1. Tình hình chung:
Tháng 3 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 36.271 tỷ đồng tăng 13,4% so với cùng kỳ và tăng 23,5% so với tháng 2/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 5,2%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,2%, khu vực đầu tư nước ngoài tăng 13,7% so cùng kỳ.
Cộng dồn quý I năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 101.263 tỷ đồng tăng 14,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 7,9% (chiếm 33%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 25,5% (chiếm 30%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,5% (chiếm 37%)(trong đó Tcty dầu khí giảm 9,3%, các ngành khác tăng 19,7%).
Tính theo ngành cấp I trong quý I/2005 công nghiệp khai thác tăng 4,3%, công nghiệp chế biến tăng 15,9%, công nghiệp điện, nước, ga tăng 11,8% so cùng kỳ.
Quý I năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 18,2%; các sản phẩm chế biến là thuỷ sản chế biến tăng 20,7%, giấy bìa các loại 18,9%; các sản phẩm hoá chất là xút NaOH tăng 34,3%, thuốc trừ sâu 23,4%, thuốc viên các loại 20,4%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là sứ vệ sinh tăng 20,9%, gạch lát 18,6%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như xe máy tăng 23,4%, ôtô các loại 18,5% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch ngành gồm: điện sản xuất tăng 12,4%, thép cán 10,6%, xi măng 5,6%, gạch xây 6,7%, sữa hộp 12,4%, bột ngọt 5,6%, bia 11,3%, thuốc lá bao 12,2%, xà phòng các loại 9,6%, ắc quy 6,2%, phân hoá học 7,8%, quần áo may sẵn 10%, động cơ điện 7,2%, máy biến thế 2,8%, tivi các loại 5,1% so cùng kỳ.
Khá nhiều sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 89,9%, khí đốt thiên nhiên 99,5%, ga hoá lỏng 93,4%, đường mật các loại 85,2%, thuốc ống đạt 93,1%, vải lụa thành phẩm 99,9%, quần áo dệt kim 89,1%, quạt điện dân dụng 89,8%, máy công cụ 81,4%, động cơ diezen 83,7%, xe đạp hoàn chỉnh 77% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ quý I năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hà Nội tăng 16,8% (chiếm tỷ trọng 7,6%), Vĩnh Phúc tăng 19%, Hà Tây tăng 21%, Hải Dương tăng 22,7%, Bình Dương tăng 33,4% (chiếm 8,4%), Đồng Nai tăng 22% (chiếm 8,3%), Cần Thơ tăng 32,9%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn lại đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 11,3% (chiếm tỷ trọng 25%), Hải phòng tăng 15,6%, Phú Thọ tăng 13,2%, Quảng Ninh tăng 5,2%, Thanh Hoá tăng 13,5%, Đà Nẵng tăng 15,3%, Khánh Hoà tăng 13,4%, Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 11,8% (chiếm 10,3%).
Một số nhận xét chung:
Giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2005 tăng 14,4% thấp hơn so với kế hoạch đề ra cho cả năm (16%) do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Trong thời gian đầu năm 2003 một số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá nên ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của khu vực DNNN nhà nước và đồng thời tăng tốc độ tăng trưởng của khu vực ngoài quốc doanh một cách “cơ học”. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng thấp do khai thác dầu thô giảm hơn 10% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí và sản xuất gas hoá lỏng cũng giảm so cùng kỳ.
- Về các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 14/36 sản phẩm thống kê chính như điện, thép cán, xi măng, bia, phân hoá học, lắp ráp tivi,...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 12/36 sản phẩm như dầu thô, khí thiên nhiên, ga hoá lỏng, quần áo dệt kim, máy công cụ, động cơ diezen, máy biến thế, quạt điện,...), chỉ có 10/36 sản phẩm tăng cao hơn mức kế hoạch đề ra cho toàn ngành (như than, thuỷ sản chế biến, sứ vệ sinh, lắp ráp ôtô, xe máy,...). Phân tích sâu một số sản phẩm công nghiệp cho thấy tốc độ tiêu thụ xi măng, thép tăng chậm ở thị trường trong nước đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng sản xuất. Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may, da giầy, xe đạp và phụ tùng, thuỷ sản chế biến có mức tăng chậm so cùng kỳ do vướng quota nhập khẩu vào thị trường Mỹ và khả năng cạnh tranh kém so với hàng Trung Quốc tại thị trường EU.
- Theo vùng lãnh thổ: trong khi một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 7/15 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội, thì một số tỉnh và thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa – Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước có mức tăng trưởng thấp (11,3%) đã ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng chung của cả nước.
- Trong quý I năm 2005 tình hình giá cả nguyên vật liệu vẫn ổn định như ở các tháng cuối năm 2004, giá dầu thô tăng cao trên 50 USD/thùng làm giá xăng dầu tăng lên tương ứng nên Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% để giảm ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới lên chi phí nhiên liệu trong nước, giá phôi thép duy trì ở mức 400-420 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước có tăng chút ít ở mức 7,5-8 triệu đ/tấn, giá cả các mặt hàng sinh hoạt tăng hơn so với cuối năm 2004 ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt của dân cư.
- Tốc độ tăng trưởng không cao của ngành công nghiệp trong quý I/2005 cần được nghiên cứu kỹ ở một số lĩnh vực: chính sách kích cầu của Chính phủ (tăng tiêu thụ xi măng, sắt thép), mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu; về vùng lãnh thổ cần thúc đẩy tăng trưởng của một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà Nẵng. Trong thời gian tới nếu tốc độ tăng trưởng không được cải thiện thì việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng cả năm là 16% sẽ khó có thể thực hiện được.
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Quý I năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt 11,7 tỷ kwh tăng 12,4% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 9,5 tỷ Kwh chỉ tăng 5,9%, điện mua ngoài chiếm 18,6% toàn ngành đạt trên 2,1 tỷ Kwh tăng 53,8% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia.
- Dầu thô khai thác đạt gần 4,5 triệu tấn giảm 10% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt gần 1,5 tỷ m3 giảm 0,5% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt gần 85 nghìn tấn giảm 6,6% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt trên 7,1 triệu tấn tăng 18,2% so cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 6,7 triệu tấn tăng 15,7% so với cùng kỳ.
- Thép cán đạt 753 nghìn tấn tăng 10,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 261 ngàn tấn tăng 6,1%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 278 nghìn tấn tăng 34%, khu vực ĐTNN đạt 214 nghìn tấn bằng cùng kỳ năm trước.
- Xi măng đạt 5,8 triệu tấn tăng 5,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất gần 4 triệu tấn tăng 8%, khu vực ĐTNN đạt gần 1,5 triệu tấn giảm 7%.
- Giấy các loại đạt 205 nghìn tấn tăng 18,9%, trong đó 2 khu vực tăng cao là quốc doanh đạt 71 nghìn tấn tăng 25%, ngoài quốc doanh đạt 128 nghìn tấn tăng 16%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 973,7 triệu m xấp xỉ so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 211,6 triệu cái tăng 10%, quần áo dệt kim đạt 24,9 triệu cái giảm 11%.
3. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước quý I/2005 ước đạt 6,7 tỷ USD tăng 16,2% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu như: dầu thô đạt 4,55 triệu tấn giảm 10% (do khai thác giảm), than đá đạt 3,45 triệu tấn tăgn 23%, hàng dệt may đạt 950 triệu USD tăng 2,9%, giày dép đạt 651 triệu USD tăng 3,7%, sản phẩm gỗ đạt 264 triệu USD tăng 18,4%, hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 311 triệu USD tăng 45,3%, túi xách, va ly đạt 100 triệu USD giảm 7%, dây và cáp điện đạt 108 triệu USD tăng 27%, sản phẩm nhựa đạt 73 triệu USD tăng 62%, xe đạp và phụ tùng đạt 47 triệu USD giảm 30%.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước quý I/2005 ước đạt 7,85 tỷ USD tăng 18,5% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu như: linh kiện và phụ tùng ôtô đạt 174 triệu USD tăng 65,6%, linh kiện xe máy đạt 122 triệu USD tăng 72%, xăng dầu các loại đạt 2,8 triệu tấn giảm 5%, phân bón các loại đạt 468 nghìn tấn giảm 56%, thép các loại đạt 1,17 triệu tấn giảm 1,3%, trong đó phôi thép đạt 467 nghìn tấn giảm 7,5%, giấy các loại đạt 116 nghìn tấn tăng 23%, bông các loại đạt 39 nghìn tấn tăng 92%, sợi các loại đạt 46 nghìn tấn giảm 15%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 1,28 tỷ USD tăng 27,5%, hoá chất các loại đạt 178 triệu USD tăng 21,3%, chất dẻo nguyên liệu đạt 247 nghìn tấn giảm 1%, vải đạt 391 triệu USD tăng 0,3%, nguyên liệu dệt may da đạt 407 triệu USD giảm 8%, linh kiện máy tính và điện tử đạt 358 triệu USD tăng 39%.