Trong tháng 7 năm 2022, các cấp, các ngành tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm, tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, nhất là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, địa phương trong việc đẩy mạnh thực hiện nghị quyết, quyết định, chương trình hành động triển khai thực hiện của các cấp, các ngành; khắc phục có hiệu quả các hạn chế, khuyết điểm; nhất là các nhiệm vụ, giải pháp đã xác định tại Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI “Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị 6 tháng cuối năm 2022”; Nghị quyết số 29/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Hội đồng nhân dân tỉnh Khoá XII kỳ họp thứ 3 “Về nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh 6 tháng cuối năm 2022”.
Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 trên địa bàn tỉnh Kon Tum tiếp tục có nhiều khởi sắc ở hầu hết các lĩnh vực, cụ thể như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tháng Bảy năm 2022, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Kon Tum diễn ra trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Sản xuất nông nghiệp với nhiệm vụ trọng tâm là tập trung gieo trồng và chăm sóc cây lúa vụ mùa, đảm bảo tiến độ gieo trồng các loại cây hàng năm khác. Công tác phòng chống dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm được giám sát chặt chẽ. Sản xuất lâm nghiệp duy trì ổn định; công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được quan tâm.
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Tính đến ngày 15/7/2022 tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa năm 2022 trên địa bàn tỉnh ước tính là 60.287 ha, tăng 3,97% (+2.302 ha) so với cùng kỳ năm trước. DTGT các loại cây hàng năm vụ mùa năm 2022 so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Cây lúa DTGT ước tính là: 13.444 ha, giảm 1,67% (-228 ha). Trong đó: Cây lúa ruộng diện tích ước tính đã gieo cấy là 10.380 ha, tăng 1,85% (+189 ha); Cây lúa rẫy diện tích ước tính là 3.065 ha, giảm 11,97% (-417 ha), diện tích giảm chủ yếu ở huyện Tu Mơ Rông giảm 235 ha, huyện Đăk Glei giảm 135 ha; diện tích giảm là do năng suất lúa rẫy thấp, hiệu quả kinh tế không cao nên người dân chuyển đổi sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Cây ngô DTGT ước tính là 3.963 ha, tăng 4,01% (+153 ha).
- Cây sắn DTGT ước tính là 38.244 ha, tăng 2,94% (+1.091 ha).
- Cây khoai lang DTGT ước tính là 378 ha, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước (+262 ha). Diện tích tăng là do một số doanh nghiệp trồng xen khoai lang trên đất cao su.
- Cây lạc DTGT ước tính là 84 ha, tăng 2,56% (+2 ha).
- Rau các loại DTGT ước tính là 1.118 ha, tăng 7,71% (+80 ha).
- Đậu các loại DTGT ước tính là 223 ha, tăng 7,64% (+16 ha).
b) Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục được phát triển ổn định. Các cơ quan chuyên môn quan tâm, khẩn trương thực hiện tốt phương án phòng chống dịch bệnh ở động vật; tăng cường công tác khử trùng, tiêu độc, đảm bảo môi trường vệ sinh an toàn.
Tổng đàn trâu 24.923 con, tăng 0,3% (+81 con) so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung đàn trâu trên toàn tỉnh ổn định về tổng đàn. Số con xuất chuồng là 1.639 con, tăng 1,5% (+25 con) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thịt hơi xuất là 442 tấn, tăng 1,8% (+8 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn bò 84.106 con, tăng 0,2% (+127 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 20.277 con, tăng 1,5% (+292 con) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thịt hơi xuất là 3.637 tấn, tăng 2,4% (+86 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn 154.110 con, tăng 3,1% (+4.598 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 169.353 con, tăng 4,9% (+7.867 con) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thịt hơi xuất là 12.977 tấn, tăng 4,9% (+612 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn gia cầm 1.708.650 con, tăng 4,4% (+72.650 con) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: đàn gà 1.523.760 con, tăng 6,9% (+97.760 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 3.073 tấn, tăng 7,9% (+225 tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 2.772 tấn, tăng 8,3% (+213 tấn). Số lượng và sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng tăng do dịch bệnh ít xảy ra, giá cả thịt gia cầm ổn định nên người chăn nuôi đầu tư tăng đàn.
1.2. Lâm nghiệp
Tháng 7 năm 2022, sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu thực hiện khâu lâm sinh, khai thác gỗ và củi. Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, được các cơ quan chức năng thường xuyên tuyên truyền vận động người dân nâng cao ý thức trong công tác phòng chống cháy rừng, lấn chiếm rừng làm nương rẫy. Chuẩn bị sẵn sàng về nhân lực, phương tiện, dụng cụ để huy động nguồn lực tham gia chữa cháy rừng kịp thời, hạn chế thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra. Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng.
Tính đến ngày 15/7/2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 26 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 31,6 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Ước tính đến thời điểm 31/7/2022, công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh là 1.545,4 ha, tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm trước. Năm nay thời tiết thuận lợi, mưa sớm nên diện tích rừng trồng mới tăng.
Công tác khai thác lâm sản: Ước tính đến thời điểm 31/7/2022, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 81.107 m3, tăng 0,8% (+632 m3) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng củi khai thác là 164.010 ster, tăng 1,2% (+1.905 ster) so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Thuỷ sản
Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
- Ước tính 7 tháng năm 2022, diện tích nuôi trồng thủy sản là 776,5 ha, tăng 7,4% (+53,3 ha) so với cùng kỳ năm trước.
- Ước sản lượng thủy sản 7 tháng năm 2022 tỉnh Kon Tum đạt 3.588 tấn, tăng 7,36% (+246 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 1.218 tấn, tăng 6,38% (+73 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 2.370 tấn, tăng 7,87% (+173 tấn) so với cùng kỳ năm trước, nhìn chung sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong 7 tháng của tất cả các loại điều tăng. Sản lượng thủy sản trong kỳ tăng do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước, diện tích nuôi trồng tăng do các đơn vị khoanh nuôi tại các hồ, đập thuỷ điện, thuỷ lợi. Bên cạnh đó sản lượng khai thác, đánh bắt của các hộ trên các hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối cũng tăng so với cùng kỳ năm trước.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng Bảy năm 2022 tiếp tục ổn định và tăng trưởng trở lại do hầu hết các đơn vị đã thích nghi với trạng thái “bình thường mới”, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Bảy ước tính tăng 1,30% so với tháng trước và tăng 13,01% so với cùng kỳ năm trước do dịch Covid-19 đã được kiểm soát, các doanh nghiệp chủ động hơn về lao động và kế hoạch sản xuất kinh doanh, khắc phục khó khăn để phục hồi, mở rộng sản xuất. Tính chung 7 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 19,41% so với cùng kỳ năm trước. Một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao như ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và ngành sản xuất, phân phối điện; riêng ngành sản xuất điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất (+37,08%).
2.1 Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7 năm 2022 ước tính tăng 13,01% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện (+28,95%); ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,61%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 17,97%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 5,79%.
So với tháng trước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 7/2022 ước tính tăng 1,3%. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (+5,02%); hiện tại tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tương đối thuận lợi so tháng trước, nguồn cung cấp nguyên liệu được đảm bảo; các sản phẩm thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sản xuất trong tháng 7 ước tính đều tăng so tháng trước. Ngành sản xuất, phân phối điện, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định so tháng trước.
Tính chung 7 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 19,41% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện tăng (+37,08%); ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,71%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 8,84%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 5,67%.
Chỉ số sản xuất 7 tháng năm 2022 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 37,08%; Khai khoáng khác tăng 8,71%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 8,72%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 2,77%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 2,38%. Ở chiều ngược lại, một số ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 13,83%; Sản xuất trang phục giảm 5,44%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 9,33%; In, sao chép bản ghi các loại giảm 6,30%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 22,59%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,37%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 7,65%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước giảm 0,24%; Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải; tái chế phế liệu giảm 7,69%.
2.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất tháng 7 năm 2022 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 32.859 m3, tăng 3,13%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 4.205 tấn, giảm 35,64%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 16.875 triệu viên, giảm 10,36%; điện sản xuất 213 triệu Kwh, tăng 30,54%.
Tính chung 7 tháng đầu năm một số sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất đạt 1.488 triệu Kwh, tăng 39,15%; Đá xây dựng khác đạt 209.017 m3, tăng 10,94%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 264 nghìn viên, tăng 78,57%.
Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Tinh bột sắn đạt 109.191 tấn, giảm 12,74%; Đường RE đạt 7.188 tấn, giảm 14,18%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 18.615 m3, giảm 9,33%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 100 triệu trang, giảm 6,3%; Cồn béo công nghiệp đạt 5.386 tấn, giảm 24,09%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 57.194 chiếc, giảm 5,1%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 14.903 tấn, giảm 7,62%. Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 128.477 chiếc, giảm 9,31%.
2.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Bảy ước tính tăng 0,1% so với tháng trước và giảm 2,39% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2022, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 5,65%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,94%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng giảm 34,57%; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,81%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí nước tăng 26,95%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 13,59% so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 7 và 7 tháng năm 2022 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước với chỉ số sản xuất toàn ngành tăng 19,41%; một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao như ngành công nghiệp khai thác khoáng sản và ngành sản xuất, phân phối điện; riêng ngành sản xuất phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng cao nhất (+37,08%) do một số công trình thủy điện đã hoàn thành và đưa vào vận hành, một mặt năm nay mùa mưa đến sớm, lượng mưa lớn hơn, trong các tháng đầu năm lượng nước trên các hồ chứa vẫn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động hết công suất nên sản lượng điện sản xuất tăng cao. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có chỉ số sản xuất giảm so cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu do một số ngành sản xuất như chế biến đường, tinh bột sắn, sản xuất cồn, chế biến gỗ... còn khó khăn trong khâu thu mua nguyên liệu sản xuất, nhất là trong các tháng đầu năm nên sản lượng sản phẩm của các ngành này giảm. Đến tháng 7 tình hình sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có thuận lợi và hoạt động ổn định hơn.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 7 toàn tỉnh có 32 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 314 tỷ đồng, giảm 18% về số doanh nghiệp và giảm 59,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2021. Có 02 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 60% so với cùng kỳ năm trước; 02 doanh nghiệp đã giải thể, bằng so với cùng kỳ năm trước; 08 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, bằng so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 7 tháng năm 2022 (tính đến ngày 18/7/2022), có 224 doanh nghiệp thành lập mới, đạt 72,26% kế hoạch và tăng 32,5% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 4.135 tỷ đồng, đạt 75,73% kế hoạch và giảm 10,53% so với cùng kỳ. Có 90 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 2,27% so với cùng kỳ năm trước; 14 doanh nghiệp đã giải thể, giảm 26,4% so với cùng kỳ năm trước; 140 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 27,27% so với cùng kỳ năm trước.
4. Hoạt động ngân hàng
4.1. Tình hình thực hiện lãi suất
a) Lãi suất huy động: Các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động. Mặt bằng lãi suất huy động tại các TCTD trong tháng tương đối ổn định, không có sự biến động so với tháng trước. Theo đó, mức lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn dưới 6 tháng từ 3,0-4,0%/năm; đối với kỳ hạn từ 6 đến 12 tháng từ 4,0-5,6%/năm; đối với các kỳ hạn trên 12 tháng từ 5,5%-6,3%/năm. Lãi suất huy động bằng USD thực hiện theo mức quy định tối đa 0% đối với tiền gửi cá nhân và tổ chức.
b) Lãi suất cho vay: Mặt bằng chung lãi suất cho vay trong tháng tiếp tục duy trì ổn định. Mặt bằng lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường duy trì ở mức từ 7,0-10,5%/năm; cho vay trung và dài hạn ở mức từ 10-11%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm. Ngoài ra, một số ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi với nhiều gói tín dụng ưu tiên của mỗi hệ thống với mức lãi suất từ 5,5-6,5%/năm.
Lãi suất cho vay bằng USD phổ biến ở mức 3%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn và một số nhóm đối tượng ưu tiên; cho vay trung và dài hạn phổ biến ở mức 5,0-6,8%/năm.
4.2. Hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng
a) Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn đến 31/7/2022 ước đạt 19.650 tỷ đồng, tăng 5,2% (+ 969 tỷ đồng) so với thời điểm cuối năm 2021, tăng 2,1% (+ 408 tỷ đồng) so với tháng trước. Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 2.700 tỷ đồng (chiếm 13,7% nguồn vốn huy động) giảm 55,2% so với thời điểm 31/12/2021. Phân theo loại tiền tệ, nguồn vốn huy động bằng tiền gửi VND ước đạt 19.250 tỷ đồng, chiếm 98,0% tổng nguồn vốn huy động; nguồn vốn huy động bằng tiền gửi ngoại tệ ước đạt 150 tỷ đồng, chiếm 0,8% tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 15.400 tỷ đồng, chiếm 78,4% tổng nguồn vốn huy động, tăng 6,7% (+971 tỷ đồng) so với đầu năm, tiền gửi thanh toán ước đạt 4.000 tỷ đồng, chiếm 20,4% tổng nguồn vốn huy động, tăng 6,0% (+225 tỷ đồng) so với đầu năm. Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 250 tỷ đồng, chiếm 1,3% tổng nguồn vốn huy động.
Mặc dù, mức lãi suất huy động thấp sẽ gây khó khăn cho các TCTD trong công tác huy động vốn tại chỗ, tuy nhiên trong thời điểm nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, gửi tiền vào ngân hàng vẫn là kênh đầu tư hiệu quả và an toàn đối với đại đa số người dân. Bên cạnh đó, thời gian qua, các TCTD trên địa bàn đã tích cực triển khai nhiều biện pháp như đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng nhân dịp sinh nhật khách hàng, ngày thành lập doanh nghiệp,...và nhiều chương trình khuyến mại để thu hút tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó, hoạt động huy động vốn đã có mức tăng trưởng khá so với đầu năm, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng trên địa bàn.
b) Hoạt động tín dụng: Đến 31/7/2022, tổng dư nợ tín dụng toàn địa bàn ước đạt 41.500 tỷ đồng so với đầu năm, tăng 8,0% (+ 3.061 tỷ đồng), và tăng 1,0% (+392 tỷ đồng) so tháng trước. Trong đó, dư nợ ngắn hạn ước đạt 25.200 tỷ đồng, chiếm 60,7% tổng dư nợ; dư nợ trung dài hạn ước đạt 16.300 tỷ đồng, chiếm 39,3% tổng dư nợ; Cơ cấu tín dụng theo loại tiền tệ được duy trì tương đối ổn định, dư nợ cấp tín dụng bằng VND vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu, ước đạt 41.360 tỷ đồng, chiếm 99,7% tổng dư nợ, dư nợ bằng ngoại tệ không đáng kể. Cơ cấu tín dụng tiếp tục được tập trung vào sản xuất kinh doanh, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.
5. Vốn đầu tư
Công tác phân bổ và đôn đốc giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công được chỉ đạo triển khai quyết liệt ngay từ đầu năm, đồng thời, chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích, hiệu quả. Trong 7 tháng năm 2022 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh nhìn chung đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2021 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2022 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 7 năm 2022 ước đạt 267.864 triệu đồng, tăng 1,18% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 205.739 triệu đồng, chiếm 76,8% trong tổng số nguồn vốn; Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện đạt 62.125 triệu đồng, chiếm 23,19% trong tổng số nguồn vốn.
Tính chung 7 tháng năm 2022 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước đạt 1.338.083 triệu đồng, đạt 52,02% so với kế hoạch và tăng 8,09% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.002.365 triệu đồng, chiếm 74,91% trong tổng số nguồn vốn, tăng 0,57% so với cùng kỳ năm trước Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh đạt 411.055 triệu đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 496.886 triệu đồng; nguồn vốn ODA đạt 49.650 triệu đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết đạt 16.565 triệu đồng; nguồn vốn khác đạt 28.209 triệu đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện ước đạt 335.718 triệu đồng, chiếm 25% trong tổng số nguồn vốn, tăng 39,19% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện đạt 214.933 triệu đồng; nguồn vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 115.335 triệu đồng và nguồn vốn khác đạt 5.450 triệu đồng.
Tình hình thực hiện dự án từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước thực hiện trong kỳ: Nhìn chung, trong 7 tháng đầu năm 2022 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai đúng theo kế hoạch vốn đã được giao từ nguồn vốn chuyển từ năm 2021 và nguồn vốn theo kế hoạch trung và dài hạn, bên cạnh đó nguồn vốn theo kế hoạch năm 2022 đang được các đơn vị triển khai các khâu chuẩn bị thực hiện dự án. Cụ thể một số dự án trọng điểm như: Đường giao thông kết nối từ Đường Hồ Chí Minh đi Quốc Lộ 24; Đầu tư cơ sở hạ tầng khu tái định cư các công trình trên địa bàn thành phố Kon Tum, kết hợp khai thác quỹ đất…
6. Thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại và dịch vụ tháng Bảy khá sôi động khi đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Bảy tăng 31,45% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng đầu năm 2022 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tăng 37,55% so với cùng kỳ năm trước. Nhiều hoạt động hưởng ứng, thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh đã được tổ chức thành công; đặc biệt là chuỗi hoạt động trong khuôn khổ Diễn đàn “Du lịch Kon Tum - Tiềm năng và triển vọng” năm 2022 và công bố Kế hoạch phát triển du lịch khu vực tam giác phát triển Campuchia - Lào - Việt Nam giai đoạn 2025 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với quy mô cấp quốc gia.
6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 7 năm 2022 đạt 2.582,08 tỷ đồng, giảm 3,94% so với tháng trước và tăng 31,45% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.235,67 tỷ đồng, chiếm 86,54% trong tổng số, giảm 4,39% so với tháng trước và tăng 31% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 220,85 tỷ đồng, chiếm 8,55% trong tổng số, giảm 1,78% so với tháng trước và tăng 43,52% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 125,56 tỷ đồng, chiếm 4,86% trong tổng số, tăng 0,58% so với tháng trước và tăng 27,75% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 7 năm 2022 giảm so với tháng trước là do trong những ngày đầu tháng 7 năm 2022, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh không thuận lợi do thời tiết mưa nhiều ảnh hưởng đến việc kinh doanh.
Tính chung 7 tháng năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính đạt 19.204,3 tỷ đồng, tăng 37,55% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 16.649,02 tỷ đồng, chiếm 86,69% trong tổng số, tăng 39,05% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động trong doanh thu bán lẻ hàng hoá có ngành hàng lương thực, thực phẩm, tăng 38,23%; hàng may mặc, tăng 28,75%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 28,78%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 16,84%; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 42,97%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) tăng 41,38%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 27,97%; Xăng, dầu các loại tăng 239,14%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 8,55%; Hàng hoá khác tăng 18,45%; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 39,46% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.565,32 tỷ đồng, chiếm 8,15% trong tổng số và tăng 36,92% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ khác đạt 989,96 tỷ đồng, chiếm 5,15% trong tổng số, tăng 17,09% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính 7 tháng năm 2022 tăng là do hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng trong 7 tháng có xu hướng phục hồi khi dịch Covid-19 được kiểm soát, cầu tiêu dùng của người dân đã tăng trở lại; Các doanh nghiệp đã sẵn sàng thích ứng an toàn với dịch Covid-19, linh hoạt trong hoạt động để sản xuất kinh doanh, dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành phục hồi mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước, đời sống sinh hoạt của người dân trở về trạng thái của những năm trước dịch Covid-19.
6.2. Hoạt động vận tải, kho bãi
Tháng Bảy, hoạt động vận tải ghi nhận sự phục hồi khá tích cực là tháng cao điểm mùa du lịch nên nhu cầu đi lại của người dân tăng. Vận tải hàng hóa duy trì đà phục hồi từ những tháng trước với sản lượng vận chuyển hàng hoá tăng 87,63% và luân chuyển tăng 84,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng đầu năm 2022, vận chuyển hành khách giảm 2,92%, luân chuyển hành khách giảm 2,0% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 26,11%, luân chuyển hàng hóa tăng 24,36% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải: ước tính tháng 7 năm 2022 đạt 183.476 triệu đồng, tăng 3,19% so với tháng trước và tăng 137,42% so cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2022 đạt 1.234.418 triệu đồng, tăng 23,53% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu vận tải hành khách ước đạt 314.900 triệu đồng, tăng 1,55%; doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 913.419 triệu đồng, tăng 33,51%; Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 6.100 triệu đồng, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hành khách: trong tháng 7 vận chuyển ước đạt 823 nghìn lượt khách, tăng 212,97%; Luân chuyển ước đạt 108.239 nghìn lượt khách.km, tăng 213,79% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng năm 2022 vận chuyển ước đạt 5.611 nghìn lượt khách, giảm 2,92%; Luân chuyển ước đạt 730.304 nghìn lượt khách.km, giảm 2,0% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá: trong tháng 7 vận chuyển ước đạt 1.373 nghìn tấn, tăng 87,63%; Luân chuyển ước đạt 69.555 nghìn tấn.km, tăng 84,5%. Tính chung 7 tháng năm 2022 vận chuyển ước đạt 9.751 nghìn tấn, tăng 26,11%; Luân chuyển ước đạt 488.610 nghìn tấn.km, tăng 24,36% so với cùng kỳ năm trước.
7. Giá cả thị trường
7.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7 năm 2022 tăng 0,41% so với tháng trước; tăng 2,77% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,94% so với tháng 12 năm trước; tăng 7,22% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 7 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,44%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 06 nhóm tăng là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,46%; nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 0,39%; nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,41%; nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,25%; nhóm Giáo dục tăng 0,47%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,25%. Có 04 nhóm giảm là nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,01%; nhóm Giao thông giảm 3,16%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,88%; nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,09%. Có 01 nhóm không biến động giá là nhóm thuốc và dịch vụ y tế.
Cụ thể chỉ số các nhóm hàng so với tháng trước như sau:
- Chỉ số nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,46%, trong đó:
+ Nhóm lương thực: Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,24%, riêng chỉ số nhóm gạo tăng 0,45%, trong đó gạo tẻ thường tăng 0,47%, gạo tẻ ngon tăng 0,49%, gạo nếp tăng 0,01%, nguyên nhân là do sản phẩm trái vụ và do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác giảm 1,93%, trong đó khoai giảm 2,53%, là do sản phẩm đang vào mùa thu hoạch và nhu cầu tiêu dùng giảm.
+ Nhóm thực phẩm: Chỉ số nhóm thực phẩm tăng 1,42%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống tăng 0,81%, trong đó thịt lợn tăng 1,19%; thịt bò tăng 0,08%. Giá thịt lợn tăng là do ảnh hưởng giá thịt lợn hơi tăng và nhu cầu tiêu dùng tăng. Nhóm thịt gia cầm tăng 1,15%, trong đó thịt gà tăng 1,09%, thịt gia cầm khác tăng 1,43%, là do nhu cầu tiêu dùng tăng. Nhóm trứng các loại tăng 2,06%, trong đó trứng tươi các loại tăng 2,09%. Nhóm dầu, mỡ ăn và chất béo khác tăng 1,49%, trong đó dầu thực vật tăng 1,48%, mỡ động vật tăng 1,49% là do tăng theo giá thịt lợn.
Nhóm thủy sản tươi sống tăng 2,75% là do nhóm cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 3,17%; tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 2,27%; thủy, hải sản tươi sống khác tăng 0,91%, nguyên nhân chủ là do lượng cung giảm nên làm cho giá tăng. Nhóm nước mắm, nước chấm tăng 0,65% là do nhu cầu tiêu dùng tăng và ảnh hưởng chi phí lưu thông.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 4,67%, trong đó bắp cải tăng 12,48% (tăng từ 2.000 đồng – 3.000 đồng/kg), cà chua tăng 32,76% (tăng từ 3.000 đồng – 5.000 đồng/kg), rau muống tăng 6,87%, khoai tây tăng 9,31%, rau tươi khác tăng 2,37%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng đồng thời lượng cung giảm do các sản phẩm trên trái vụ. Bên cạnh đó, một số mặt hàng rau giảm là đỗ quả tươi giảm 8,13%, rau dạng củ, quả giảm 2,28% măng tươi giảm 9,48%, rau dạng quả, củ giảm 6,16%, nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm đang vào mùa thu hoạch.
Nhóm quả tươi, chế biến giảm 0,02%, trong đó quả có múi giảm 1,55%, quả tươi khác giảm 0,3%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng giảm đồng thời các sản đang vào mùa thu hoạch.
Nhóm đồ gia vị tăng 0,43%, trong đó bột nêm, bột canh, viên súp tăng 2,22%; Nhóm đường mật tăng 1,02%, trong đó đường tăng 1,81%; Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,92%, trong đó sữa tươi tăng 1,26%, sữa bột người lớn tăng 093%, sữa bột trẻ em tăng 0,63%, sữa chua tăng 3,38%, nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng nên làm cho giá tăng theo; Nhóm chè, cà phê, ca cao tăng 0,33%, trong đó cà phê bột tăng 2,36% là do giá nguyên liệu đầu vào tăng.
Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 2,3%, trong đó ăn ngoài gia đình tăng 2,71%, uống ngoài gia đình tăng 0,51%, nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên liệu đầu vào tăng.
- Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,39%, tác động tăng chủ yếu là do nhóm rượu bia tăng 1,05%, trong đó bia các loại tăng 1,72%. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng tăng và ảnh hưởng chi phí lưu thông tăng.
- Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,41%, trong đó nhóm quần áo may sẵn tăng 0,42%, nhóm mũ nón tăng 0,35%; nhóm giầy, dép tăng 0,66%. Nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng tăng trong tháng mùa du lịch nên các cơ sở kinh doanh tăng giá bán theo quy luật cung cầu.
- Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,25%, tác động chính là do nhóm nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tăng 0,47%; nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,95%; Điện sinh hoạt tăng 0,06% là do trong tháng lượng điện tiêu dùng tăng làm cho giá bình quân tăng. Riêng giá gas giảm 1,6%, giảm (giảm 7000 đồng/bình 12kg từ ngày 01/7/2022); giá dầu hỏa qua ba đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào các ngày 01,11, 21 tháng 7 giảm 1,32%; nước sinh hoạt giảm 3,37% là do trong tháng nhu cầu tiêu dùng giảm làm cho giá bình quân giảm.
- Chỉ số nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,01%, giảm chủ yếu là do máy điều hòa nhiệt độ giảm 0,33%, đồ dùng nấu ăn giảm 0,53%, giường, tủ bàn, ghế giảm 0,15%. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tiêu dùng giảm nên các cơ sở kinh doanh giảm giá kích cầu.
- Chỉ số nhóm giao thông giảm 3,16%, tác động chính là do nhóm nhiên liệu giảm 8,43%, do trong tháng có đợt điều chỉnh giá xăng, dầu ngày 01/7/2022, ngày 11/7/2022 và ngày 21/7/2022, tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá xăng giảm 8,72%, dầu diezel 0,05S-II giảm 4,03%.
- Chỉ số nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,88% là do thiết bị điện thoại giảm 2,51%, trong đó máy điện thoại di động thông thường giảm 2,67%, máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 1,85%, nguyên nhân là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động để kích cầu.
- Chỉ số nhóm giáo dục tăng 0,47% là do nhóm văn phòng phẩm tăng 2,08%, trong đó sản phẩm từ giấy tăng 2,17%, sách giáo khoa tăng 3,01%. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu mua sắm sách, vở cho học sinh chuẩn bị vào năm học mới tăng mạnh nên làm cho giá tăng theo quy luật cung cầu.
- Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,09% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 0,92%, trong đó ti vi màu giảm 0,96%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá kích cầu. Nhóm hoa, cây cảnh, vật cảnh giảm 0,43% do cây, hoa cảnh giảm 1,05%.
- Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,25% là do nhóm dịch vụ phục vụ cá nhân tăng 5,05%, trong đó cắt tóc gội đầu tăng 5,13%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở dịch vụ tăng giá.
- Các mặt hàng nhóm thuốc và dịch vụ y tế không có biến động về giá.
7.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ trên địa bàn tỉnh
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng giảm so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 7/2022 được bán với giá bình quân khoảng 6.471.000 đồng/chỉ, giảm 1,6% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 23.557 đồng/USD, tăng 0,59%.
8. Một số tình hình xã hội
8.1. Về y tế
a) Tình hình dịch bệnh trong tháng
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19): Trong tháng, không có ca tử vong, ghi nhận 01 ca mắc mới, giảm 69 ca so với tháng trước. Lũy tích tổng số ca mắc từ đầu năm 2022 đến ngày 30/6/2022 ghi nhận 29.465 ca mắc và đã kết thúc cách ly điều trị.
Tay - chân - miệng: Trong tháng, ghi nhận 11 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 6, Đăk Hà 3, Sa Thầy 2). Lũy tích đến 30/6/2022, không có tử vong, ghi nhận 16 ca mắc, giảm 35 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 17 ca mắc mới (Đăk Tô 6, Ngọc Hồi 1, Đăk Glei 2, Tu Mơ Rông 5, Kon Rẫy 2, Sa Thầy 1). Lũy tích đến 30/6/2022, không có tử vong, ghi nhận 102 ca, giảm 125 ca so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 2 ca mắc mới (Đăk Tô 1, Đăk Glei 1). Lũy tích đến 30/6/2022, không có tử vong, ghi nhận 18 ca mắc, giảm 16 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 35 ổ dịch mới (thành phố Kon Tum 11, Đăk Hà 7, Ngọc Hồi 5, Đăk Glei 1, Kon Rẫy 3, Sa Thầy 5, Ia H'Drai 3). Lũy tích đến 30/6/2022, không có ca tử vong, ghi nhận 140 ca mắc mới, giảm 54 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt rét: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích đến 30/6/2022, không có ca tử vong, không có ca mắc sốt rét ác tính, ghi nhận 3 ca mắc (Tu Mơ Rông 1, Ia H’Drai 2).
Bệnh viêm gan vi rút A: Trong tháng, ghi nhận 2 ca mắc mới (huyện Sa Thầy). Lũy tích đến 30/6/2022, không có ca tử vong, ghi nhận 6 ca mắc (thành phố Kon Tum 2, Sa Thầy 4), tăng 6 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm 2022, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), cúm A (H1N1), bệnh do vi rút Zika, bạch hầu, dại, ho gà, sởi, viêm não Nhật Bản.
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 42 người, trong đó lao phổi AFB (+) 30. Không ghi nhận bệnh nhân phong mới; tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 165 người; quản lý và điều trị bệnh nhân phong tại khu điều trị phong Đăk Kia (là trại viên) đang quản lý 56 người.
b) Tiêm chủng mở rộng
Triển khai các đợt tiêm nhắc lần 1 và tiêm nhắc lần 2 vắc xin phòng Cơvid-19 cho người từ 18 tuổi trở lên; đợt 3, 4 chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi; các đợt tiêm nhắc vắc xin phòng Covid-19 cho đối tượng từ 12 đến 17 tuổi, kết quả đến 30/6/2022:
- Tỷ lệ người đã tiêm đủ mũi (Abdala 03 mũi, loại khác 02 mũi): Người ≥18 tuổi đạt 98,6%; trẻ từ 12-17 tuổi đạt 96,8%; trẻ từ 5-dưới 12 tuổi đạt 23,4%.
- Tỷ lệ người được tiêm vắc xin phòng Covid-19 (mũi 1): 99,6% người từ 18 tuổi trở lên; 99,9% trẻ từ 12-17 tuổi; 69,2% trẻ từ 5-dưới 12 tuổi và 94,1% người từ 05 tuổi trở lên.
- Tỷ lệ người từ 18 tuổi trở lên đã tiêm liều nhắc lại (lần 1) 64,1% và đã tiêm liều nhắc lại (lần 2) 30,2%. Tỷ lệ người từ 12-17 tuổi đã tiêm liều nhắc lại 9,25%.
c) Phòng chống HIV/AIDS
Trong tháng, ghi nhận 3 ca nhiễm HIV mới, 2 bệnh nhân HIV chuyển sang giai đoạn AIDS và 3 bệnh nhân tử vong. Lũy tích đến ngày 30/6/2022, tổng số nhiễm HIV/AIDS 549 người, trong đó tử vong 200 người và còn sống 349 người (quản lý được 191 người). Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 158 người (9 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 4 người.
d) Truyền thông, giáo dục sức khỏe
Sở Y tế phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh thực hiện 02 phóng sự tuyên truyền phòng chống bệnh các bệnh truyền nhiễm (sốt xuất huyết, bệnh đậu mùa khỉ). Phối hợp với Đài Truyền thanh - Truyền hình thành phố Kon Tum tổ chức phát 14 lượt thông điệp phát thanh tuyên truyền tiêm vắc xin phòng Covid-19 liều nhắc lại lần 1 (mũi 3) và lần 2 (mũi 4). Sản xuất, cấp phát 03 thông điệp tuyên truyền về bệnh sốt xuất huyết, đậu mùa khỉ và tiêm vắc xin phòng Covod-19 liều nhắc lại lần 1 (mũi 3) và lần 2 (mũi 4).
Dự báo thời gian tới sẽ bước vào những tháng cao điểm mùa dịch, nguy cơ sốt sốt xuất huyết Dengue trên địa bàn tỉnh sẽ tiếp tục có những diễn biến hết sức phức tạp, có khả năng lây lan trong cộng đồng. Để chủ động phòng, chống dịch bệnh sốt xuất huyết Dengue, kiên quyết không để dịch bùng phát, lan rộng và kéo dài theo chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ Y tế tại Công điện số 815/CĐ-BYT ngày 21 tháng 6 năm 2022. Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Công văn về việc tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống sốt xuất huyết Dengue[1].
e) An toàn vệ sinh thực phẩm
Giám sát chất lượng thực phẩm và tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với nhà hàng, dịch vụ nấu ăn, dịch vụ tiệc cưới.
Kiểm tra, giám sát việc lưu hành sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe chứa chất cấm theo Công văn số 993/ATTP-PCTTR ngày 19/5/2022 của Cục An toàn thực phẩm đối với 124 cơ sở. Hầu hết thực phẩm chức năng được bán tại các cơ sở được kiểm tra đều có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ và nhãn hàng hóa theo quy định; Có trang bị tủ hoặc bố trí vị trí riêng để trưng bày thực phẩm chức năng.
Kiểm tra, giám sát an toàn thực phẩm phục vụ Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022 lồng ghép trong quá trình kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở dịch vụ ăn uống (đang triển khai).
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 6 năm 2022, xảy ra 09 trường hợp ngộ độc thực phẩm do ăn uống không bảo đảm vệ sinh.
8.2. Về giáo dục
Sau 2 ngày thi, chiều ngày 8/7 hơn 4.751 thí sinh trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 một cách tốt đẹp, an toàn. Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2022 trên địa bàn tỉnh có 12 điểm thi (05 Điểm thi tại thành phố Kon Tum, 07 Điểm thi tại các huyện), đã được tổ chức thành công trọn vẹn, vừa đảm bảo an ninh, an toàn vừa đảm bảo chất lượng và đúng quy chế. Suốt thời gian thi, vấn đề đảm bảo an toàn trong phòng, chống dịch được các điểm thi quan tâm đúng mức. Công tác tổ chức thi được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình, quy định.
Ngành Giáo dục đã phối hợp với các địa phương, ban, ngành trong tỉnh tổ chức hiệu quả, an toàn, nghiêm túc kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 trường THPT chuyên, tuyển sinh lớp 10 các trường THPT, Phổ thông DTNT, tuyển sinh vào lớp 6 các trường THCS trên địa bàn, năm học 2022-2023.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Công văn về việc tăng cường triển khai công tác xây dựng văn hóa học đường[2]; Công văn về việc tuyên truyền, phổ biến và triển khai chính sách tín dụng đối với cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid - 19[3].
8.3. Về văn hóa, thể dục thể thao
Sáng 14/7/2022, Cụm thi đua Công đoàn ngành và tương đương khai mạc Giải cầu lông Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động. Tham gia giải có 4 đơn vị với gần 50 vận động viên đến từ các công đoàn cấp trên cơ sở thuộc Cụm thi đua Công đoàn ngành và tương đương. Giải diễn ra trong 2 ngày 14 - 15/7 với 5 nội dung: Đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ, đôi nam nữ.
Sáng 02/7/2022, Công an tỉnh tổ chức khai mạc Hội thao chào mừng kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát nhân dân (20/7/1962 – 20/7/2022). Hội thao diễn ra trong 4 ngày (từ ngày 2-5/7) với 6 bộ môn thi đấu gồm: Quần vợt, bóng chuyền, môn chiến sỹ công an khoẻ, bóng đá, kéo co, đẩy gậy. Tham gia hội thao có 16 đoàn với hơn 1.000 vận động viên là cán bộ, chiến sĩ đến từ các đơn vị trực thuộc Công tan tỉnh. Hội thao là dịp gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong công tác và các phong trào luyện tập thể dục, thể thao, đồng thời tạo sân chơi bổ ích sau thời gian làm việc, góp phần nâng cao sức khỏe, đời sống tinh thần trong cán bộ, chiến sỹ công an.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Công văn về việc tổ chức Hội thi cồng chiêng, xoang các dân tộc thiểu số lần thứ Nhất - 2022[4].
8.4. Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương
Công tác đấu tranh ngăn chặn, xử lý các loại tội phạm tiếp tục được chỉ đạo thực hiện quyết liệt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Hoạt động của tội phạm theo băng, nhóm, tội phạm liên quan đến “tín dụng đen” được đấu tranh, triệt xóa, không có băng, nhóm hoạt động phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, cụ thể:
Phạm tội về trật tự xã hội: Trong tháng, phát hiện 29 vụ (giảm 08 vụ so tháng trước), hậu quả, thiệt hại: 04 người bị thương, thiệt hại về tài sản khoảng 2,1 tỷ đồng.
Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 01 vụ buôn bán hàng cấm trên địa bàn huyện Ngọc Hồi (giảm 02 vụ so tháng trước).
Phạm tội về ma túy: Phát hiện 05 vụ (giảm 03 vụ so tháng trước), gồm: Tàng trữ trái phép chất ma túy 03 vụ; Vận chuyển trái phép chất ma túy 01 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ 143,531g ma túy tổng hợp.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng làm 06 người chết, 03 người bị thương (giảm 04 vụ, giảm 06 người chết, tăng 06 người bị thương so tháng trước). Thiệt hại về tài sản: 03 ô tô, 08 mô tô ước tính khoảng 97 triệu đồng.
Tình hình cháy, nổ, sự cố, tai nạn: Không xảy ra.
8.5. Tình hình môi trường
a) Vi phạm môi trường
Trong tháng không phát hiện vụ vi phạm môi trường.
b) Tình hình thiên tai
- Diễn biến thiên tai: Theo báo cáo tổng hợp của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai - tìm kiếm cứu nạn và phòng thủ dân sự tỉnh. Từ ngày 20/6/2022 đến ngày 19/7/2022 tỉnh Kon Tum chịu ảnh hưởng của gió Tây nam cường độ mạnh. Thời tiết các khu vực: Nhiều mây, ngày nắng yếu có mưa, mưa vừa nhiều nơi, và mưa to từ ngày 4-13/7/2022 lượng mưa đo được tại các huyện là 1.494 mm.
- Tình hình thiệt hại
Về người: Không phát sinh thiệt hại về người.
Về nông nghiệp: Sạt lỡ một số đất trồng lúa khoảng 1ha.
Về cơ sở hạ tầng: Sạt lở mố cầu treo tại thôn 7 xã Đăk La, huyện Đăk Hà. Hiện điểm sạt lở còn cách mố dây cáp treo của cầu khoảng 3m và cách mố cầu treo khoảng 5m. (thôn 7, xã Đăk La, huyện Đăk Hà).
Tổng giá trị thiệt hại trong tháng 7 ước tính khoảng 75 triệu đồng. Luỹ kế từ đầu năm tổng giá trị thiệt hại ước tính khoảng 725 triệu đồng. Trong tháng không ghi nhận thiệt hại về nhà ở, y tế, văn hóa, giáo dục, công nghiệp, giao thông, thủy lợi./.
[1] Công văn số 2055/UBND-KGVX ngày 30 tháng 6 năm 2022.
[2] Công văn số 2249/UBND-KGVX ngày 14 tháng 7 năm 2022.
[3] Công văn số 1968/UBND-KGVX ngày 24 tháng 6 năm 2022.
[4] Công văn số 2190/UBND-KGVX ngày 11 tháng 7 năm 2022.
File đính kèm: BC_so_lieu_thang_7_2022(Kon_Tum).pdf
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum