Báo cáo của Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23 tháng 8 năm 2013.
I. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG
Kinh tế thế giới trong 8 tháng đầu năm tiếp tục trên con đường hồi phục, tuy nhiên vẫn rất chậm chạp. Mặc dù ở thời điểm đầu năm, một số nền kinh tế lớn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công tại Châu Âu, bước sang Quý II, tình hình đã trở nên sáng hơn khi kinh tế Mỹ, Nhật Bản và các nước EU bắt đầu có bước hồi phục rõ nét. Đặc biệt là đối với Nhật Bản, ngày 11/7/2013, Ngân hàng Nhật Bản nâng mức đánh giá kinh tế Nhật Bản trong tháng thứ 7 liên tiếp và khẳng định kinh tế Nhật Bản “bắt đầu phục hồi ở mức vừa phải” trong bối cảnh niềm tin của các doanh nghiệp cải thiện và tiêu dùng gia tăng vững chắc. Mặc dù vậy, tại Trung Quốc, sự phát triển quá nóng trong hơn một thập kỷ trước cũng đã bắt đầu giảm dần, tăng trưởng GDP của Trung Quốc giảm tốc quý thứ hai liên tục và có nguy cơ còn suy giảm thêm trong bối cảnh tín dụng bị siết chặt nhằm kiểm soát rủi ro xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính, thêm vào đó tình trạng lạm phát tăng cao trở lại. Bên cạnh những tin tức về tình hình của các nền kinh tế lớn thế giới, sự bất ổn về chính trị tại Trung Đông, Ai Cập… và các tranh chấp về chủ quyền tại một số khu vực cũng gây ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế thế giới.
Trước bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới và kinh tế trong nước nói chung, ngày 07/01/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013 và Nghị quyết số 02/NQ-CP về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu. Trên cơ sở đó, các Bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai 02 Nghị quyết nêu trên. Chính vì vậy, sau 8 tháng đầu năm, kinh tế vĩ mô nước ta cũng đã có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, tình hình tiêu dùng có được cải thiện. Mặc dù vậy, kinh tế nước ta vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, lạm phát vẫn có nguy cơ tăng cao trở lại, khi tất cả các tỉnh, thành phố thực hiện tăng giá dịch vụ y tế, học phí (Hà Nội thực hiện tăng giá dịch vụ y tế, thành phố Hồ Chí Minh tăng học phí từ đầu tháng 8); giá một số mặt hàng do nhà nước quản lý được điều chỉnh tăng như xăng dầu, điện… kéo theo sự tăng giá của nhiều hàng hóa và dịch vụ thiết yếu như lương thực, thực phẩm, dịch vụ vận tải, dịch vụ ăn uống ngoài gia đình… Ngoài ra, tình hình mưa bão, dịch bệnh trong những tháng cuối năm sẽ ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và nguồn cung lương thực, thực phẩm cho những tháng cuối năm, khi mà tiêu dùng của người dân thường có xu hướng tăng cao, từ đó sẽ dẫn tới khả năng tăng giá của các mặt hàng thiết yếu này.
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN THÁNG 8 VÀ 8 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
1. Phát triển các ngành du lịch
Tháng 8/2013 tình hình thiên tai bão lụt diễn biến phức tạp trên khắp cả nước, đặc biệt là ở một số tỉnh miền núi phía Bắc có các khu du lịch nổi tiếng thu hút nhiều khách du lịch quốc tế như Lào Cai, Hòa Bình, Sơn La, Bắc Kạn... đã gây ra những tác động lớn đến ngành du lịch. Nhiều khách du lịch đã bị kẹt lại ở nhưng địa phương bị thiên tai nhiều ngày, do cơ sở hạ tầng bị phá huỷ. Chính sự việc này đã tác động tiêu cực đến hình hành ngành du lịch của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong tháng 8 ở một số địa phương khác ngành du lịch Việt Nam đã tích cực tổ chức các lễ hội lớn nhằm quảng bá và thu hút khách du lịch quốc tế đến với các địa phương này như: Liên hoan Văn hóa mùa nước nổi Búng Bình Thiên (An Giang), Lễ đón nhận “Bằng công nhận Di sản văn hóa cấp quốc gia cho Dân ca Ví, giặm Nghệ Tĩnh” và khai mạc Liên hoan Dân ca Ví, giặm lần thứ 2 tại Hà Tĩnh, triễn lãm Tinh hoa cổ vật Phật giáo tại Đà Nẵng, liên tiếp các đoàn khách du lịch kết hợp dự hội nghị, hội thảo và tìm kiếm cơ hội đầu tư (MICE) với số lượng lớn đến Việt Nam nổi bật là Hội thảo hướng dẫn thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề Du lịch trong ASEAN (Mutual Recognition Arrangement - MRA), ngoài ra Quảng Bình đã chính thức đưa vào khai thác tour du lịch mới với tên gọi Một ngày với di sản Phong Nha – Kẻ Bàng...
Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong tháng 8 ước đạt 600.000 lượt tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2012 và giảm 8,6% so với tháng 7/2013. Tổng số khách du lịch quốc tế trong 8 tháng ước đạt hơn 4,7 triệu lượt khách, tăng 3,9% so cùng kỳ năm ngoái.
Khách du lịch quốc đến Việt Nam trong tháng 7 chủ yếu từ một số thị trường như: Trung Quốc,Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysisa, Thái Lan, Anh, Hà Lan, Bỉ, Na Uy, Nga, Úc…
Xét theo phương tiện đi lại, số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong 8 tháng chủ yếu vẫn bằng đường hàng không, tuy nhiên trong 8 tháng số lượng khách du lịch đi bằng đường biển đến cảng Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Ninh,… và bằng đường bộ từ Thái Lan đến miền Trung của Việt Nam qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, Cầu Treo cũng tăng đáng kể, chính những yếu tố này đã góp phần làm sôi động hơn ngành du lịch của Việt Nam, đặc biệt là khu vực miền Trung.
(Số liệu ước tính của Vụ Kinh tế dịch vụ)
2. Xuất, nhập khẩu
a. Xuất khẩu
8 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu ước đạt 84,8 tỷ USD, tăng 14,7%so với cùng kỳ năm 2012; trong đó, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 51,2 tỷ USD, tăng 26% và chiếm 60,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 56,1 tỷ USD, tăng 21,7%. Xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 28,7 tỷ USD, tăng 3,1%.
b. Nhập khẩu
8 tháng đầu năm 2013, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước ước đạt 85 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 48,1 tỷ USD, tăng 24,5% và chiếm 56,6% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhập khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt gần 37 tỷ USD, tăng 3,4%.
c. Một số nhận xét về tình hình xuất nhập khẩu 8 tháng:
- Xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn giữ vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu chung, trong đó có 2 mặt hàng là điện thoại các loại và linh kiện và máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện góp phần làm kim ngạch tăng thêm 7,75 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng trưởng khoảng 20% so với cùng kỳ, trong khi đó nhóm hàng nông sản, thủy sản giảm 8% và nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm 15%.
- Khu vực FDI tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 8 tháng năm 2013 của cả nước tăng thêm 10,9 tỷ USD so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch của khu vực FDI (không kể dầu thô) tăng 10,6 tỷ USD (đóng góp hơn 97% kim ngạch tăng thêm). Các mặt hàng có kim ngạch lớn và có tốc độ tăng trưởng cao đều do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện đóng góp 99%; máy vi tính linh kiện và điện tử 98%; giầy dép 77%; hàng dệt may 60%; máy ảnh 99%.
- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 8 tháng năm 2013 của khu vực FDI là 24,5% cao hơn so với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu chung (14,4%) của cả nước, do các mặt hàng chủ lực của khu vực này chủ yếu là gia công, lắp ráp, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Nhập khẩu của cả nước tăng 10,7 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu của khu vực FDI tăng 9,5 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng của khối doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng cao gồm điện thoại các loại và linh kiện 87,5%; máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện 92%; vải các loại 61%; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy 67%.
- 8 tháng năm 2013, cả nước nhập siêu 176 triệu USD, bằng 0,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu 3,2 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 8 tỷ USD. Nhập siêu của khu vực doanh nghiệp trong nước ước đạt 8,2 tỷ USD.
3. Phát triển thị trường trong nước
3.1. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
3.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (gọi tắt là tổng mức bán lẻ) tháng 8/2013 ước đạt khoảng 216.397 tỷ đồng, tăngkhoảng 0,69% so với tháng 7/2013. Tính cả 8 tháng đầu năm 2013, tổng mức cả nước ước đạt 1.705.925 tỷ đồng, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2012.
Theo Tổng Cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 7/2013 tăng 0,27% so với tháng 6/2013, đưa chỉ số giá tiêu dùng trong 7 tháng đầu năm 2013 lên 2,68% so với tháng 12/2012.
Một số yếu tố tác động tới CPI tháng 8 như: (1) Giá xăng dầu bán lẻ tăng từ ngày 17/7/2013 (thuộc kì tính CPI tháng 8), giá điện tăng từ 1/8/2013); (2) Tình hình mưa bão diễn ra liên tục, ảnh hưởng tới nguồn cung lương thực, thực phẩm, đặc biệt là rau quả cho các thành phố lớn; (3) Hà Nội thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và thành phố Hồ Chí Minh điều chỉnh tăng học phí.
Do đó, CPI tháng 8 tăng 0,83% so với tháng 7/2013, đưa CPI 8 tháng đầu năm tăng 3,53% so với tháng 12/2012.
3.3. Kết quả thực hiện của một số ngành hàng trọng yếu
a. Xăng dầu
Những lo ngại về gián đoạn nguồn cung do sản lượng dầu thô khai thác và xuất khẩu của Libya bị suy giảm nặng vì bao lực và đình công, kéo lượng dầu thô xuất khẩu của nước này xuống mức thấp nhất kể từ cuộc nội chiến 2011, trong khi đó dự báo lượng dự trữ dầu thô của Mỹ có thể giảm xuống mức 1,4 triệu thùng/ngày đã làm cho giá dầu thế giới có những sự tăng giảm với biên độ lớn trong những phiên giao dịch trong tháng 8. Tại sàn Nymex, dầu thô WTI giao tháng 10 hiện tăng lên mức 105,23 USD/thùng; giá giao tháng 09 hết hạn hôm 20/8 giảm xuống mức 104,96 USD/thùng. Tại sàn ICE London, dầu thô Brent giao tháng 10 giảm còn 110,10 USD/thùng.
Tại thị trường trong nước, giá bán lẻ xăng dầu chưa có sự điều chỉnh, hiện mặt hàng xăng A92 đang được bán lẻ ở mức 24.570 đồng/lít, dầu diesel giá 22.260 đồng/lít.
b. Sắt thép
Tình hình sản xuất thép tháng 8 có xu hướng tăng nhẹ, trong khi tiêu thụ có xu hướng giảm nhẹ so với tháng 7/2013 do đã bước vào mùa mưa bão, đặc biệt là theo truyền thống, trong tháng 7 âm lịch, các hoạt động xây dựng có xu hướng trầm lắng, ít công trình khởi công mới. Do đó, giá bán thép tháng 8 cũng có xu hướng giảm nhẹ so với tháng trước.
c. Xi măng
Tương tự như sắt thép, sản xuất và tiêu thụ xi măng tháng 8 cũng chậm lại so với xu hướng tăng của tháng 7/2013. Nguồn cung xi măng tiếp tục ổn định, do đó, giá bán xi măng giảm nhẹ so với tháng trước.
d. Phân bón
Trong nước, nhu cầu phân bón vẫn đang ở trong giai đoạn thấp khi Vụ Hè Thu đã kết thúc, và Vụ Thu Đông nhu cầu phân bón không lớn, trong khi nguồn cung từ sản xuất nội địa và nhập khẩu từ trung quốc đều tăng. Do đó, giá phân bón các loại tiếp tục giảm nhẹ so với tháng trước.
đ) Lương thực
- Thế giới:
Gạo 5% tấm tại các nước: Thái Lan giá chào gạo xuất khẩu hiện phổ biến ở mức 475-485 USD/ tấn giảm khoảng 15-20 USD/tấn so với tháng trước, Pakistan 420-430 USD/tấn giảm khoảng 20-25USD/tấn so với tháng 6, gạo Ấn Độ 435-445USD/tấn giảm khoảng 5 -10USD/tấn so với tháng trước, Việt Nam ở mức 385-395 USD/tấn tăng khoảng từ 5-10USD/tấn so với tháng 6 do bước vào thực hiện Chương trình mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo của Chính phủ và dân giữ gạo lại, hy vọng giá bán sẽ tăng lên trong thời gian tới.
Gạo 25% tấm: Thái Lan 450-460 USD/tấn giảm khoảng 30 USD/tấn so với tháng 6 ở mức (480-490USD/tấn), gạo Ấn Độ 390-400 USD/tấn giảm 5 USD/ tấn so với tháng 6 ở mức (395-405USD/tấn), Pakistan 370-380 USD/tấn giảm khoảng 20 USD/tấn so với tháng 6 ở mức (390-400USD/tấn), Việt Nam ở mức 350-360 USD/tấn 355 đến 365 USD/tấn, giảm khoảng 5 USD/tấn.
Như vậy, giá lúa gạo thế giới tháng 7 có xu hướng giảm nhẹ do nguồn cung dồi dào và do Chính phủ Thái Lan dự kiến sẽ bán khoảng 350.000 tấn gạo trong tuần tới, và sẽ bán thêm từ kho dự trữ nên tác động đến giá gạo thế giới giảm nhẹ.
- Trong nước:
Hiện giá lúa gạo phổ biến ở mức:
Đơn vị: đồng/kg
|
Lúa tẻ thường
|
Gạo tẻ thường
|
Phía Bắc
|
7.000 - 7.500
|
12.500 - 13.500
|
Phía Nam
|
4.800 - 4.900
|
7.500 - 7.600
|
- Về xuất khẩu gạo: Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam dự kiến sẽ xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo trong nửa cuối năm 2013, đưa tổng lượng xuất khẩu cả năm lên khoảng 7,5 triệu tấn.
- Về tồn kho gạo: Tính đến tháng 30/6/2013 tồn kho gạo cả nước khoảng 1,75 triệu tấn, chưa kể gạo tồn trong dân.
- Dự báo: Giá lúa gạo thế giới và trong nước tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm nhẹ do nguồn cung dồi dào và nhu cầu chưa tăng cao.
e) Thực phẩm
- Giá các loại thực phẩm, rau, củ, quả: Tháng 7/2013 giá thực phẩm và các loại rau củ quả tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm nhẹ do thời tiết thuận lợi và nguồn cung dồi dào. Các loại thực phẩm tươi sống như thịt bò, thịt lợn, thịt gà, thủy hải sản… giá ổn định, riêng trứng gia cầm có giảm nhẹ so với tháng trước từ 20000-30000đ/chục quả.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH NHỮNG THÁNG CUỐI NĂM 2013
1. Về du lịch
- Triển khai quyết liệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, Chương trình hành động quốc gia về du lịch và chương trình xúc tiến du lịch quốc gia giai đoạn 2012-2015 đã được phê duyệt nhằm tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch.
- Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch hướng dẫn các địa phương, các vùng sớm điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch cho phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển du lịch.
- Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh quy định về lệ phí visa và tiếp tục duy trì chính sách miễn thị thực nhập cảnh cho khách du lịch một số nước là thị trường du lịch trọng điểm của du lịch Việt Nam.
- Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm 2013 cho các doanh nghiệp du lịch và thương mại dịch vụ tham gia Chương trình kích cầu du lịch năm 2013,
- Áp dụng thí điểm hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch, đồng thời tiếp tục đề xuất chính sách ưu đãi, khích lệ khách du lịch tăng cường mua sắm tại Việt Nam.
- Các địa phương chủ động đưa ra chính sách biện pháp kích cầu như bãi bỏ quy định cấm hoặc cấp giấy phép con đối với xe vận chuyển khách du lịch, tạo điều kiện cho xe vận chuyển khách du lịch lưu thông trong và ngoài đô thị; đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch, đặc biệt giảm tối thiểu tình trạng cướp giật, lừa đảo khách du lịch ở các trung tâm du lịch, điểm du lịch.
2. Về xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu
- Chú trọng nâng cao chất lượng để tăng giá trị với nhóm hàng sản xuất truyền thống (đặc biệt là nông, lâm, thủy sản) không có điều kiện tăng nhiều về khối lượng. Mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng thực hiện kế hoạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, ổn định xã hội.
- Tăng cường xúc tiến thương mại, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác, mở rộng thị trường xuất khẩu, không để lệ thuộc quá lớn vào một thị trường. Nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời thông tin thị trường; sớm phát hiện và có biện pháp vượt qua các rào cản kỹ thuật.
- Ưu tiên cấp tín dụng, bảo đảm đủ vốn cho nông dân và doanh nghiệp mua gom nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa ngoại tệ trong giao dịch. Có quy chế để ngân hàng thương mại bảo đảm lãi suất cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu vay theo quy định, không phát sinh thêm chi phí.
Kiểm soát nhập khẩu- Tiếp tục triển khai một loạt biện pháp về bình ổn thị trường, bảo đảm cân đối cung - cầu các mặt hàng thiết yếu trên cơ sở nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo tình hình thị trường. Phối hợp các Hiệp hội, Bộ, ngành đánh giá nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng và khả năng đáp ứng của sản xuất trong nước để có biện pháp hạn chế cụ thể với từng mặt hàng.
- Bộ Công Thương chủ trì xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường sử dụng máy móc vật tư, thiết bị sản xuất trong nước theo chỉ đạo của Chính phủ.
- Các giải pháp về thuế: Trong ngắn hạn, đối với nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu, cần nghiên cứu bổ sung thêm số lượng mặt hàng cần tăng thuế suất; Xem xét phương án bổ sung số lượng mặt hàng có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan để kiểm soát chặt chẽ hơn số lượng nhập khẩu.
- Đối với kinh tế biên mậu: Xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để một mặt thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, một mặt kiểm soát chặt chẽ lượng hàng hóa nhập khẩu từ các quốc gia láng giềng, trong đó chú trọng về các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng.
- Tăng cường công tác hậu kiểm về chất lượng, an toàn vệ sinh đối với sản phẩm nhập khẩu và lưu thông theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn; thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng và tạo hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu, kiểm soát việc nhập nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu...
- Rà soát các Hiệp định thương mại song phương và đa phương đã ký kết và cẩn trọng trong việc đẩy mạnh đàm phán ký kết các Hiệp định mới. Các Hiệp định thương mại quốc tế một mặt tạo cơ hội thúc đẩy xuất khẩu cho hàng Việt Nam, mặt khác cũng gây nguy cơ nhập siêu nếu không đàm phán chặt chẽ.
- Tiếp tục nhấn mạnh nhóm biện pháp thông tin tuyên truyền, nhất là chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, coi đây là một kênh gián tiếp nhằm tăng tỷ lệ sử dụng hàng Việt Nam, qua đó giảm tỷ lệ hàng nhập khẩu.
3.Về phát triển thị trường trong nước
3.1. Giải pháp chung
- Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục khẩn trương triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NĐ-CP và 02/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ, nhằm hiện thực hóa các chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước khôi phục và thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng.
- Tập trung cho công tác xúc tiến thương mại thị trường trong nước, ưu tiên triển khai nhiều chương trình trong khuôn khổ của cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” như tổ chức các hội chợ, triển lãm, đưa hàng hoá về nông thôn... nhằm kích thích tiêu dùng, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm, giải quyết tồn kho cho doanh nghiệp,tháo gỡ khó khăn cho sản xuất. Đặc biệt, cần đẩy mạnh chương trình đưa hàng hóa về nông thôn, một mặt đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân (người dân ở nông thôn có tích lũy, tiết kiệm nhưng ít có điều kiện tiếp xúc với các hàng hóa có chất lượng tốt, đa dạng về mẫu mã chủng loại, hàng Việt Nam chất lượng cao...), mặt khác sẽ giúp doanh nghiệp giảm được hàng tồn kho, thu lại được vốn, quay vòng cho sản xuất kinh doanh.
- Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tính toán các yếu tố đầu vào, tiết giảm chi phí, khơi thông đầu ra cho hàng hóa bằng cách củng cố hệ thống phân phối để sản phẩm hàng hóa từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng ở mức giá thấp nhất, giảm tồn kho sản phẩm.
- Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, đầu cơ, găm hàng gây sốt giá ảo, đặc biệt là đối với các hàng hóa thiết yếu như lương thực, xăng dầu, xi măng, sắt thép, dược phẩm. Rà soát và tăng các chế tài xử phạt đối với các hành vi gian lận thương mại; đầu cơ; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến lĩnh vực thương mại, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý và đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển hệ thống đại lý phân phối tại các tỉnh, thành phố, hỗ trợ các địa phương xây dựng các chợ dân sinh...
Một trong những giải pháp để tháo gỡ khó khăn về đầu ra cho doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề tồn kho cần phải kích tổng cầu của nền kinh tế, trong đó có đầu tư công của Chính phủ và tiêu dùng của người dân ngay tại thị trường nội địa:
- Trước hết, phải tăng thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của dân cư. Việc điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu kể từ tháng 7 năm 2013 của Chính phủ là một cố gắng lớn trong điều kiện ngân sách còn nhiều khó khăn, bội chi ngân sách còn lớn.
- Thứ hai, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đến độ tuổi lao động.
- Thứ ba, kích cầu đầu tư thông qua việc đẩy mạnh giải ngân thi công các công trình, xử lý nợ xấu, tăng trưởng tín dụng, hạ lãi suất cho vay, trả nợ xây dựng cơ bản, phát hành trái phiếu Chính phủ… Kích cầu tiêu dùng, nhưng phải vào việc tiêu dùng các hàng hóa sản xuất trong nước, đẩy mạnh hơn nữa phong trào tích cực hưởng ứng Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
- Về phía doanh nghiệp, để giải quyết hàng tồn kho, không chỉ giảm giá mà phải chú trọng khâu chăm sóc khách hàng, thậm chí chấp nhận lợi nhuận ít, tạo điều kiện để doanh nghiệp đối tác có vốn.
3.2. Giải pháp đối với các mặt hàng trọng yếu
a) Xăng dầu
- Bộ Công Thương khẩn trương hoàn chỉnh dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu trình Chính phủ xem xét, ban hành để có cơ sở điều hành về giá bán lẻ xăng dầu phù hợp trong thời gian tới.
- Bộ Tài chính cần sớm xây dựng Thông tư hướng dẫn về việc trích lập, sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu làm cơ sở cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu áp dụng trong từng thời điểm, đảm bảo tính ổn định, công khai, minh bạch.
- Tăng cường công tác nghiệp vụ, chuyên môn về dự báo và phân tích, đánh giá, nhận định thị trường về giá dầu thô thế giới.
b) Sắt thép
- Xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế thép rẻ kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước.
- Chỉ đạo các công ty sản xuất thép của Nhà nước tập trung đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành để đảm bảo cạnh tranh được với thép kém chất lượng nhập từ nước ngoài.
- Bộ Công Thương cần phối hợp với Hiệp hội thép nghiên cứu giá bán điện, than phù hợp để giúp các doanh nghiệp phục hồi sản xuất, đồng thời giảm giá thành sản phẩm.
- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thép và hạn chế nhập siêu.
c) Phân bón
- Các doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị nguồn hàng để đảm bảo đáp ứng nhu cầu, tránh tăng giá đột biến, đặc biệt khi bước vào cao điểm mùa vụ.
- Tăng cường năng lực vận chuyển, đảm bảo cung ứng phân bón giữa các vùng, miền được thông suốt.
- Theo dõi chặt chẽ giá phân bón thế giới để có biện pháp điều tiết nhập khẩu và sản xuất phù hợp, không để xảy ra tình trạng thiếu phân bón gây sốt giá cục bộ, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
- Tăng cường công tác hải quan tại các cửa khẩu, đặc biệt là tại các tỉnh có đường biên giới nhằm giảm buôn lậu phân bón qua đường tiểu ngạch và hạn chế nhập khẩu phân bón từ nước ngoài.
d) Xi măng
- Áp dụng quy trình sản xuất kỹ thuật cao nhằm nâng cao năng suất, giảm tiêu thụ năng lượng, tránh gây ô nhiễm môi trường.
- Rà soát quy hoạch ngành xi măng, nhằm đảm bảo cân bằng cung – cầu, ổn định giá bán, không để tình trạng mất cung vượt cầu quá lớn gây lãng phí tài nguyên của đất nước, gây ô nhiễm môi trường trong khi xuất khẩu chưa thực sự hiệu quả.
đ) Lương thực, thực phẩm
- Tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm, đặc biệt là trong những ngày mưa bão gây tác động ảnh hưởng đến giá các mặt hàng thực phẩm để có biện pháp điều chỉnh, ngăn chặn kịp thời, tránh việc tư thương lợi dụng tăng giá ảo gây ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.
- Bộ Công Thương chỉ đạo các Chi Cục quản lý thị trường tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, các loại thực phẩm nhập lậu qua đường tiểu ngạch (các loại gia súc, gia cầm, thủy sản, cá tầm, cá trắm…), đồng thời đưa ra các chế tài đủ mạnh, xử lý nghiêm các hành vi nhập lậu thực phẩm kém chất lượng tràn vào thị trường nội địa.
- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tăng cường công tác chỉ đạo sản xuất với cơ cấu gieo trồng hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao chất lượng bảo quản, chế biến lúa gạo, từng bước xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Phấn đấu thực hiện chuyển đổi diện tích trồng lúa kém chất lượng (khoảng 200.000 ha) sang trồng ngô, đậu tương để cung cấp nguyên liệu cho sản xuất thức ăn chăn nuôi.
- Sớm ban hành các chính sách hỗ trợ sản xuất (đặc biệt là đối với các lĩnh vực có tiềm năng phát triển như trồng và chế biến nông sản, chăn nuôi và giết mổ tập trung, đánh bắt và nuôi thủy sản xa bờ…): Chính sách liên kết các thành phần kinh tế ở nông thôn, chính sách hỗ trợ bảo quản sau thu hoạch, tín dụng và bảo hiểm nông nghiệp, thu hút, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn./.
File đính kèm: BCKTDichvuT8.13.pdf
Vụ Kinh tế Dịch vụ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư