ tiêm vắc xin phòng Covid-19 trên địa bàn tỉnh[16]; Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại lần 2 (mũi 4) trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2022[17]. Sở Y tế ban hành các Kế hoạch tiếp tục triển khai các chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 trên địa bàn tỉnh[18]. Kết quả tính đến 12/6/2022:
- Đối tượng ≥ 18 tuổi: Đã tiêm vắc xin phòng Covid-19 đạt 99,62%, trong đó đã tiêm đủ liều cơ bản đạt 98,62%; tiêm liều bổ sung đạt 96,22%; tiêm liều nhắc lại đạt 55,73%.
- Đối tượng 12 tuổi - 17 tuổi: Đã tiêm vắc xin phòng Covid-19 đạt 99,93%; trong đó đã tiêm đủ liều cơ bản đạt 95,46%.
- Đối tượng 5 - dưới 12 tuổi: Đã tiêm mũi 1 vắc xin phòng Covid-19 đạt 49,65%.
- Tỷ lệ tiêm đủ liều vắc xin cơ bản trên tổng dân số đạt 67,7%.
(3) Phòng chống HIV/AIDS
Trong tháng, ghi nhận 04 ca nhiễm HIV mới. Lũy tích đến ngày 31/5/2022, tổng số nhiễm HIV/AIDS 552 người, trong đó tử vong 199 người và còn sống 353 người (quản lý được 195 người). Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 159 người (9 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 03 người.
(4) Truyền thông, giáo dục sức khỏe
Sở Y tế phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực hiện 02 phóng sự tuyên truyền phòng chống bệnh hen phế quản và tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi; Phối hợp với Đài Truyền thanh - Truyền hình thành phố Kon Tum tổ chức phát 20 lượt thông điệp phát thanh tuyên truyền tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi; Phối hợp với phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Kon Tum tổ chức 07 buổi truyền thông nói chuyện chuyên đề về tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi. Tổ chức Lễ Mít tinh hưởng ứng Ngày Thế giới không thuốc lá (31/5) và Tuần lễ quốc gia không thuốc lá (25/5 - 31/5/2022) tại Quảng trường 16/3 với 500 người tham dự.
(5) An toàn vệ sinh thực phẩm
Tiếp tục triển khai hoạt động truyền thông về an toàn thực phẩm tại các thôn, làng[19]; giám sát chất lượng thực phẩm và tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với nhà hàng, dịch vụ nấu ăn, dịch vụ tiệc cưới.
Triển khai các hoạt động nhân “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2022 và tổng hợp, báo cáo kết quả triển khai Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2022[20]. Kiểm tra an toàn thực phẩm, kết quả kiểm tra 63 cơ sở (41 cơ sở sản xuất thực phẩm, 10 cơ sở kinh doanh thực phẩm, 12 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống), trong đó 59 cơ sở đạt các điều kiện về bảo đảm an toàn thực phẩm, chiếm tỷ lệ 93,7%.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 5 năm 2022, xảy ra 10 trường hợp ngộ độc thực phẩm do ăn uống không bảo đảm vệ sinh.
b) Về giáo dục
Từ ngày 21-28/5/2022 các trường học trên địa bàn tỉnh Kon Tum đã tổ chức Lễ tổng kết năm học 2021-2022. Năm học 2021-2022, tỉnh Kon Tum có 364 trường mầm non và phổ thông, 11 cơ sở đào tạo, ngoài ra còn có 102 Trung tâm học tập cộng đồng. Năm học 2021- 2022 diễn ra trong bối cảnh hết sức đặc biệt, là năm học đầu tiên triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; đây cũng là năm học thứ hai ngành Giáo dục tiếp tục triển khai thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông 2018. Đặc biệt, đây là năm học thứ ba diễn ra trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện “nhiệm vụ kép”: Vừa tuân thủ tuyệt đối các giải pháp phòng, chống dịch Covid-19, vừa khôi phục, duy trì các hoạt động giáo dục bảo đảm an toàn cho cán bộ giáo viên, học sinh, hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2021-2022. Tại Lễ tổng kết, các trường đã tuyên dương, khen thưởng giáo viên và học sinh đạt thành tích tốt trong năm học 2021-2022.
Sáng 24/5/2022, Tại trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành, Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức Lễ khai mạc Kỳ thi chọn đội tuyển dự thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2022 - 2023. Tham dự Kỳ thi năm nay có 177 thí sinh, là các em học sinh lớp 10, 11 có năng lực chuyên môn tốt, được tuyển chọn từ các trường Trung học phổ thông trên toàn tỉnh. Kỳ thi được tổ chức ở 09 môn thi: Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Tin học, Ngữ văn, … Qua đó, chọn ra các học sinh ưu tú, xuất sắc ở các môn học để thành lập các đội tuyển của tỉnh, tiếp tục bồi dưỡng để tham dự Kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia THPT năm học 2022 – 2023.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Quyết định Phê duyệt Danh mục sách giáo khoa lớp 3, lớp 7 và lớp 10 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Kon Tum[21]; Quyết định Quy định về cơ chế thu và sử dụng mức thu dịch vụ tuyển sinh các cấp học trên địa bàn tỉnh Kon Tum[22]. Áp dụng đối với các cơ sở giáo dục phổ thông công lập; Người tham gia dự tuyển vào các cơ sở giáo dục phổ thông công lập; các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; không áp dụng quy định này đối với trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú.
c) Về văn hóa, thể dục thể thao
Sáng 26/5/2022, Công đoàn Viên chức tỉnh tổ chức khai mạc Hội thao Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động lần thứ IX, năm 2022. Hội thao diễn ra trong 2 ngày 26 - 27/5 với 3 bộ môn thi đấu là bóng đá, bóng bàn và cầu lông. Hội thao Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động lần này có sự tham gia của 6 đoàn với gần 200 vận động viên đến từ các công đoàn cơ sở, cụm thi đua thuộc Công đoàn Viên chức tỉnh.
Chiều ngày 11/6/2022, tại Khách sạn Đông Dương, thành phố Kon Tum, UBND TP. Hồ Chí Minh phối hợp với UBND tỉnh Kon Tum và các tỉnh Tây Nguyên tổ chức Hội nghị “Bàn về giải pháp phát triển sản phẩm du lịch liên kết giữa TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Nguyên” năm 2022. Hội nghị đã “Bàn về giải pháp phát triển sản phẩm du lịch, liên kết giữa TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Nguyên” năm 2022 nhằm đánh giá lại những kết quả đạt được về hợp tác phát triển du lịch các địa phương; đồng thời phát huy tiềm năng, lợi thế về giá trị tài nguyên du lịch, vị trí chiến lược của tỉnh Kon Tum và đẩy mạnh kết nối du lịch giữa tỉnh Kon Tum nói riêng, 05 tỉnh Tây Nguyên nói chung với TP. Hồ Chí Minh, đồng thời giới thiệu điểm đến và các sản phẩm, dịch vụ du lịch hấp dẫn, độc đáo, thúc đẩy hoạt động xúc tiến đầu tư vào du lịch, tạo cơ hội hợp tác, liên kết phát triển góp phần phục hồi du lịch các tỉnh. Kết nối các doanh nghiệp lữ hành TP. Hồ Chí Minh với các điểm đến của tỉnh Kon Tum để xây dựng các chương trình liên kết giữa TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Kon Tum nói riêng, các tỉnh Tây Nguyên nói chung, góp phần phát triển KT-XH của các địa phương.
Sáng 14/6/2022, tại Sân vận động tỉnh, đã diễn ra Lễ khai mạc Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Kon Tum lần thứ VII năm 2022, Đại hội diễn ra trong thời gian 7 ngày, từ 14 - 20/6. Đại hội lần này, có 30 đoàn với 2.600 cán bộ, huấn luyện viên và vận động viên tham gia. Tại Đại hội các vận động viên tranh tài ở 18 môn thi đấu tranh 136 bộ huy chương.
d) Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương
Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch thực hiện công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc năm 2022 trên địa bàn tỉnh([23]); Kế hoạch xử lý vi phạm hành lang an toàn đường bộ năm 2022 trên địa bàn tỉnh Kon Tum([24]); Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp, phương án nhằm kéo giảm tội phạm; đồng thời huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trên địa bàn trong công tác phòng ngừa tội phạm giết người góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, tập trung đấu tranh, triệt phá ngay từ khi có dấu hiệu hình thành tội phạm hoạt động theo kiểu băng nhóm, “bảo kê”, đòi nợ thuê, “tín dụng đen”...
Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm tiếp tục được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hoạt động của tội phạm theo băng, nhóm, tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” được đấu tranh, triệt xóa, không có băng, nhóm hoạt động phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, cụ thể:
Phạm tội về trật tự xã hội: Trong tháng, phát hiện 37 vụ (tăng 05 vụ so tháng trước), hậu quả, thiệt hại: 03 người chết; 06 người bị thương, mất một số tài sản khoảng 526 triệu đồng; thu giữ 16 triệu đồng tiền mặt.
Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 03 vụ (tăng 02 vụ so tháng trước), gồm: Buôn bán hàng cấm 01 vụ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ 01 vụ; Tham ô tài sản 01 vụ.
Phạm tội về ma túy: Phát hiện 08 vụ (giảm 02 vụ so tháng trước), gồm: Tàng trữ trái phép chất ma túy 05 vụ; Vận chuyển trái phép chất ma túy 01 vụ; Mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ 0,141g Heroin; 807,141g ma túy tổng hợp.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông (03 vụ nghiêm trọng, 01 vụ ít nghiêm trọng) làm 03 người chết, 06 người bị thương (giảm 04 vụ, giảm 06 người chết, tăng 06 người bị thương so tháng trước). Thiệt hại về tài sản: 07 mô tô ước tính khoảng 23 triệu đồng.
Tình hình cháy, nổ, sự cố, tai nạn: Xảy ra 05 vụ cháy nhà dân, cơ sở kinh doanh dịch vụ Bar (tăng 03 vụ so tháng trước). Nguyên nhân đang được cơ quan chức năng làm rõ. Thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 3.200 triệu đồng.
e) Tình hình môi trường
(1) Vi phạm môi trường
Trong tháng phát hiện 01 vụ Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (tăng 01 vụ so tháng trước).
(2) Tình hình thiên tai
- Diễn biến thiên tai: Theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai – tìm kiếm cứu nạn và phòng thủ dân sự tỉnh. Từ ngày 20/5/2022 đến ngày 19/6/2022 tỉnh Kon Tum bị ảnh hưởng mưa vừa kèm theo giông sét và gây ra thiệt hại về nông nghiệp, công trình giao thông tại thành phố Kon Tum và huyện Sa Thầy.
- Tình hình thiệt hại
Về người: Không phát sinh thiệt hại về người.
Về nông nghiệp: 0,12 ha lúa bị thiệt hại hoàn toàn do ngập; 10,1 ha sắn bị thiệt hại do ngập, tăng so với tháng trước, và tăng so với cùng kỳ năm trước không ghi nhận thiệt hại.
Về thủy lợi: Một số kênh mương bị bồi lấp khoảng 150 m3 đất.
Về giao thông: Một số công trình giao thông ở xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum và huyện Sa Thầy bị sạt lở.
Tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 500 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 19/6/2022 ước thiệt hại 650 triệu đồng. Trong tháng không ghi nhận thiệt hại về nhà ở, y tế, văn hóa, giáo dục, công nghiệp.
[1] Số liệu GRDP ước tính 6 tháng đầu năm 2022 theo Công văn số 753/TCTK-TKQG ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Tổng cục Thống kê về việc thông báo số liệu GRDP sơ bộ quý I, ước tính quý II và 6 tháng đầu năm 2022.
[2] Tại thời điểm 22/06/2022
[3] Kế hoạch số 1448/KH-UBND, ngày 16/5/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh.
[4] Trong đó: Đài loan 17 người, Hàn Quốc 02 người.
[5] Công ty Bảo Việt Kon Tum; Công ty CP ĐT &XD cầu đường Kon Tum; Công ty TNHH tinh bột sắn Tây Nguyên – Đăk Hà; Công tyTNHH MTV lâm nghiệp Sa Thầy.
[6] Công ty Bảo Việt Kon Tum; Quỹ ĐTPT Kon Tum; Công ty TNHH Thương mại và Công nghệ môi trường DH.
[7] Tổng số lao động người nước ngoài được cấp Giấy phép lao động là 61 lao động nước ngoài (Trong đó, số lao động người nước ngoài được cấp GPLĐ trong năm 2021 còn giá trị hiệu lực là 50 lao động nước ngoài và số lao động người nước ngoài được cấp GPLĐ trong năm 2022 là 11 lao động nước ngoài).
[8] Tại Quyết định số 1168/QĐ-UBND ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum về việc giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2022.
[9] Tại Văn bản số 128/UBND-KGVX ngày 14/01/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum;
[10] Công văn số 1064/SLĐTBXH-NCC ngày 07/9/2021 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội về việc thực hiện chi trả gộp 02 tháng trợ cấp ưu đãi cho người có công và đối tượng xã hội khác.
[11] Huyện Tu Mơ Rông tổ chức thăm 202 đối tượng (300.000đ/suất) với số tiền 60.600.000 đồng; Huyện Đăk Hà thăm 3.154 suất quà với số tiền 843.755.000 đồng; huyện Đăk Glei tổ chức thăm 60 đối tượng (bằng tiền mặt, 300.000 đồng/đối tượng) với số tiền 18 triệu đồng; huyện Ngọc Hồi tổ chức thăm 240 đối tượng (300.000đ/suất) với số tiền 72.000.000 đồng; thành phố Kon Tum 1.322 đối tượng, mỗi đối tượng 01 suất quà trị giá 185.000 đồng/suất với tổng kinh phí 244.570.000 đồng.
[12] Gồm 01 chăn đắp và 01 áo lạnh/hộ.
[13] Hỗ trợ 157,635 tấn gạo cứu đói cho 2.820 hộ với 10.509 nhân khẩu dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần năm 2022 và hỗ trợ 96,615 tấn gạo cứu đói cho 1.654 hộ với 6.441 nhân khẩu dịp giáp hạt đầu năm 2022.
[14] Trong đó có 29 người cao tuổi tròn 100 tuổi (định mức 1.000.000 đ/người và 5m vải lụa Thái Tuấn + Khung....), kinh phí 61,915 triệu đồng; cho 261 người cao tuổi thọ tròn 90 tuổi định mức 700.000 đồng tiền mặt và 200.000 quà tặng + Khung và Giấy mừng thọ), kinh phí 266,742 triệu đồng. Định mức theo quy định Nghị quyết 24/2019/NQ-HĐND ngày 18/7/2019.
[15] Quà của Chủ tịch nước là 5.109 suất, với kinh phí 1.547 triệu đồng; Quà từ ngân sách cấp tỉnh 100 suất, mỗi suất 1.500.000 đồng/suất (trong đó: 1.200.000 đồng tiền mặt và 300.000 đồng bằng hiện vật). Thăm tặng cho các đối tượng; Tiền khởi nghĩa; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ trang; Thương binh, bệnh binh, Người có công giúp đỡ cách mạng, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; thân nhân hưởng trợ cấp tuất 02 liệt sỹ trở lên; thân nhân liệt sỹ hưởng trợ cấp định suất nuôi dưỡng; Quà của Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tặng 2.756 suất với kinh phí 692 triệu đồng; Quà của xã, phường tặng 1.594 suất với kinh phí 262 triệu đồng; Quà của các tổ chức, cá nhân thăm và tặng cho đối tượng 245 suất với kinh phí 96 triệu đồng.
[16] Công văn số 1641/UBND-KGVX ngày 30 tháng 5 năm 2022.
[17] Kế hoạch số 1715/KH-UBND ngày 06 tháng 6 năm 2022.
[18] Kế hoạch số 2549/KH-SYT ngày 07/6/2022 về Triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2022 (đợt 3/2022); Kế hoạch số 2570/KH-SYT ngày 09/6/2022 về Triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại lần 2 (mũi 4) trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2022; Kế hoạch số 2609/KH-SYT ngày 11/6/2022 về Triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2022 (đợt 4/2022).
[19] Tổ chức phát loa tuyên truyền bằng xe lưu động trên tuyến đường thành phố Kon Tum và tại 50 thôn, làng của 06 xã trên địa bàn tinh, phát thông điệp 2.745 lần với các nội dung: Thông điệp Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2022; tuyên truyền phòng chống ngộ độc rượu; tuyên truyền phòng chống ngộ độc thực phẩm do nấm độc, phòng ngừa ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua tiết canh; lồng ghép tuyên truyền phòng chống COVID-19, phòng chống sốt xuất huyết. Cấp 484 tờ rơi, 715 tờ gấp, 540 áp phích.
[20] Báo cáo số 2416/BC-BCĐ ngày 26/5/2022 của BCĐ liên ngành an toàn thực phẩm.
[21] Quyết định số 294/QĐ-UBND ngày 19 tháng 5 năm 2022.
[22] Quyết định số 15/2022/QĐ-UBND ngày 07 tháng 6 năm 2022.
[23] Kế hoạch số 1259/KH-UBND ngày 29 tháng 4 năm 2022.
[24] Kế hoạch số 1265/KH-UBND ngày 04 tháng 5 năm 2022.
File đính kèm: BC_so_lieu_thang_6_va_6_thang_2022_Kon_Tum.pdf
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum