Kinh tế - xã hội quý 1 năm 2021 của tỉnh diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn, dịch Covid-19 xảy ra ở một số địa phương trên cả nước đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân trong tỉnh. Trong điều kiện đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ năm 2021, ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã sớm ban hành Chương trình hành động triển khai Nghị quyết của Chính phủ, Kết luận của Tỉnh ủy, Nghị quyết của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; xây dựng kịch bản tăng trưởng kinh tế phù hợp với tình hình dịch bệnh; kịp thời ban hành các kế hoạch và nhiều văn bản triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, giải ngân các nguồn vốn đầu tư, bảo đảm an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội, ứng phó với dịch bệnh Covid-19.
Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội quý 1 năm 2021 đạt được những kết quả như sau:
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp quý 1 năm 2021 trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Lĩnh vực trồng trọt các địa phương trong tỉnh thực hiện đúng kế hoạch sản xuất đề ra. Đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định, tình hình dịch bệnh không xảy ra, nhất là bệnh heo tai xanh, bệnh dịch tả lợn Châu Phi được kiểm soát tốt. Công tác phòng chống cháy rừng được tăng cường triệt để, tuy nhiên, từ nửa cuối tháng 3 năm 2021 trở đi thời tiết Bình Thuận đang vào mùa khô hanh, nắng nóng, nguy cơ xảy ra cháy rừng ở mức độ cao. Sản lượng khai thác thuỷ sản quý 1 năm 2021 giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước.
1. Trồng trọt
* Cây hàng năm: Tính đến ngày 15/3/2021, diện tích gieo trồng vụ Đông xuân đạt 45.928,3 ha, tăng 53,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cây lúa đạt 36.189,5 ha, tăng 69,9%; cây bắp đạt 2.982 ha, tăng 9,7%; rau các loại đạt 2.967,2 ha, tăng 0,8%; đậu các loại đạt 2.001 ha, tăng 36,4%; cây công nghiệp ngắn ngày đạt 3.236 ha, tăng 25,8%; cây hàng năm khác đạt 401 ha, tăng 27,2%. Do không đảm bảo nguồn nước tưới từ hệ thống công trình thủy lợi nên vụ Đông Xuân 2020 - 2021 phải điều chỉnh cắt giảm không bố trí sản xuất 290 ha lúa.
Để phát huy hiệu quả sử dụng đất, tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới và hạn chế sâu bệnh, có 4.959 ha đất lúa vụ Đông Xuân 2020 - 2021 kém hiệu quả được chuyển đổi sang trồng các cây ngắn ngày khác gồm 2.086 ha bắp, 1.122 ha rau các loại, 850 ha đậu các loại, 653 ha đậu phộng, 248 ha dưa hấu.
Chương trình xã hội hoá giống lúa tiếp tục được triển khai, vụ Đông xuân năm 2020 - 2021 thực hiện được 2.550 ha.
* Cây lâu năm: Trong quý chủ yếu tập trung chăm sóc và thu hoạch trên diện tích các loại cây lâu năm hiện có, toàn tỉnh có 109.510,2 ha cây lâu năm; trong đó, cây công nghiệp 63.247,7 ha; cây ăn quả 44.551,8 ha; các loại cây lâu năm còn lại 1.710,8 ha.
- Cây thanh long: Diện tích ước đạt 33.750,4 ha. Sau tết các hộ tập trung chăm sóc, thu hoạch và chong đèn ra hoa trái vụ, tuy nhiên năng suất trái vụ không đồng đều giữa các hộ sản xuất bởi nhiều yếu tố chi phối như tác động của thời tiết lạnh. Giá bán trong tháng 3 cao hơn so với thời điểm trước và trong Tết nhưng đa phần người trồng không có sản phẩm để bán. Đến thời điểm ngày 15 tháng 3 năm 2021, toàn tỉnh có 11.419,5 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.
- Cây cao su: Diện tích ước đạt 42.214,2 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước; hiện đã kết thúc vụ thu hoạch, cây cao su đang trong mùa thay lá.
- Cây điều: Diện tích ước đạt 17.495,0 ha, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Hiện đang là thời điểm điều kết trái, một số nơi bắt đầu thu hoạch, thời tiết năm nay lạnh, sương muối, không thuận lợi cho việc ra hoa và đậu trái, năng suất ở một số địa phương dự báo thấp hơn so với cùng kỳ.
- Cây tiêu: Diện tích ước đạt 1.257,8 ha, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do nấm bệnh làm giảm diện tích gieo trồng, giá đầu ra thấp người trồng ngại đầu tư, hiện đang vào mùa thu hoạch, giá đầu ra vẫn ở mức thấp ảnh hưởng nhiều đến thu nhập của người trồng.
* Tình hình dịch bệnh: Công tác dự báo và ngăn ngừa dịch bệnh trên cây trồng được triển khai thường xuyên. Trong quý 1 năm 2021, tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, xảy ra dưới dạng cục bộ ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng.
- Cây lúa: Bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 1.054 ha. Chuột phá hoại diện tích 1.087 ha, tăng 800 ha so với cùng kỳ năm trước. Ốc bươu vàng diện tích nhiễm 375 ha, tăng 281 ha so cùng kỳ năm trước. Bọ trĩ diện tích nhiễm 296 ha, giảm 2.115 ha so cùng kỳ năm trước.
- Cây thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu là 5.065 ha, tăng 3.085 ha so với cùng kỳ năm trước. Bệnh thối rễ tóp cành diện tích nhiễm 1.737 ha, giảm 1.669 ha so với cùng kỳ năm trước.
- Cây điều: Bọ xít muỗi diện tích nhiễm 455 ha.
* Tình hình tưới vụ Đông Xuân 2020-2021:
Tính đến ngày 15/3/2021, diện tích cấp nước sản xuất vụ Đông xuân năm 2020-2021 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh được 50.105 ha, đạt 100% so với kế hoạch. Trong đó, cây lúa 29.482 ha, đạt 100% so với kế hoạch; cây thanh long và cây công nghiệp dài ngày 20.623 ha, đạt 100% so với kế hoạch.
Đến ngày 04/3/2021, lượng nước hữu ích hiện tại các hồ chứa trong tỉnh được 133,2 triệu m3 , đạt 50% thiết kế, cao hơn 61,3 triệu m3 so cùng kỳ; hồ thuỷ điện Đại Ninh được 162,9 triệu m3 , đạt 64,7% thiết kế, cao hơn 108,4 triệu m3 so cùng kỳ; hồ thuỷ điện Hàm Thuận còn 290,2 triệu m3 , đạt 55,5% thiết kế, thấp hơn 50,3 triệu m3 so cùng kỳ.
2. Chăn nuôi (tại thời điểm ngày 15/3/2021)
Tình hình chăn nuôi trong quý 1 năm 2021 tiếp tục được duy trì và phát triển ổn định; đàn trâu giảm nhẹ; đàn bò có khuynh hướng tăng; chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển khá, giá thịt hơi ở mức cao nhiều doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi mở rộng tái đàn; tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm cơ bản được kiểm soát tốt, nhiều trang trại nuôi gà công nghiệp CP được thành lập mới.
- Chăn nuôi trâu, bò: Ước đàn trâu có 8.700 con giảm 0,57% so với cùng kỳ năm trước, đàn trâu trên địa bàn tỉnh có khuynh hướng giảm nhẹ do đặc tính của con trâu phát triển chậm, diện tích chăn thả thường ở những vùng đất trũng, đầm lầy đang có nguy cơ thu hẹp dần. Chăn nuôi bò tiếp tục duy trì và phát triển, tạo thu nhập ổn định cho nhiều hộ nông thôn, đàn bò có 170.200 con tăng 1,92% so với cùng kỳ năm trước.
- Chăn nuôi lợn: Ước đàn lợn có 301.100 con, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi lợn đang chuyển từ chăn nuôi hộ, gia trại nhỏ lẻ sang quy mô doanh nghiệp công nghệ cao (CP). Trong những năm gần đây tình hình đô thị hoá, các hộ chăn nuôi lợn nằm trong khu dân cư gây ô nhiễm nên một số địa phương như Tp. Phan Thiết, Tx. La Gi nghỉ dần, doanh nghiệp chăn nuôi lợn CP tăng do một số đơn vị chăn nuôi ở Đồng Nai có khuynh hướng chuyển đến. Dự kiến trong thời gian tới một số dự án chăn nuôi sẽ được triển khai và đi vào hoạt động, số lượng doanh nghiệp nuôi lợn cũng như tổng đàn sẽ còn tăng thêm.
- Chăn nuôi gia cầm: Ước đàn gia cầm có 4.050 ngàn con, tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, gà 2.780 ngàn con, tăng 25,4%, đàn gà có khuynh hướng tăng mạnh, do nhiều trang trại chăn nuôi gà công nghiệp theo mô hình CP được thành lập trong thời gian gần đây; đàn vịt giảm nhẹ; đàn chim cút tăng do mô hình nuôi lấy trứng đạt hiệu; đàn bồ câu giảm do khó khăn về đầu ra.
* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật: Trong quý 1 năm 2021, trên địa bàn tỉnh không xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm; một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên gia súc, gia cầm nhưng ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch.
- Công tác tiêm phòng: Đã tổ chức tiêm phòng 6.663.713 liều vắc xin, trong đó, đàn trâu bò 82.907 liều, đàn lợn 1.509.279 liều, đàn gia cầm 5.069.599 liều.
- Kiểm dịch động vật: Đã kiểm dịch 194.637 con lợn, 7.024 con trâu bò, 1.458.830 con gia cầm, 1.145.308 kg thị các loại và 6.656.000 quả trứng gia cầm.
- Kiểm soát giết mổ: Các Đoàn kiểm tra liên ngành các huyện thường xuyên tiến hành kiểm tra các quầy, sạp kinh doanh thịt gia súc, gia cầm tại chợ.
3. Lâm nghiệp
- Công tác trồng rừng: Đang là mùa khô nên hoạt động trồng rừng chưa được triển khai trong quý 1 năm 2021.
- Công tác phòng chống cháy rừng: Đã chủ động triển khai sớm các biện pháp phòng cháy chữa cháy rừng và ngăn chặn tình trạng phá rừng trái pháp luật. Xây dựng phương án bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng năm 2021 đảm bảo sát với tình hình thực tế quản lý của từng địa phương, thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát các khu vực có nguy cơ cháy cao, theo dõi và thông báo kịp thời cấp dự báo cháy rừng trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố; tu sửa đường băng cản lửa, các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng ở các diện tích rừng có nguy cơ xảy ra cháy cao, đảm bảo an toàn cho công tác phòng chống cháy rừng. Luỹ kế 3 tháng, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 09 trường hợp cháy thực bì (cháy dưới tán rừng) với diện tích 8,71 ha, giảm 11 trường hợp so với cùng kỳ năm trước; tất cả các trường hợp cháy trên được các đơn vị chủ rừng phát hiện sớm, chữa cháy kịp thời, nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.
- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Ngành chức năng và các đơn vị chủ rừng tăng cường phối hợp kiểm tra, truy quét, tập trung tại các điểm nóng và vùng giáp ranh các tỉnh. Việc kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh luôn được tăng cường. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã phát hiện 44 vụ vi phạm Luật Lâm nghiệp, trong đó vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản 15 vụ, vi phạm về mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 13 vụ, vi phạm về sử dụng đất lâm nghiệp 01 vụ, vi phạm khác 14 vụ, phá rừng trái phép 01 vụ. Số vụ vi phạm đã xử lý hành chính là 48 vụ, tịch thu 12 xe máy, 2 phương tiện khác, gỗ các loại 55,5 m3. Số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách là 409,7 triệu đồng.
4. Thuỷ sản
- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Trong tháng, nuôi trồng thủy sản phát triển ổn định, thời tiết thuận lợi, không có dịch bệnh xảy ra. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản trong tháng đạt 205 ha tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, đạt 651,7 ha, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, diện tích nuôi cá ước đạt 448 ha tăng 2,3%, diện tích nuôi tôm ước đạt 199,6 ha, tăng 3,1%).
- Sản lượng nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng trong tháng ước đạt 997,2 tấn, tăng 3% so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 3.063,1 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, cá các loại ước đạt 1.265 tấn, tăng 2,3%, tôm nuôi nước lợ ước đạt 1.781,5 tấn, tăng 2,2%).
- Sản lượng khai thác: Trong quý 1 năm 2021, thời tiết ngư trường không thuận lợi do ảnh hưởng của gió Đông Bắc thổi mạnh, hoạt động khai thác hải sản gặp nhiều khó khăn, hiệu quả khai thác không cao. Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng ước đạt 15.018,5 tấn, tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 39.970,4 tấn, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, khai thác biển đạt 39.800 tấn, giảm 0,3%; sản lượng khai thác nội địa đạt 170,4 tấn, giảm 1,6%).
- Sản xuất giống thuỷ sản: Sản lượng giống sản xuất chủ yếu là tôm giống, ước trong tháng sản xuất được 1,9 tỷ con, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 5,2 tỷ con tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình thời tiết thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản, sản xuất ổn định trong quý, sản lượng tôm thịt xuất khẩu tăng ở các tỉnh phía Nam, nhu cầu tôm giống tăng cao.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Tiếp tục thực hiện việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá. Luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 05/3/2021), đã lắp đặt 1.794/1.925 tàu (đạt 93,2%). Công tác đăng kiểm tàu cá được thực hiện thường xuyên, triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa, đã ban hành chính sách hỗ trợ chuyển đổi các nghề khai thác có tính chất hủy diệt, tận diệt nguồn lợi thủy sản và hủy hoại môi trường sang các nghề khai thác có tính chọn lọc cao, thân thiện với môi trường. Tạo cơ chế khuyến khích người dân, các chủ phương tiện thường xuyên hoạt động trên biển chủ động báo tin, tố giác các hoạt động vi phạm các quy định về bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
- Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra trường hợp tàu cá và ngư dân bị nước ngoài bắt giữ và về vi phạm IUU.
5. Chương trình xây dựng nông thôn mới:
Luỹ kế 3 tháng đầu năm, UBND tỉnh đã công nhận 04 xã gồm xã Vĩnh Tân huyện Tuy Phong, xã Sông Lũy huyện Bắc Bình, xã Đức Thuận huyện Tánh Linh, xã Tân Bình thị xã La Gi đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới toàn tỉnh lên 65/93 xã. Tỉnh đang trình Bộ Nông nghiệp và PTNT thẩm định, công nhận huyện Đức Linh đạt chuẩn nông thôn mới năm 2020 và thành phố Phan Thiết hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới năm 2020.
6. Công tác ứng dụng khoa học công nghệ và khuyến nông vào sản xuất:
Đã tổ chức hội thảo nghiệm thu 05 mô hình, nhiều mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao như: Mô hình sản xuất lúa SRI theo hướng an toàn định hướng hữu cơ theo liên kết chuỗi, lợi nhuận khoảng 13-23 triệu đồng/ha; mô hình trồng hành tím giống mới (Mase rati F1) theo hướng an toàn theo liên kết chuỗi, lợi nhuận 212 triệu đồng/ha; mô hình sản xuất rau ăn lá, rau ăn quả đạt chứng nhận VietGAP theo liên kết chuỗi, lợi nhuận đạt 110-158 triệu/ha,... Đồng thời, xây dựng chương trình khuyến nông năm 2021. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, cung ứng 30 tấn lúa giống nguyên chủng, xác nhận, phục vụ cho chương trình giống của tỉnh và cung ứng cho thị trường 70 con heo giống chất lượng tốt.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư - Xây dựng
1. Công nghiệp:
Sản xuất công nghiệp quý 1 năm 2021 có những tín hiệu hồi phục khả quan hơn sau dịch Covid-19 lần 3. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp đẩy mạnh sản xuất tiêu thụ nội địa. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 3 ước tăng 5,65% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,84%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 1,34%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí hoạt động ổn định và tăng 7,23%, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,61%.
Lũy kế 3 tháng đầu năm chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 8,18% so với cùng năm trước; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,85% góp phần chủ đạo trong tăng trưởng toàn ngành. Ba nhóm ngành còn đều tăng nhẹ (ngành khai khoán tăng 3,74%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,05%; ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,74%).
Luỹ kế 3 tháng đầu năm ước giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) đạt 8.487,1 tỷ đồng, tăng 5,81% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, công nghiệp khai khoáng 166,4 tỷ đồng, tăng 4,01%; công nghiệp chế biến chế tạo 3.825,3 tỷ đồng, tăng 2,15%; sản xuất và phân phối điện 4.420,7 tỷ đồng, tăng 9,36%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 74,7 tỷ đồng, tăng 0,89%.
Các sản phẩm sản xuất trong quý I/2021 tăng so với cùng kỳ gồm: Đá xây dựng tăng 11,57%; cát tự nhiên tăng 22,33%; giày, dép thể thao tăng 30,08%; điện sản xuất tăng 9,99%; Mực đông lạnh tăng 0,48%; áo sơ mi tăng 6,52% . Sản phẩm giảm gồm: thịt cá đông lạnh giảm 32,39%; bô Com-lê (Jacket) giảm 11,64%.
* Xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Sản xuất kinh doanh quý 1 năm 2021 so với quý 4 năm 2020: Qua khảo sát các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến, chế tạo cho thấy có 28,99% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước; có 34,78% đánh giá khó khăn và 36,23% số doanh nghiệp cho rằng ổn định.
+ Có 29,51% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh có chiều hướng tốt lên; có 36,07% doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho rằng có chiều hướng giữ nguyên và 34,42% số doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho rằng có chiều hướng giảm (khó khăn hơn).
+ Có 14,29% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh có chiều hướng tốt lên; có 42,86% doanh nghiệp vốn FDI cho rằng có chiều hướng giữ nguyên và có 42,85% cho rằng có chiều hướng giảm (khó khăn hơn).
+ Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý 1 năm 2021, có 25,0% doanh nghiệp đánh giá do thiếu nguyên nhiên vật liệu; có 19,64% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường trong nước thấp; có 12,5% doanh nghiệp cho rằng do không tuyển được lao động theo yêu cầu; có 10,71% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh trong nước cao; có 7,14% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; có 8,93% doanh nghiệp cho rằng do gặp khó khăn về tài chính; có 14,29% doanh nghiệp đánh giá lý do dịch bệnh Covid-19 và có 1,79% doanh nghiệp cho rằng do chính sách pháp luật của nhà nước.
+ Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý 2 năm 2021 so với quý 1 năm 2021 của các doanh nghiệp: Có 83,83% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, trong đó, có 66,18% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn; có 17,65% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và có 16,17% dự báo khó khăn hơn.
* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN cơ bản được duy trì ổn định, tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2020. Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán 2021, các doanh nghiệp đã hoạt động trở lại ổn định. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, doanh thu ước đạt 1.250 tỷ đồng, tăng 38,8% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 20,16% kế hoạch năm. Nộp ngân sách ướt đạt 25,5 tỷ đồng, tăng 24,39% so với cùng kỳ, đạt 25,5% kế hoạch năm.
2. Đầu tư phát triển:
Ngay từ đầu năm, các dự án trọng điểm của tỉnh đã được UBND tỉnh và các chủ đầu tư quan tâm triển khai thực hiện; được ưu tiên bố trí vốn; các chủ đầu tư đã chủ động, tích cực phối hợp với các sở ban ngành địa phương liên quan triển khai thực hiện dự án, nhất là công tác đền bù giải phóng mặt bằng.
Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 215,2 tỷ đồng, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm đạt 368,4 tỷ đồng, đạt 8,9% so với kế hoạch và tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 284,9 tỷ đồng, tăng 2,8%, đạt 8,3% kế hoạch năm, vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 76 tỷ đồng, giảm 2,8%, đạt 11,9% kế hoạch năm, vốn ngân sách nhà nước cấp xã 7,5 tỷ đồng, giảm 13,6%, đạt 9,4% kế hoạch năm.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện trên địa bàn luỹ kế 3 tháng đầu năm ước đạt 6.342,5 tỷ đồng, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn nhà nước trên địa bàn đạt 713,1 tỷ đồng tăng 29,1% so với cùng kỳ năm trước, vốn ngoài nhà nước trên địa bàn đạt 5.180,1 tỷ đồng tăng 9,6% so với cùng kỳ, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 449,3 tỷ đồng tăng 7,1% so với cùng kỳ.
Dự báo quý 2 và cả năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội sẽ tăng mạnh so với cùng kỳ do có các dự án điện năng lượng, nhiều dự án lớn đang khẩn trương triển khai thi công (dự án tuyến đường cao tốc bắc nam đoạn ngang qua địa bàn tỉnh; 02 dự án đường ven biển ĐT.719 và ĐT.719B; dự án cảng hàng không Phan Thiết) và hơn 50 dự án thuộc nhiều lĩnh vực đang được tỉnh tập trung kêu gọi, thu hút đầu tư.
3. Đăng ký kinh doanh:
Trong tháng 3 (từ ngày 15/02-15/03/2021), có 62 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó, có 20 đơn vị trực thuộc), giảm 54,41% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký mới 717,8 tỷ đồng, giảm 3,06% so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp đã giải thể 12 doanh nghiệp (trong đó, có 9 đơn vị trực thuộc), tăng 20% so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 9 doanh nghiệp (trong đó, có 2 đơn vị trực thuộc), giảm 25% so với cùng kỳ năm trước; đăng ký chuyển đổi loại hình 8 doanh nghiệp, bằng so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 8 doanh nghiệp (trong đó, có 01 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2,7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 15/03/2021), có 225 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó, có 85 đơn vị trực thuộc), giảm 10,36% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký 2.425,9 tỷ đồng, tăng 1,99 lần so với cùng kỳ năm trước; hoạt động trở lại 109 đoanh nghiệp (trong đó 16 đơn vị trực thuộc) tăng gấp 3,5 lần so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 135 doanh nghiệp (có 23 đơn vị trực thuộc), tăng 40,63% so với cùng kỳ năm trước; đăng ký thay đổi loại hình 15 doanh nghiệp (không có đơn vị trực thuộc), giảm 11,8% so cùng kỳ. Số doanh nghiệp đã giải thể 174 doanh nghiệp (có 128 đơn vị trực thuộc), tăng 51,4% so với cùng kỳ năm trước.
4. Đăng ký đầu tư:
Luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 09/3/2021), đã cấp mới 01 dự án, với tổng diện tích đất 03 ha, tổng vốn đăng ký 13,7 tỷ đồng, có 08 dự án được điều chỉnh Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư. Lũy kế từ trước đến nay (đến ngày 09/3/2021) có 1.582 dự án được cấp, với tổng diện tích đất 49.736 ha, tổng vốn đăng ký 320.549 tỷ đồng.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm không có dự án khởi công, có 03 dự án đi vào hoạt động và không có dự án thu hồi. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng.
5. Xây dựng
Trong quý 1 năm 2021 các doanh nghiệp xây dựng cũng như các cơ sở thi công cá thể trên địa bàn tỉnh đã có nhiều nỗ lực, tập trung khắc phục khó khăn, khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thi công công trình. Do đó, kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong 3 tháng đầu năm 2021 đều tăng khá so với cùng kỳ. Tình hình xây dựng một số công trình giao thông trên địa bàn tỉnh:
- Đường vào cảng hàng không Phan Thiết: UBND tỉnh phê duyệt dự án đầu tư tại Quyết định số 3159/QĐ-UBND, ngày 27/10/2016, với quy mô chiều dài tuyến: 3.632 m, bề rộng mặt đường 13,5 m, nền đường 36 m, kết cấu nền đường bê tông nhựa; tổng mức đầu tư 116,4 tỷ đồng. Ngày 06/12/2019, UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh dự án tại Quyết định số 3150/QĐ-UBND điều chỉnh diện tích sử dụng đất thành 184.650 m2. Lũy kế thực hiện từ đầu dự án đến nay ước đạt 50,9 tỷ đồng, đạt 44% tiến độ của dự án.
- Cải tạo, nâng cấp đường ĐT.718, đoạn từ Ga Bình Thuận đến xã Hàm Cần, huyện Hàm Thuận Nam: UBND tỉnh phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình tại Quyết định số 2780/QĐ-UBND, ngày 31/10/2019, với quy mô: Tổng chiều dài tuyến đường 13.212,81 m; tổng mức đầu tư 95.499 triệu đồng. Lũy kế thực hiện từ đầu dự án đến nay ước đạt 17,9 tỷ đồng, đạt 18,7% tiến độ của dự án.
- Đường Hàm Kiệm đi Tiến Thành: UBND tỉnh phê duyệt dự án đầu tư công trình tại Quyết định số 1409/QĐ-UBND, ngày 19/6/2020, với quy mô chiều dài tuyến đường khoảng 7,7 Km. Tổng mức đầu tư: 419,99 tỷ đồng. Kế hoạch vốn 2021 là 45 tỷ đồng. Lũy kế thực hiện từ đầu dự án đến nay ước đạt 2,95 tỷ đồng.
- Đường dọc kênh phát triển kinh tế - xã hội vùng chiến khu Lê Hồng Phong, huyện Bắc Bình: UBND tỉnh phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án tại Quyết định số 2929/QĐ-UBND, ngày 26/11/2020 với quy mô: chiều dài tuyến 21 Km. Tổng mức đầu tư 31,8 tỷ đồng; lũy kế giá trị thực hiện đến nay 16,8 tỷ đồng.
- Làm mới đường trục ven biển ĐT.719B đoạn Phan Thiết – Kê Gà: UBND tỉnh phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 2447/QĐ-UBND, ngày 05/10/2020, giá trị dự toán 757,9 tỷ đồng, đã khởi công ngày 25/11/2020, dự kiến hoàn thành ngày 25/01/2024. Lũy kế giá trị ước thực hiện đến nay 181,5 tỷ đồng.
- Nâng cấp, mở rộng đường ĐT.719 đoạn Kê Gà – Tân Thiện: UBND tỉnh phê duyệt đầu tư tại Quyết định số 2429/QĐ-UBND ngày 02/10/2020, giá trị dự toán 348,3 tỷ đồng, đã khởi công ngày 25/11/2020, dự kiến hoàn thành ngày 14/4/2023. Lũy kế giá trị ước thực hiện từ đầu dự án đến nay 96,3 tỷ đồng.
* Xu hướng sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng
Kết quả khảo sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng quý 1 năm 2021 cho thấy phần lớn ý kiến đều lạc quan với tình hình sản xuất kinh doanh trong quý cuối năm, có 16,3% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý 4 năm 2021; có 42,9% doanh nghiệp đánh giá ổn định và có 40,8% doanh nghiệp cho rằng khó khăn hơn. Trong đó, có 58,3% doanh nghiệp ngoài nhà nước dự báo thị trường ổn định và thuận lợi hơn; có 100% doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) đánh giá là khó khăn hơn.
Sự lạc quan của doanh nghiệp ngành xây dựng khi dự báo thị trường năm 2021 còn xuất phát từ các phương thức hỗ trợ từ nhà nước, bởi có đến 91,8% doanh nghiệp nhận định hỗ trợ từ hệ thống hành chính Nhà nước đối với doanh nghiệp giữ ổn định và thuận lợi hơn, 8,2% khó khăn và không biết.
Việc tiếp cận nguồn vốn cũng được doanh nghiệp đánh giá tích cực bởi các chính sách hỗ trợ giảm lãi vay từ ngân hàng giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong tình hình dịch bệnh Covid-19, có 91% doanh nghiệp vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh được đánh giá là ổn định và thuận lợi hơn, với 9% doanh nghiệp gặp khó khăn về tiếp cận nguồn vốn. Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục đưa ra các chính sách, giải pháp phù hợp, kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, ổn định và tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh.
Dự báo quý 2 năm 2021 so với quý 1 năm 2021: có 46,9% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh giữ ổn định và có 60,6% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn, trong đó có 60,4% doanh nghiệp ngoài nhà nước đánh giá thuận lợi và không đổi; có 39,6% doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn và không biết; có 100% doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) đánh giá ổn định.
III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả:
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý 1 năm 2021 trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên vẫn còn ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 xảy ra ở một số địa phương trong tháng 2 năm 2021 của nước ta. Tình hình bán lẻ hàng hoá trên thị trường tương đối ổn định, hàng hoá đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân. Không xảy ra tình trang khan hiếm hàng hoá, giá cả thị trường hàng hoá không tăng đột biến. Mặc dù dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trong tháng 2 năm 2021 nhưng không ảnh hưởng nhiều đến sức mua của người dân.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 ước đạt 4.822,7 tỷ đồng, giảm 1,92% so với tháng trước và tăng 11,58% so với cùng kỳ năm trước. Sau tết sức mua của người dân chậm lại so với tháng trước, dự ước doanh thu bán lẻ đạt 3.568,9 tỷ đồng, giảm 3,41% so với tháng trước và tăng 11,17% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành hàng giảm so với tháng trước, tuy nhiên nhóm vật liệu xây dựng dự ước đạt 206,4 tỷ đồng, tăng 1,64% so với tháng trước và tăng 10,49% so với cùng kỳ năm trước, nhóm xăng dầu dự ước đạt 550,3 tỷ đồng, tăng 0,63% so với tháng trước và tăng 9,45% so với cùng kỳ năm trước, nhóm nhiên liệu khác dự ước đạt 56,6 tỷ, tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm ước đạt 15.408,7 tỷ đồng, tăng 5,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 10.909,9 tỷ đồng, tăng 7,45%; doanh thu dịch vụ ước đạt 1.521,9 tỷ đồng, tăng 3,79%; dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 2.976,8 tỷ đồng, giảm 1,32%.
* Công tác quản lý thị trường: Trong tháng tiếp tục tăng cường kiểm tra kiểm soát thị trường, quản lý địa bàn, giám sát, kiểm tra việc niêm yết giá bán và bán đúng giá niêm yết, tập trung kiểm tra các hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm hàng hóa trên thị trường để đầu cơ, găm hàng, mua gom hàng hóa hoặc lợi dụng dịch bệnh để định giá bán hàng hóa bất hợp lý đối với các loại hàng hóa thiết yếu, đặc biệt là trang thiết bị, vật tư y tế,... dùng để phòng, chữa bệnh khi thị trường có biến động về cung cầu, giá cả hàng hóa do dịch bệnh Covid-19. Ngoài ra xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để hàng hóa lưu thông trên thị trường.
Trong tháng 02, đã kiểm tra 218 vụ, phát hiện và xử lý 67 vụ vi phạm (trong đó, 09 vụ hàng hàng cấm, 10 vụ hàng nhập lậu; 04 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 11 vụ vi phạm trong kinh doanh, 21 vụ vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm và 12 vụ vi phạm khác,...); lực lượng Quản lý thị trường đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 367 triệu đồng. Luỹ kế 2 tháng đầu năm, đã kiểm tra 275 vụ, phát hiện và xử lý 110 vụ vi phạm (trong đó, 14 vụ hàng hàng cấm, 13 vụ hàng nhập lậu; 08 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 29 vụ vi phạm trong kinh doanh, 22 vụ vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm và 24 vụ vi phạm khác,...); đã xử phạt và thu nộp ngân sách nhà nước 861 triệu đồng.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 năm 2021 so tháng trước giảm 0,32%; so với tháng cùng kỳ năm trước (sau 01 năm) tăng 1,32%; so với tháng 12 năm 2020 (sau 3 tháng) chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,36%; bình quân 3 tháng năm 2021 tăng 0,35% so với bình quân 3 tháng năm 2020.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 4 nhóm hàng tăng giá: Giao thông tăng 2,64%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,15%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%. Có 4 nhóm hàng giảm giá: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,41%; may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,8%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,04%; đồ uống và thuốc lá giảm 0,02%. Có 3 nhóm hàng ổn định: Giáo dục, bưu chính viễn thông, thuốc và dịch vụ y tế.
Diễn biến giá tiêu dùng tháng 3 năm 2021 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
+ Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,41%; trong đó, lương thực giảm 0,97% do giá gạo giảm 0,75% so với tháng trước, giá gạo tẻ ngon và gạo nếp có mức giảm nhiều hơn do nhu cầu tiêu dùng sau Tết giảm, giá gạo tẻ thường giảm mạnh do các mặt hàng gạo miền tây trong bối cảnh đã thu hoạch vụ Đông Xuân tránh hạn, mặn. Thực phẩm giảm 1,96%, nhóm thực phẩm giảm ở hầu hết các mặt hàng trong nhóm do nhu cầu tiêu dùng sau Tết của người dân giảm, giá các mặt hàng này đã trở lại bình thường, ngoài ra có một số nhóm hàng giảm do lượng cung dồi dào. Ăn uống ngoài gia đình giảm 0,32%.
+ Đồ uống và thuốc lá giảm 0,02%, nhu cầu tiêu dùng giảm nên giá các mặt hàng: nước giải khát có ga giảm 0,01%; rượu bia các loại giảm 0,06%.
+ May mặc, mũ nón và giầy dép giảm 0,80%, nhu cầu mua sắm quần áo, giầy dép sau Tết giảm và thời tiết đang chuyển sang mùa nóng nên nhu cầu tiêu dùng của người dân về một số mặt hàng quần áo mùa đông giảm.
+ Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,15%, tăng chủ yếu ở các mặt hàng sau: Giá gas tăng 1,28% so với trước do giá gas trong nước điều chỉnh tăng 5.000 đ/bình 12 kg theo giá gas thế giới. Giá dầu hỏa tăng 8,16% so với tháng trước do điều chỉnh tăng giá vào ngày 25/02/2021 và ngày 12/3/2021. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,19% do nhu cầu tiêu dùng tăng, bên cạnh đó, giá xăng dầu tăng dẫn đến chi phí vận chuyển cũng bị đẩy lên. Giá điện, nước sinh hoạt tăng nhẹ lần lượt 0,03%, 0,11% do nhu cầu sử dụng tăng.
+ Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%, tăng ở các mặt hàng máy điều hòa, tủ lạnh do thời tiết nắng nóng nên nhu cầu sửa dụng các thiết bị làm mát tăng cao.
+ Giao thông tăng 2,64%, tăng chủ yếu do ảnh hưởng đợt điều chỉnh tăng giá xăng dầu vào ngày 25/02/2021 và ngày 12/3/2021.
+ Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%, tăng các mặt hàng hoa tươi tăng do nhu cầu sử dụng hoa tươi vào dịp lễ cưới hỏi trong tháng nhiều, nguồn cung sau Tết có phần hạn chế, do đó giá bán có phần tăng so với tháng trước.
+ Hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,04%, giảm ở các mặt hàng đồ trang sức, nguyên nhân do giá vàng trong nước biến động giảm theo giá vàng thế giới.
2. Hoạt động du lịch:
Trong tháng hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh khả quan hơn so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước, lượng khách du lịch tăng trở lại, khách du lịch chủ yếu là khách trong tỉnh và một số tỉnh lân cận chưa phát hiện dịch bệnh Covid-19 xảy ra. Tuy nhiên, tính chung trong quý 1 năm 2021, hoạt động du lịch của tỉnh vẫn còn giảm sâu so với cùng kỳ năm trước, ngành du lịch của tỉnh chưa thể phục hồi.
Lượng khách du lịch ước tháng 3 đạt 319,5 ngàn lượt khách, tăng 8,4% so tháng trước và tăng 14,8% so với tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 511,9 ngàn ngày khách, tăng 10,18% so với tháng trước và tăng 13,19% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 3 tháng đầu năm, lượt khách du lịch ước đạt 1.031 ngàn lượt khách, giảm 20,55% so với cùng kỳ năm trước, ngày khách phục vụ ước đạt 1.737,6 ngàn lượt khách, giảm 19,61% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 3 ước đạt 680,3 tỷ đồng tăng 5,53% so với tháng trước và giảm 22,26% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 2.253,6 tỷ đồng, giảm 35,51% so với cùng kỳ năm trước.
* Tình hình khách quốc tế: Trong tháng 3 lượng khách quốc tế giảm mạnh so với tháng trước, dự ước đạt 1,8 ngàn lượt khách, giảm 74,19% so với tháng trước và giảm 90,12% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ dự ước đạt 6,6 ngàn ngày khách, giảm 73,94% so với tháng trước và giảm 88,89 % so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 11,4 ngàn lượt khách, giảm 92,27% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 42,7 ngàn ngày khách, giảm 90,81% so với cùng kỳ. Lượng khách quốc tế đến du lịch tại địa phương hiện nay chủ yếu là các chuyên gia nước ngoài, chủ doanh nghiệp nước ngoài, đại sứ quán các nước và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam,…
3. Xuất, nhập khẩu
Mặc dù dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, nhưng hoạt động xuất khẩu quý 1 năm 2021, nhìn chung có khả quan hơn so với cùng kỳ năm trước; sau kỳ nghỉ tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021, các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu đều có đơn hàng, đây là tín hiệu đáng mừng cho hoạt động xuất khẩu của tỉnh.
- Kim ngạch xuất khẩu tháng 3 năm 2021 ước đạt 38,8 triệu USD, tăng 42,41% so với tháng trước và giảm 4,24% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 10,45 triệu USD, tăng 29,99% so với tháng trước và giảm 6,68% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,11 triệu USD, tăng 18,73% so với tháng trước và tăng 10,08% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hóa khác ước đạt 27,19 triệu USD, tăng 49,09% so với tháng trước và giảm 3,78% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 116,3 triệu USD, tăng 9,13% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 32,6 triệu USD, tăng 5,09%. Nhóm hàng nông sản ước đạt 3,5 triệu USD, tăng 4,42%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 80,2 triệu USD, tăng 11,08%.
- Xuất khẩu trực tiếp 3 tháng đầu năm ước đạt 114,2 triệu USD, tăng 12,37% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:
+ Xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 76,6 triệu USD, tăng 13,43% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu ở thị trường Nhật Bản (tăng ở mặt hàng thủy sản, giấy và sản phẩm giấy, áo jaket, quần dài), Campuchia (tăng ở mặt hàng ngô hạt), Trung Quốc (tăng chủ yếu ở mặt hàng quặng các loại).
+ Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 12,3 triệu USD, giảm 23,61% so với cùng kỳ năm trước. Giảm chủ yếu ở thị trường Anh (giảm ở mặt hàng tôm), Đức (giảm ở mặt hàng tôm thẻ), Hà Lan (giảm ở mặt hàng tôm thẻ).
+ Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 24,6 triệu USD, tăng 46,47% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu ở thị trường Mỹ (tăng ở mặt hàng giày dép, đồ gỗ nội thất, tôm thẻ), Canada (tăng ở mặt hàng giày dép).
- Ủy thác xuất khẩu 3 tháng đầu năm ước đạt 2,1 triệu USD, giảm 57,64% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu giảm ở mặt hàng áo sơ mi, mực tươi.
- Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 3 năm 2021 ước tính đạt 79,1 triệu USD, giảm 14,48% so với tháng trước và tăng 64,19% so với tháng cùng kỳ năm trước. Trong tháng 3 năm 2021, có 5 mặt hàng nhập khẩu có cơ cấu chiếm tỷ trọng cao: nhóm hàng hoá khác chiếm 29,11% (đạt 23,03 triệu USD), nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu chiếm 34,85% (đạt 13,9 triệu USD); nhóm hàng nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày chiếm 13,19% (đạt 10,4 triệu USD); nhóm hàng máy móc thiết bị, DCPT khác chiếm 14,23% (đạt 11,3 triệu USD) và nhóm hàng thủy sản chiếm 12,47% (đạt 9,9 triệu USD). Luỹ kế 3 tháng đầu năm, nhập khẩu ước đạt 257,03 triệu USD tăng 64,6% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực kinh tế trong nước tăng 71,38%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,75%.
4. Hoạt động vận tải
Hoạt động giao thông vận tải quý 1 năm 2021 không được thuận lợi do ảnh hưởng của dịch Covid-19 lần 3, nhiều doanh nghiệp ngành vận tải phải thu hẹp sản xuất kinh doanh hoặc tạm ngừng hoạt động, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ và vận tải hành khách. Các hoạt động lưu thông, vận chuyển hàng hóa, đặc biệt vận chuyển hành khách bị ảnh hưởng rõ rệt.
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 3 đã vận chuyển 1.507,2 nghìn hành khách và luân chuyển 78,6 triệu hk.km. Lũy kế 3 tháng đầu năm, vận chuyển 4.577,9 nghìn hành khách, giảm 27,92% so với cùng kỳ và luân chuyển 237,6 triệu hk.km, giảm 25,01% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 3 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.503,6 nghìn hành khách; lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 4.564,5 nghìn hành khách, giảm 27,74% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 3,6 nghìn hành khách; lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 13,4 nghìn hành khách, giảm 61,44% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 78,2 triệu hk.km; lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 236,1 triệu hk.km, giảm 24,55% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 0,39 triệu hk.km; lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 1,5 triệu hk.km, giảm 62,37% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 3 vận chuyển hàng hoá đạt 732,48 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 37,66 triệu tấn.km. Lũy kế 3 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã vận chuyển 2.136,22 nghìn tấn hàng hoá, giảm 16,82% so với cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 119,52 triệu tấn.km, giảm 15,32% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 3 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 732,2 nghìn tấn, lũy 3 tháng đầu năm, đạt 2.135,5 nghìn tấn, giảm 16,70% so với cùng kỳ. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,3 nghìn tấn, lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 0,7 nghìn tấn, giảm 65,49% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 37,6 triệu tấn.km, lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 119,4 triệu tấn.km, giảm 14,10% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 29,2 nghìn tấn.km, lũy kế 3 tháng đầu năm, đạt 71,6 nghìn tấn.km, giảm 67,16% so với cùng kỳ năm trước.
- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 3 ước đạt 60.000 tấn; lũy 3 tháng đầu năm, đạt 184.688 tấn (trong đó, khối lượng bốc xếp ngoài nước đạt 14.504 tấn); các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, xi măng, muối xá, thiết bị máy móc. Lũy kế 3 tháng đầu năm, doanh thu ước đạt 25,82 tỷ đồng.
- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 3 đạt 154,7 tỷ đồng, giảm 0,5% so với tháng trước và tăng 8,79% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 469,5 tỷ đồng, giảm 18,57% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 175,6 tỷ đồng, giảm 27,79% so với cùng kỳ; Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 284,3 tỷ đồng, giảm 11,69% so với cùng kỳ; Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 9,6 tỷ đồng, giảm 23,11% so với cùng kỳ.
V. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu, chi ngân sách:
Ước thu ngân sách tháng 3 đạt 600 tỷ đồng. Lũy kế 3 tháng đầu năm, ước đạt 3.282,32 tỷ đồng, đạt 39,45% dự toán năm, tăng 9,76% so cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa (trừ dầu) đạt 2.819,14 tỷ đồng, đạt 46,83% dự toán năm, tăng 26,45%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí và thu khác 2.128 tỷ đồng, đạt 41,48% dự toán năm, tăng 10,43%; thu tiền nhà, đất 691 tỷ đồng, đạt 77,68% dự toán năm, tăng 28,54% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 640 tỷ đồng, đạt 91,39% dự toán năm, tăng 2,7 lần so với cùng kỳ); thu dầu thô 234 tỷ đồng, đạt 29,22% dự toán năm, giảm 43,4%.
Tổng chi ngân sách trong tháng 3 ước thực hiện 600 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 550 tỷ đồng); lũy kế 3 tháng đầu năm ước đạt 2.703 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 1.890 tỷ đồng); trong đó, chi đầu tư phát triển 630,9 tỷ đồng, chi thường xuyên 1.259,1 tỷ đồng.
2. Hoạt động tín dụng:
Trong quý 1 năm 2021, hoạt động tín dụng trên địa bàn tiếp tục ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội địa phương; vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên; đồng thời đã nghiêm túc triển khai thực hiện các biện pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do tác động của dịch Covid-19; công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, thanh toán chuyển tiền điện tử tiếp tục được đẩy mạnh; việc cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu tiếp tục được quan tâm triển khai, đảm bảo hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân nói riêng phát triển an toàn; đồng thời tăng cường công tác an toàn hoạt động ngân hàng, đáp ứn nhu cầu tiền mặt của người dân, bảo đảm hệ thống máy ATM hoạt động ổn định, an toàn và thông suốt trong dịp tết.
Tính đến ngày 03/3/2021, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 756,8 tỷ đồng/4.558 khách hàng; giảm lãi vay cho 2.703 khách hàng với số tiền lãi được giảm 1,18 tỷ đồng; cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra, doanh số cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh từ ngày 23 tháng 01 năm 2020 đến ngày 03 tháng 3 năm 2021 đạt 16.035 tỷ đồng/5.935 khách hàng.
Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 3,1 - 3,95%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 3,6 - 6,9%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 5,6 - 7,2%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 5,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7 - 9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9 - 11,5%/năm.
Hoạt động huy động vốn (đến ngày 31/01/2021), nguồn vốn huy động đạt 40.667 tỷ đồng, giảm 0,75% so với đầu năm. Luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 31/3/2021), vốn huy động đạt 41.096 tỷ đồng, tăng 0,3% so với đầu năm.
Hoạt động tín dụng (đến 31/01/2021), tổng dư nợ cho vay đạt 69.987 tỷ đồng, tăng 0,45% so với đầu năm. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 68.836 tỷ đồng, chiếm 98,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 38.138 tỷ đồng, chiếm 54,5% tổng dư nợ. Luỹ kế 3 tháng đầu năm dư nợ đạt 71.418 tỷ đồng, tăng 2,5% so với đầu năm.
Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 37.697 tỷ đồng, chiếm 53,9% tổng dư nợ; cho vay xuất khẩu đạt 479 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng dư nợ; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 14.177 tỷ đồng, chiếm 20,2% tổng dư nợ; cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.952 tỷ đồng.
Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 928 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 293,3 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 629 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 5,7 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 87,37 tỷ đồng/6 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 142,6 tỷ đồng/91 tàu.
Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 369 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, chăn nuôi bò sữa công nghệ cao; dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thuốc thú y, thức ăn gia súc đạt 519 tỷ đồng.
Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh, dư nợ đạt 57 tỷ đồng/149 hộ.
Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công và chi trả an sinh xã hội. Tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục hoạt động ổn định, thông suốt và an toàn trong dịp Tết. Đến ngày 31 tháng 01 năm 2021, trên địa bàn có 187 máy ATM (tăng 3 máy so với đầu năm) và 1.415 máy POS (giảm 298 máy so với đầu năm), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng trên địa bàn đã bám sát điều hành tỷ giá và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Nhìn chung, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ trong tháng 1 năm 2021 đạt 44,8 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 7,7 triệu USD.
VI. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động văn hóa:
- Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Tập trung tuyên truyền hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân Tân Sửu 2021; kỷ niệm 91 năm ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2021); Chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tuyên truyền công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo; bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan trong dịp Tết, công tác phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác phòng, chống dịch Covid-19…
Đã tổ chức các Chương trình nghệ thuật phục vụ tết Nguyên đán Tân Sửu 2021 như: “Chào Xuân Tân Sửu 2021”; “Rạng ngời sắc Xuân” do ban nhạc Philippin và nhóm nhạc Acoustic biểu diễn; Chương trình nghệ thuật múa Lân Sư Rồng, chủ đề “Đón Xuân”; Chương trình Acoustic “Xuân yêu thương”; Đờn ca tài tử cải lương chào Xuân Tân Sửu 2021; Chung kết Liên hoan “Bước nhảy xanh” tỉnh Bình Thuận lần thứ II năm 2021; tổ chức triển lãm 200 ảnh tài liệu Chào mừng kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2021) và thành tựu Kinh tế - Văn hóa - Xã hội và An ninh quốc phòng tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2015 - 2020.
Đội Tuyên truyền và chiếu phim lưu động biểu diễn 112 buổi chiếu phim, các chương trình ca, múa nhạc “Mừng Đảng - mừng Xuân Tân Sửu năm 2021” và kịch bản tuyên truyền “Ma túy nỗi bất hạnh” phục vụ nhân dân các huyện, thị xã trong tỉnh. Nhà hát ca múa nhạc Biển Xanh đã biểu diễn phục vụ chính trị 11 buổi. Phối hợp với thành phố Phan Thiết biểu diễn chương trình nghệ thuật “Lễ hội Giao thừa mừng Xuân Tân Sửu 2021”.
Hoạt động Thư viện: Cấp mới 109 thẻ (thiếu nhi 24 thẻ), lượt bạn đọc là 85.796 (lượt bạn đọc tại thư viện: 4.307, lượt bạn đọc qua website: 881.489); luân chuyển 892.874 lượt tài liệu (lượt tài liệu tại thư viện: 11.385, lượt tài liệu qua website: 881.489). Sưu tầm 258 tin, bài cho tập Thông tin tư liệu Bình Thuận; 59 tin, bài Chuyên mục Thông tin kinh tế. Phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận tổ chức Hội Báo Xuân Tân Sửu năm 2021 tại khuôn viên Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận, với 168 loại báo Xuân của Trung ương, các tỉnh và ấn phẩm địa phương, phục vụ nhân dân và du khách vui xuân, đón Tết. Luân chuyển 9.600 bản sách cho các địa bàn cơ sở. Phục vụ xe ô tô thư viện lưu động tại 03 điểm, với 6.000 bản sách, thu hút 1.150 lượt bạn đọc.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng, phát huy các giá trị lịch sử văn hóa đem lại cho du khách tham quan, thưởng lãm nhiều trải nghiệm quý báo về con người văn hóa Bình Thuận. Trong quý 1 năm 2021 đã đón 51.948 lượt khách, trong đó 7 lượt khách nước ngoài. Triển lãm ảnh tư liệu chuyên đề “Bác Hồ với mùa Xuân”; “Phan Thiết xưa”; ảnh nghệ thuật “Sắc màu Bình Thuận” và chiếu phim tư liệu “Bác Hồ với những mùa Xuân cách mạng” phục vụ Nhân dân và du khách thăm quan. Tổ chức trưng bày 50 ảnh chuyên đề “Vùng đất và con người Bình Thuận”; biểu diễn nghệ thuật dân gian Chăm (dân ca, dân vũ, dân nhạc), mời nghệ nhân người Chăm trình diễn nghề truyền thống (dệt, gốm, bánh gừng); mời nghệ nhân trình diễn nghề Dệt, Gốm truyền thống của người Chăm phục vụ khách tham quan trong dịp Tết Nguyên đán.
Tuy nhiên, trong quý 1 năm 2021, do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, lây lan nhiều tỉnh thành nên nhiều hoạt động văn hóa, thể thao tại các địa phương đều tạm dừng tổ chức và giảm quy mô để góp phần phòng, chống dịch.
2. Thể dục thể thao:
Hoạt động thể thao quần chúng: Tổ chức Việt dã chạy vượt đồi cát Mũi Né phục vụ tết Nguyên đán Tân Sửu 2021; giải Vô địch bóng chuyền hơi nữ tỉnh Bình Thuận năm 2021-Cúp A-H-A; giải Bóng rổ học sinh Trung học phổ thông mở rộng “Mừng Đảng, Mừng Xuân” năm 2021.
Hoạt động thể thao thành tích cao: Quý 1 năm 2021, tổng số huy chương đạt 17 huy chương (03 huy chương vàng; 06 huy chương bạc; 08 huy chương đồng).
3. Giáo dục và Đào tạo:
Chất lượng giáo dục các cấp học tiếp tục được duy trì. Qua kết quả sơ kết học kỳ I năm học 2020 – 2021, kết quả kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, đội tuyển học sinh giỏi của tỉnh có 10 học sinh đạt giải (3 giải ba, 7 giải khuyến khích); kết quả kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh năm học 2020 – 2021 đạt 15 giải nhất, 63 giải nhì, 277 giải ba; kết quả cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp tỉnh dành cho học sinh trung học có 47 dự án tham gia dự thi, kết quả có 23 dự án đạt giải chính thức, 1 đơn vị đạt giải tập thể. Triển khai đồng bộ giải pháp tích cực, thường xuyên tổ chức kiểm tra, vận động học sinh bỏ học ra lớp, do đó tỷ lệ học sinh bỏ học trong học kỳ I năm học 2020 - 2021 là 282 em, đạt tỷ lệ 0,12% (Tỷ lệ học sinh bỏ học so với học kỳ 1 năm học trước 0,16%).
Tính đến ngày 09/3/2021, toàn tỉnh có tổng cộng 262 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó Mầm non có 49 trường, Tiểu học 124 trường, THCS 75 trường, THPT 14 trường; tính riêng trong năm 2021, có thêm 01 trường THCS đạt chuẩn quốc gia.
4. Y tế
Trong quý 1 năm 2021, đã tổ chức thực hiện tốt các hoạt động phục vụ y tế trước, trong và sau Tết Nguyên đán; công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, các đơn vị điều trị thực hiện tốt công tác phân luồng phòng lây nhiễm Covid-19, sẵn sàng tiếp nhận, điều trị các trường hợp nhiễm virut Covid-19, chuẩn bị khu cách ly, thành lập đội đáp ứng nhanh hỗ trợ điều trị cho tuyến dưới, chuẩn bị đầy đủ các phương tiện bảo hộ, thuốc, hoá chất phòng chống dịch. Các ca bệnh được quản lý chặt chẽ, cập nhật kịp thời và xử lý triệt để các ổ dịch. Tình hình dịch cúm A H5N1, H7N9, Ebola, Zika đến nay chưa ghi nhận trường hợp mắc.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 15/3/2021), tỉnh liên tiếp 370 ngày không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm Covid-19. Trong quý 1 năm 2021 (đến ngày 09/3/2021) có 520 bệnh nhân thu dung điều trị lao, 250 bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực; trong quý không xảy ra ngộ độc thực phẩm.
5. Thông tin-Truyền thông; Khoa học-Công nghệ; Bưu chính, viễn thông
- Thông tin và Truyền thông: Trong quý 1 năm 2021, công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng kịp thời, đa dạng. Đáng chú ý các báo tập trung đăng tin, bài về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 và những nỗ lực ngăn chặn dịch của tỉnh. Thông tin liên lạc đảm bảo thông suốt đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ nhân dân; hạ tầng mạng lưới bưu chính, viễn thông được đầu tư theo hướng hiện đại, chất lượng các dịch vụ ngày càng được nâng lên. Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp.
Các sở, ngành, địa phương quan tâm ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động chuyên môn, phát triển hạ tầng số, chuyển đổi số. Các phần mềm ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước đã phát huy hiệu quả tốt, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, thúc đẩy cải cách hành chính, minh bạch hóa thông tin, phục vụ chỉ đạo điều hành, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin và phòng chống mã độc trong các cơ quan nhà nước được quan tâm thực hiện.
- Khoa học - Công nghệ: Trong quý 1 năm 2021, hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng chống đại dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới. Đã tổ chức đánh giá, nghiệm thu 14 nhiệm vụ thường xuyên; thẩm định đầu tư 7 dự án hoạt động quản lý công nghệ và thực hiện cấp giấy chứng nhận về việc đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cho 02 đề tài. Tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tiếp tục triển khai thực hiện Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, thiết bị đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm lợi thế của tỉnh và hỗ trợ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho của tổ chức, doanh nghiệp.
- Bưu chính, viễn thông: Hạ tầng bưu chính, mạng viễn thông tiếp tục được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn và thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước, người dân và các tổ chức, doanh nghiệp. Mạng lưới phục vụ bưu chính, viễn thông với 1.250 cơ sở kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, đạt bán kính phục vụ bình quân là 14 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại các loại ước đạt: 1.848.900 thuê bao (điện thoại cố định là 30.000 thuê bao), mật độ điện thoại 147,25 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet ước đạt 143.250 thuê bao, tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) là 63,75%.
6. Tài nguyên môi trường
Tăng cường công tác quản lý đất đai, triển khai lập kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2021-2025 của tỉnh, luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 05/3/2021) toàn tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được 963,8 ha đạt 34,64% kế hoạch giao, (trong đó: tổ chức đạt 29,03 ha đạt 5,8% kế hoạch giao; hộ gia đình cá nhân 934,77ha đạt 40,96% kế hoạch giao). Trích đo phục vụ giao, thuê đất và cấp Giấy chứng nhận của tổ chức đạt 30,81 ha, đạt 3,08 % kế hoạch giao năm 2021; trích đo của hộ gia đình cá nhân đạt 957,03 ha, đạt 87,40 % kế hoạch giao năm 2021. Đưa vào nghiệm thu hạng mục bản đồ và hạng mục đăng ký cấp Giấy chứng nhận 02 xã Đức Phú và Măng Tố huyện Tánh Linh.
Tập trung ưu tiên giải quyết hồ sơ đo đạc các công trình trọng điểm để phục vụ công tác bồi thường, giải tỏa mặt bằng. Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản được tăng cường, đôn đốc các chủ đầu tư dự án mỏ khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục theo quy định để đi vào khai thác. Các điểm nóng về môi trường luôn được giám sát chặt chẽ, nhất là tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân, Cảng quốc tế Vĩnh Tân. Tình hình môi trường tại Cụm công nghiệp chế biến hải sản Phú Hài cơ bản đã tương đối ổn định, Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân đã dần đi vào nề nếp. Thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ việc sử dụng nước trong hoạt động khai thác titan.
7. Lao động, việc làm; chính sách vùng đồng bào dân tộc; đời sống dân cư
- Lao động, việc làm: Ước luỹ kế 3 tháng đầu năm, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 5.904 lao động, đạt 29,5% kế hoạch năm, trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm cho 490 lao động, đạt 35% kế hoạch năm; tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp cho 3.500 người, đạt 35% kế hoạch năm.
- Vận động đóng góp Quỹ Bảo trợ trẻ em (đến ngày 05/3/2021) được 70 triệu đồng, đạt 3,5% so với kế hoạch năm. Ước luỹ kế 3 tháng vận động 150 triệu đồng, đạt 7,5% so với kế hoạch năm.
- Công tác chính sách người có công: Đã thăm, chúc Tết 20 hộ gia đình người có công và tổ chức thăm, chúc Tết cho 280 gia đình người có công nhân dịp Tân Sửu năm 2021. Trong tháng 3 trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 23 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; trợ cấp mai táng phí cho 20 trường hợp. Cấp dụng cụ chỉnh hình cho 10 trường hợp, thực hiện chế độ ưu đãi giáo dục đối với con của người có công với cách mạng đến niên hạn hoặc khóa học cho 03 trường hợp, điều chỉnh thông tin trong hồ sơ liệt sĩ 03 trường hợp.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 05/3/2021), toàn tỉnh có 3.536 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó đang cai nghiện tại cơ sở điều trị nghiện ma túy 222 người; đang quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 351 người; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 647 người; 2.299 đang được các ban, ngành, đoàn thể ở nơi cư trú quản lý giáo dục.
Thực hiện hỗ trợ người lao động theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do Covid-19, luỹ kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 05/3/2021) đã hỗ trợ nhóm đối tượng là Người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; hộ nghèo, hộ cận nghèo cho 115.323 đối tượng, với 117,81 tỷ đồng. Hỗ trợ nhóm đối tượng là người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương; người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp; lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm và hộ kinh doanh 28.325 đối tượng với số tiền 29,36 tỷ đồng.
Thực hiện hướng dẫn Liên tịch số 14/HDLN-UBMTTQVN-LĐTBXH-GDĐT, ngày 22/9/2020 về việc lập thủ tục hồ sơ hỗ trợ giáo viên, nhân viên trong các trường học, cơ sở giáo dục bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 (đến ngày 05/3/2021): đã hỗ trợ cho 18 người, với số tiền 36 triệu đồng; lũy kế 3 tháng đầu năm (đến ngày 05/03/2021) đã hỗ trợ cho 402 người với số tiền 804 triệu đồng.
- Chính sách vùng đồng bào dân tộc: Trong quý 1 năm 2021, đã tổ chức thăm và chúc tết Đầu lúa 04 xã vùng cao huyện Bắc Bình; phối hợp Ủy ban Dân tộc Tỉnh và Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thăm và chúc tết 33 tập thể và 1.279 cá nhân thuộc hộ nghèo, gia đình chính sách, Người có uy tín, Già làng, Trưởng bản… trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số với tổng giá trị trên 784 triệu đồng.
Ngoài ra, thực hiện tốt việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhìn chung, đời sống trong vùng đồng bào cơ bản ổn định; công tác giáo dục có nhiều chuyển biến, hệ thống trường lớp được đầu tư nâng cấp; đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá, chất lượng dạy và học được nâng lên; việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc được quan tâm, mạng lưới y tế các xã thuần đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được củng cố, tăng cường. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản ổn định. Cung ứng kịp thời vật tư hàng hoá các loại phục vụ sản xuất và đời sống cho đồng bào dân tộc. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai đồng bộ, môi trường xã hội cải thiện rõ nét; khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và lòng tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước tiếp tục được giữ vững.
- Công tác an sinh xã hội: Các chế độ chính sách ưu đãi và hỗ trợ đời sống đối với người có công với cách mạng được quan tâm triển khai tích cực. Các dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo năm 2021 tiếp tục được triển khai; các địa phương triển khai tốt các giải pháp cụ thể trợ giúp hộ nghèo ổn định sản xuất và phát triển sản xuất, chính sách an sinh xã hội được bảo đảm, chi trả trợ cấp kịp thời, đúng thời gian quy định, đúng chế độ, chính sách; đời sống của nhân dân nói chung ổn định, không xảy ra thiếu đói sau tết.
- Tình hình đời sống dân cư: 3 tháng năm 2021 tình hình sản xuất kinh doanh tương đối ổn định; đến nay, dịch Covid-19 đã cơ bản được khống chế, tỉnh tiếp tục chỉ đạo vừa phòng dịch, vừa khôi phục kinh tế; tuy nhiên quá trình phục hồi của nền kinh tế còn chậm, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm hàng hóa chưa cao; nguồn lực đầu tư phát triển còn hạn chế, kết cấu hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ; sự gia tăng mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhất là tình trạng hạn hán gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp; giá một số mặt hàng nông sản ở mức thấp; hoạt động du lịch, lưu trú, ăn uống còn nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19; tiến độ đầu tư xây dựng còn chậm, thu hút đầu tư nước ngoài còn ít,… đã tác động không nhỏ đến mọi mặt đời sống xã hội. 3 tháng qua trên địa bàn tỉnh không xảy ra tình hình thiếu đói trong dân.
8. Hoạt động bảo hiểm
Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch.
Tính đến ngày 28/02/2021, toàn tỉnh có 92.042 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 4,1% so với cùng kỳ; có 83.406 người tham gia BHTN, giảm 0,7% so với cùng kỳ; số người tham gia BHXH tự nguyện 10.291 người, tăng 197,9% so với cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 1.014.694 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.312 người), tăng 5,2% so với cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 89,4% dân số.
Đã xét duyệt, giải quyết cho 8.207 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN. Trong đó, hưởng các chế độ BHXH dài hạn 166 lượt người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 1.472 lượt người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 5.751 lượt người; hưởng trợ cấp BHTN 818 lượt người. Ước thực hiệnquý 1 năm 2021 xét duyệt, giải quyết cho 16.860 lượt người.
Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn đến đầu tháng 2/2021 là 16.295 người. Tính đến ngày 28/02/2021, tổng số thu 296,22 tỷ đồng, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Ước thực hiện quý 1 năm 2021, tổng số thu 525,16 tỷ đồng. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 183,3 tỷ đồng, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước.
9. Tai nạn giao thông (từ 15/02-14/3/2021):
Số vụ tai nạn giao thông 22 vụ, so với tháng trước giảm 8 vụ và so với cùng kỳ năm trước giảm 4 vụ. Luỹ kế 3 tháng đầu năm 93 vụ (trong đó đường sắt không có xảy ra), so với cùng kỳ năm trước tăng 23 vụ.
Số người bị thương 13 người, giảm 02 người so với tháng trước và giảm 03 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm 53 người, tăng 08 người so với cùng kỳ năm trước.
Số người chết 18 người, giảm 02 người so với tháng trước và tăng 03 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 3 tháng đầu năm 67 người, so với cùng kỳ tăng 26 người.
Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông nào đặt biệt nghiêm trọng. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra trên tuyến quốc lộ 1A ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, đi không đúng phần đường, làn đường, chuyển hướng sai quy định, không nhường đường, lái xe đã uống rượu bia,... ngoài ra còn có các nguyên nhân khác và do người đi bộ gây ra. Tập trung thực hiện, tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm, lập lại trật tự an toàn giao thông; xử lý xe chở học sinh, xe chở công nhân, xe chở khách du lịch trên địa bàn tỉnh và các xe hợp đồng “trá hình” chạy tuyến cố định.
10. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường::
Thiên tai: Trong tháng không xảy ra vụ thiên tai nào. Lũy kế 3 tháng đầu năm xảy ra 03 vụ thiên tai do gió to, sóng mạnh kết hợp triều cường dâng liên tục vào bờ gây sạt lỡ bờ kè bảo vệ bờ biển và làm 01 thuyền máy của ngư dân bị chìm. Ước giá trị thiệt hại do gió mạnh 100 triệu đồng.
Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 06 vụ cháy (giảm 02 vụ so với cùng kỳ), thiệt hại 2.106,7 triệu đồng; có 2 vụ chưa thống kê thiệt hại, không xảy ra nổ. Lũy kế 3 tháng đầu năm có 14 vụ cháy (giảm 14 vụ so cùng kỳ), thiệt hại 2.787,7 triệu đồng.
Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 01 vụ (giảm 01 vụ so cùng kỳ), đã xử phạt 80 triệu đồng. Lũy kế 3 tháng đầu năm, đã phát hiện 08 vụ (giảm 01 vụ so cùng kỳ), tổng tiền đã xử phạt 818,7 triệu đồng./.
Website Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận