Trong tháng tình hình sản xuất nông nghiệp tương đối thuận lợi, đến nay, vụ Đông xuân cơ bản đã hoàn thành việc gieo trồng, đang trong giai đoạn chăm sóc và thu hoạch ở một số trà lúa xuống giống sớm; một số khu vực chủ động được nguồn nước đã tiến hành xuống giống vụ Hè thu sớm. Chăn nuôi tiếp tục ổn định, không có dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra. Công tác trồng rừng được các địa phương và các đơn vị chủ rừng chuẩn bị tích cực đễ trồng rừng khi mùa mưa đến; công tác phòng chống cháy rừng tiếp tục được tăng cường. Thời tiết thuận lợi cho nuôi trồng và khai thác thuỷ sản; sản lượng khai thác thuỷ sản tăng so với cùng kỳ và tháng trước.
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản
1. Trồng trọt
* Cây hàng năm: Tính đến ngày 15/4/2021, diện tích gieo trồng vụ Đông xuân đạt 46.983,8 ha, tăng 47,2 % so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, cây lúa đạt 36.520,5 ha, tăng 64,4%; cây bắp đạt 3.288,1 ha, giảm 4,7%; rau các loại đạt 2.927,1 ha, giảm 3,8%; đậu các loại đạt 2.308,8 ha, tăng 41,7%; cây hàng năm khác đạt 612,4 ha, tăng 63%. Tiến độ thu hoạch vụ Đông xuân ước đạt 19.343,6 ha, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, cây lúa 11.503,5 ha, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến ngày 07/4/2021 toàn tỉnh đã gieo trồng 1.304 ha lúa vụ Hè thu sớm ở một số khu vực chủ động được nguồn nước.
* Cây lâu năm: Trong tháng chủ yếu tập trung chăm sóc trên diện tích cây lâu năm hiện có.
- Cây thanh long: Trong tháng, giá thanh long vẫn đang ở mức cao nên nhiều hộ tiếp tục chong đèn ra hoa trái vụ, tuy nhiên do thời tiết không thuận lợi nên khả năng đạt sản lượng ở mức thấp. Đến thời điểm 15/4/2021, toàn tỉnh có 11.419,5 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.
- Cây cao su: Đang trong kỳ thay lá non, người trồng tập trung quét lá, dọn vườn để chuẩn bị cho vụ thu hoạch mới. Dự tính diện tích trồng mới trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng trong thời gian tới.
- Cây điều: Đang là thời điểm điều kết trái, một số nơi đang thu hoạch, do ảnh hưởng thời tiết lạnh trong năm nên cây điều ra hoa và đậu trái chậm hơn so với các năm trước.
- Cây tiêu: Hiện đang cuối vụ thu hoạch, năng suất năm nay đánh giá thấp hơn so với cùng kỳ năm trước do sâu bệnh.
Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.
* Tình hình dịch bệnh: Trong tháng, công tác dự báo và ngăn ngừa dịch bệnh trên cây trồng được theo dõi, triển khai thường xuyên, không xảy ra những ổ dịch lớn.
- Cây lúa: Bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 1.084 ha, tăng 582 ha so với cùng kỳ năm trước; bệnh sâu đục thân diện tích nhiễm 1.123 ha, tăng 665 ha so với cùng kỳ năm trước.
- Cây thanh long: Bệnh nám vàng cành diện tích nhiễm 1.861 ha. Bệnh thối rễ tóp cành diện tích nhiễm 721 ha.
- Cây điều: Bệnh thán thư diện tích nhiễm 694 ha, tăng 460 ha so với cùng kỳ năm trước. Bọ xít muỗi diện tích nhiễm 522 ha, tăng 371 ha so với cùng kỳ năm trước.
* Tình hình tưới vụ Đông xuân 2020-2021:
Kết quả cấp nước sản xuất vụ Đông xuân 2020-2021 đạt 50.079 ha, đạt 99,9% so với kế hoạch. Trong đó, diện tích tưới lúa, hoa màu năm 2020-2021 thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh đạt 29.456, đạt 99,9%; diện tích tưới cây thanh long và cây công nghiệp dài ngày đạt 20.623 ha, đạt 100% so với kế hoạch.
Tính đến ngày 09/4/2021, lượng nước hữu ích hiện tại các hồ chứa trong tỉnh đạt 109,9 triệu m3, đạt 30,3% thiết kế, cao hơn 76,7 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước; hồ thuỷ điện Đại Ninh đạt 87,9 triệu m3, đạt 34,9% thiết kế, cao hơn 54,5 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước; hồ thuỷ điện Hàm Thuận còn 160 triệu m3, đạt 34,9% thiết kế, thấp hơn 86 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước.
2. Chăn nuôi (tại thời điểm ngày 15/4/2021)
Trong tháng chăn nuôi ổn định; đàn trâu giảm nhẹ, đàn bò có khuynh hướng tăng; chăn nuôi lợn phát triển khá, giá thịt hơi ở mức cao nên nhiều doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi mở rộng tái đàn; chăn nuôi gia cầm phát triển thuận lợi, tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm cơ bản được kiểm soát tốt, nhiều trang trại nuôi gà công nghiệp CP được thành lập mới.
- Chăn nuôi trâu, bò: Ước đàn trâu có 8.650 con, giảm 0,69% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi bò tiếp tục duy trì và phát triển, tạo thu nhập ổn định cho hộ chăn nuôi, đàn bò có 170.300 con, tăng 1,79% so với cùng kỳ năm trước.
- Chăn nuôi lợn: Ước đàn lợn có 301.500 con, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi lợn đang chuyển từ chăn nuôi hộ, gia trại nhỏ lẻ sang quy mô doanh nghiệp công nghệ cao (CP). Tình hình dịch bệnh ở các hộ nuôi nhỏ lẻ nhìn chung chưa được kiểm soát tốt.
- Chăn nuôi gia cầm: Ước đàn gia cầm có 4.052 ngàn con, tăng 14,98% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đàn gà 2.781 ngàn con, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm trước, đàn gà có khuynh hướng tăng mạnh, do nhiều trang trại chăn nuôi gà công nghiệp theo mô hình CP thành lập trong thời gian gần đây.
* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật: Trong tháng không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm, tuy nhiên một số bệnh truyền nhiễm thông thường vẫn xảy ra trên gia súc, gia cầm nhưng ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch.
- Công tác tiêm phòng: Đã tổ chức tiêm phòng 2.036.987 liều vắc xin, trong đó, đàn trâu bò 645 liều, đàn lợn 405.668 liều, đàn gia cầm 1.629.295 liều.
- Kiểm dịch động vật: Đã kiểm dịch 267.281 con lợn, 9.781 con trâu bò, 1.659.530 con gia cầm, 330.384 kg thịt các loại.
- Kiểm soát giết mổ: Đã thực hiện giám sát thường xuyên điều kiện vệ sinh thú y đối với các cơ sở kinh doanh giết mổ.
3. Lâm nghiệp
- Công tác trồng rừng: Trong tháng, hoạt động trồng rừng chưa được triển khai. Các đơn vị chủ rừng tập trung gieo tạo cây giống để triển khai trồng rừng khi điều kiện thuận lợi. Đến nay đã gieo ươm được 763 nghìn cây giống các loại.
- Công tác phòng chống cháy rừng: Nhằm hạn chế những thiệt hại do cháy rừng gây ra, một số địa phương trong tỉnh đã triển khai các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng. Trong tháng trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 06 trường hợp cháy với diện tích 15,43 ha, chủ yếu cháy thực bì dưới tán rừng không gây thiệt hại tài nguyên rừng.
- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Ngành chức năng và các đơn vị chủ rừng tích cực thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo vệ vững chắc diện tích rừng hiện có, không để xảy ra các tụ điểm phá rừng, buôn bán lâm sản trái phép; đồng thời phối hợp, hướng dẫn các địa phương trồng và nâng cao chất lượng rừng. Trong tháng đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý kịp thời 38 vụ vi phạm; luỹ kế 4 tháng có 82 vụ.
4. Thuỷ sản
- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Với thời tiết ổn định, thuận lợi tạo điều kiện cho người nuôi trồng thuỷ sản tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản, trong tháng ước đạt 245,7 ha, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm đạt 897,3 ha, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, diện tích nuôi cá đạt 634 ha, tăng 2,6%; diện tích nuôi tôm đạt 258,6 ha, tăng 3,2%).
- Sản lượng nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng trong tháng ước đạt 751 tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm đạt 3.814,1 ha, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, cá các loại đạt 1.437 tấn, tăng 2,5%; Tôm nuôi nước lợ ước đạt 2.356,5 tấn, tăng 2,5%).
- Sản lượng khai thác: Trong tháng tình hình thời tiết thuận lợi, hoạt động khai thác thủy sản ổn định. Một số nghề như câu, lưới kéo, vây rút chì khai thác đạt hiệu quả. Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng ước đạt 16.875,3 tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm ước đạt 56.845,7 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.
- Sản xuất giống thuỷ sản: Sản lượng giống sản xuất chủ yếu là tôm giống, ước trong tháng sản xuất 1,8 tỷ con, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm ước đạt 7,02 tỷ con tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình nuôi tôm giống thủy sản đã dần đi vào ổn định, nhu cầu tôm giống tăng cao ở thị trường trong nước.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra trường hợp tàu cá và ngư dân bị nước ngoài bắt giữ. Về vi phạm nguồn lợi thủy sản, trong tháng đã phát hiện và xử phạt vi phạm hành chính 35 trường hợp. Tiếp tục triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa. Tiếp tục tăng cường triển khai việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá. Đến ngày 05/4/2021, đã lắp đặt 1.798/1.925 tàu (đạt 93,4%). Công tác đăng kiểm tàu cá được thực hiện thường xuyên.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư - Xây dựng
1. Công nghiệp
Trong tháng, sản xuất công nghiệp có những tín hiệu hồi phục khả quan, sản lượng sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 4 ước tăng 10,76% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,01%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,50%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 11,48%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,65%.
Lũy kế 4 tháng đầu năm chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 8,4% so với cùng năm trước; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,52% góp phần chủ đạo trong tăng trưởng toàn ngành. Hai nhóm ngành tăng (ngành khai khoáng tăng 4,52%, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,14%); ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm nhẹ 1,89%.
Luỹ kế 4 tháng đầu năm ước giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) đạt 11.810,8 tỷ đồng, tăng 7,58% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, công nghiệp khai khoáng 243,3 tỷ đồng, tăng 7,99%; công nghiệp chế biến chế tạo 5.507,5 tỷ đồng, tăng 5,23%; sản xuất và phân phối điện 5.962,4 tỷ đồng, tăng 9,98%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 97,4 tỷ đồng, giảm 1,55%.
Các sản phẩm sản xuất 4 tháng đầu năm 2021 tăng so với cùng kỳ gồm: Đá khai thác tăng 16,46%; cát sỏi các loại tăng 5,41%; giày, gạch các loại tăng 5,84%; thủy sản khô tăng 10,45%; nước mắm tăng 33,97%; quần áo may sẵn tăng 0,75%; dép các loại tăng 44,55%; thức ăn gia súc tăng 5,96%; điện sản xuất tăng 9,71%; đồ gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 96,20%. Sản phẩm giảm gồm: Muối hạt giảm 37,26%; thủy sản đông lạnh giảm 0,70%; hạt điều nhân giảm 3,92%; nước khoáng (không tính nước khoáng tinh khiết) giảm 9,46%; nước máy sản xuất giảm 5,45%.
2. Đầu tư phát triển
Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 228,4 tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng đầu năm đạt 597,1 tỷ đồng, đạt 14,3% so với kế hoạch và tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 470,1 tỷ đồng, tăng 4,8%, đạt 13,7% kế hoạch năm, vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 114,6 tỷ đồng, giảm 5,2%, đạt 18,0% kế hoạch năm, vốn ngân sách nhà nước cấp xã 12,4 tỷ đồng, giảm 18,8%, đạt 15,5% kế hoạch năm.
Trong tháng tiếp tục triển khai thực hiện hiện các dự án trọng điểm của tỉnh (theo Nghị quyết số 52/NQ-HĐND, ngày 04/12/2020 của HĐND tỉnh về kế hoạch đầu tư công và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh năm 2021).
3. Đăng ký kinh doanh
Trong tháng 4 (từ ngày 15/3-15/4/2021), có 151 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó, có 53 đơn vị trực thuộc), tăng 69,66%% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký mới 1.966,4 tỷ đồng, tăng gấp 3,1 lần so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp đã giải thể 22 doanh nghiệp (trong đó, có 11 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 4,4 lần so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 21 doanh nghiệp (trong đó, có 5 đơn vị trực thuộc), giảm 58,82% so với cùng kỳ năm trước; đăng ký chuyển đổi loại hình 7 doanh nghiệp, bằng so với cùng kỳ năm trước; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 14 doanh nghiệp, tăng gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Luỹ kế 4 tháng đầu năm (tính từ ngày 01/01-15/4/2021), có 363 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó, có 133 đơn vị trực thuộc), tăng 6,76% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký 4.352 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với cùng kỳ năm trước; hoạt động trở lại 121 đoanh nghiệp (trong đó 16 đơn vị trực thuộc) tăng gấp 3,4 lần so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 153 doanh nghiệp (có 26 đơn vị trực thuộc), tăng 5,52% so với cùng kỳ năm trước; đăng ký thay đổi loại hình 21 doanh nghiệp (không có đơn vị trực thuộc), giảm 12,5% so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp đã giải thể tăng 79,17% so với cùng kỳ năm trước.
4. Đăng ký đầu tư
Trong tháng, đã cấp mới 01 dự án, với tổng diện tích đất 9,06 ha, tổng vốn đăng ký 70 tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng đầu năm (đến ngày 09/4/2021) cấp mới 11 dự án, với tổng diện tích đất 357,68 ha, tổng vốn đăng ký 14.078 tỷ đồng, đồng thời cấp điều chỉnh Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư 12 dự án.
Lũy kế từ trước đến nay (đến ngày 09/4/2021) trên địa bàn tỉnh có 1.591 dự án được cấp, với tổng diện tích đất 49.936 ha, tổng vốn đăng ký 333.618 tỷ đồng.
Trong tháng không có dự án khởi công, cũng không có dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và 02 dự án thu hồi. Luỹ kế 4 tháng đầu năm không có dự án khởi công, có 03 dự án đi vào hoạt động và 02 có dự án thu hồi. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng.
III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả
Tình hình thương mại trong tháng khá ổn định, hàng hoá không khan hiếm, không gây đột biến thị trường, giá bán ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân trong tỉnh.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4 ước đạt 4.782 tỷ đồng, tăng 2,95% so với tháng trước và tăng 39,92% so với cùng kỳ năm trước. Tháng tư là tháng có nhiều hoạt động lễ hội, sức mua trong dân được tăng cường và tăng so với tháng trước, dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 3.482,3 tỷ đồng, tăng 2,92% so với tháng trước và tăng 28,67% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các nhóm ngành hàng tăng so với tháng trước. Trong đó, các nhóm tăng như: nhóm lương thực, thực phẩm dự ước 1.736,1 tỷ đồng, tăng 3,66%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng dự ước 193,4 tỷ đồng, tăng 2,51%; nhóm hàng hoá khác dự ước 169,9 tỷ đồng, tăng 3,3%.
Luỹ kế 4 tháng đầu năm ước đạt 20.013 tỷ đồng, tăng 10,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 14.206,8 tỷ đồng, tăng 10,48%; doanh thu dịch vụ ước đạt 2.000 tỷ đồng, tăng 12,25%; Doanh thu lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành ước đạt 3.806,1 tỷ đồng, tăng 11,54%.
Trong tháng, sức mua của người dân tăng so với tháng trước; các Siêu thị Coop mart, Lotte mart, Bách hoá xanh, Vinmart và các cửa hàng điện máy đồng loạt giảm giá nhiều mặt hàng nhằm kích cầu tiêu dùng, tăng nhu cầu mua sắm của người dân. Đã tổ chức phiên chợ hàng Việt về huyện đảo Phú Quý, nằm trong khuôn khổ Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2021 nhằm mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; qua đó tạo điều kiện cho người dân vùng hải đảo có cơ hội tiếp cận, mua sắm các sản phẩm, hàng hóa mang thương hiệu Việt có chất lượng tốt với giá cả hợp lý.
* Công tác quản lý thị trường: Tiếp tục tăng cường kiểm tra kiểm soát thị trường, quản lý địa bàn qua đó phát hiện nhanh, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi để hàng hóa lưu thông trên thị trường, đảm bảo an toàn thực phẩm, sức khỏe và quyền lợi người tiêu dùng; không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng gây bất ổn thị trường. Trong tháng 3/2021 đã kiểm tra 26 vụ, phát hiện và xử lý 06 vụ vi phạm (trong đó 02 vụ hàng hàng cấm và 04 vụ vi phạm khác, thu nộp ngân sách nhà nước 39,1 triệu đồng). Luỹ kế trong 03 tháng đầu năm đã kiểm tra 301 vụ, phát hiện và xử lý 116 vụ vi phạm (trong đó 16 vụ hàng hàng cấm, 13 vụ hàng nhập lậu; 08 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá; 29 vụ vi phạm trong kinh doanh; 22 vụ vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm và 28 vụ vi phạm khác); đã xử phạt và thu nộp ngân sách nhà nước 900,2 triệu đồng.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 năm 2021 so với tháng trước giảm 0,08%; so với tháng cùng kỳ năm trước tăng 3,07%; so với tháng 12/2020 tăng 1,28%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2021 tăng 1,02% so với bình quân 4 tháng năm 2020.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 5 nhóm hàng tăng giá: Giao thông tăng 0,92%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,52%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,21%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,05%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%. Có 3 nhóm hàng giảm giá: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,39%; May mặc, mũ nón và giầy dép giảm 0,34%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,21%;. Có 3 nhóm hàng ổn định: Giáo dục 100%; Bưu chính viễn thông 100%; Thuốc và dịch vụ y tế 100%.
2. Hoạt động du lịch
Trong tháng hoạt động du lịch và dịch vụ phục vụ khách du lịch tiếp tục phát triển, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách, tỉnh tiếp tục nỗ lực thu hút khách du lịch từ các địa phương trong nước bằng nhiều hình thức thông qua các chương trình khuyến mãi và quảng bá trên các phương tiện truyền thông.
Lượng khách du lịch ước tháng 4 đạt 344 ngàn lượt khách, tăng 5,62% so tháng trước và tăng 617,59% so với tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 570,5 ngàn ngày khách, tăng 7,8% so với tháng trước và tăng 539% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm, lượt khách du lịch ước đạt 1.381,4 ngàn lượt khách, tăng 2,65% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách du lịch ước đạt 2.325,5 ngàn lượt khách, tăng 3,33% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch tháng 4 ước đạt 729,6 tỷ đồng, tăng 5,18% so với tháng trước và tăng 2,69 lần so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm, ước đạt 2.996,5 tỷ đồng, giảm 20,42% so với cùng kỳ năm trước.
* Tình hình khách quốc tế: Trong tháng 4 lượng khách quốc tế tăng so với tháng trước, dự ước đạt 2,6 ngàn lượt khách, tăng 6,21% so với tháng trước và tăng 69,32% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ dự ước đạt 9,8 ngàn ngày khách, tăng 7,94% so với tháng trước và tăng 6,6 % so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 4 tháng năm 2021 ước đạt 14,6 ngàn lượt khách, giảm 90,18% so với cùng kỳ; ngày khách phục vụ ước đạt 55 ngàn ngày khách giảm 88,40% so với cùng kỳ.
Trong tháng dịp nghỉ lễ nhiều ngày nên lượng khách du lịch trong nước đến tỉnh có chiều hướng tăng mạnh so với tháng trước; các hoạt động vui chơi giải trí, dịch vụ tiếp tục hoạt động bình thường và tăng so với tháng trước. Đối với các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống đảm bảo an toàn thực phẩm, niêm yết giá không “chặc chém” du khách theo chỉ đạo của tỉnh, đáp ứng kịp thời nhu cầu cho địa phương và khách du lịch trong dịp lễ 30/4 và 1/5 do vậy dự ước doanh thu tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục trong 4 tháng 2021 ngành du lịch chưa thể phục hồi, lượng khách đến du lịch còn thấp so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng dịch Covid-19 trên thế giới còn phức tạp, đường bay quốc tế chưa mở cửa phục vụ đi lại cho du lịch.
3. Xuất, nhập khẩu
Xuất khẩu hàng hoá trong tháng 4 tiếp tục đà tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước; các mặt hàng thuỷ sản, nông sản, hàng may mặc, giày dép đều ở mức tăng trưởng cao, đây là tín hiệu đáng mừng cho xuất khẩu Bình Thuận năm 2021 sau đại dịch Covid-19 gây ra.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trong tháng ước đạt 53,84 triệu USD, giảm 3,36% so với tháng trước và tăng 54,37% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 14,41 triệu USD, tăng 4,59% so với tháng trước và tăng 20,56% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,50 triệu USD, tăng 5,47% so với tháng trước và tăng 50,60% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hóa khác ước đạt 37,93 triệu USD, giảm 6,38% so với tháng trước và tăng 72,95% so với cùng kỳ năm trước). Luỹ kế 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 186,68 triệu USD, tăng 32,01% so với cùng kỳ năm trước (trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 50,01 triệu USD, tăng 16,41%; nhóm hàng nông sản ước đạt 5,21 triệu USD, tăng 20,6%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 131,46 triệu USD, tăng 39,65%).
- Xuất khẩu trực tiếp 4 tháng đầu năm ước đạt 184,07 triệu USD, tăng 36,20% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:
+ Xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 119,4 triệu USD, tăng 31,16% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu ở thị trường Nhật Bản (tăng ở mặt hàng thủy sản khác, giấy và sản phẩm giấy, áo jacket, quần dài), Campuchia (tăng ở mặt hàng ngô hạt), Trung Quốc (tăng chủ yếu ở mặt hàng quặng các loại).
+ Xuất sang thị trường Châu Âu ước đạt 18,59 triệu USD, giảm 10,76% so với cùng kỳ năm trước. Giảm chủ yếu ở thị trường Anh (giảm ở mặt hàng tôm thẻ, giày dép), Đức (giảm ở mặt hàng tôm thẻ), Hà Lan (giảm ở mặt hàng tôm thẻ).
+ Xuất sang thị trường Châu Mỹ ước đạt 44,89 triệu USD, tăng 105,15% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu ở thị trường Mỹ (tăng ở mặt hàng giày dép, đồ gỗ nội thất, tôm thẻ), thị trường Belizơ (tăng ở mặt hàng đế giày).
- Ủy thác xuất khẩu lũy kế 4 tháng đầu năm 2021 ước đạt 2,61 triệu USD, giảm 58,39% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu giảm ở mặt hàng bộ quần áo, mực tươi.
- Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá 4 tháng đầu năm 2021 ước đạt 361,5 triệu USD tăng 54,9% so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp tăng cường nhập khẩu nguyên liệu để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh sản xuất không bị gián đoạn, đặc biệt tăng mạnh trong việc nhập nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc.
4. Hoạt động vận tải
Trong tháng 4 năm 2021, vận tải hàng hoá và hành khách trên địa bàn tỉnh dần đi vào tình trạng phục hồi, tuy nhiên vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Tuyến đường biển phục vụ cho người dân từ đất liền ra đảo Phú Quý và ngược lại vẫn được đảm bảo thông suốt.
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 4 đã vận chuyển 1.660,47 nghìn hành khách, tăng 9,23% so với tháng trước; luân chuyển 81,34 triệu hk.km, tăng 8,25% so với tháng trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm, vận chuyển 6.295,56 nghìn hành khách, giảm 6% so với cùng kỳ và luân chuyển 322,93 triệu hk.km, giảm 3,38% lần so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 4 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.652,52 nghìn hành khách; lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 6.266,7 nghìn hành khách, giảm 5,92% so với cùng kỳ. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 7,95 nghìn hành khách; lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 28,90 nghìn hành khách, giảm 20,82% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 80,47 triệu hk.km; lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 319,77 triệu hk.km, giảm 3,14% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 0,87 triệu hk.km; lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 3,16 triệu hk.km, giảm 22,70% so với cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 4 vận chuyển hàng hoá đạt 834,14 nghìn tấn, tăng 5,28% so với tháng trước; luân chuyển hàng hoá đạt 40,66 triệu tấn.km, tăng 6,13% so với tháng trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã vận chuyển 3.030,30 nghìn tấn hàng hoá, tăng 2,52% so với cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 160,84 triệu tấn.km, tăng 2,17% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 4 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 833,51 nghìn tấn, lũy 4 tháng đầu năm, đạt 3.028,61 nghìn tấn, tăng 2,54% so với cùng kỳ. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,63 nghìn tấn, lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 1,69 nghìn tấn, giảm 26,00% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 40,59 triệu tấn.km, lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 160,65 triệu tấn.km, tăng 2,22% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 68,89 nghìn tấn.km, lũy kế 4 tháng đầu năm, đạt 185,42 nghìn tấn.km, giảm 29,79% so với cùng kỳ năm trước.
- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 4 ước đạt 80.000 tấn; lũy 4 tháng đầu năm, đạt 322.365 tấn (trong đó, khối lượng bốc xếp ngoài nước đạt 45.178 tấn); các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, xi măng, muối xá, thiết bị máy móc. Lũy kế 4 tháng đầu năm, doanh thu ước đạt 43,38 tỷ đồng.
- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 4 đạt 163 tỷ đồng, tăng 6,5% so với tháng trước và tăng gấp 2,6 lần so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng đầu năm, ước đạt 633,7 tỷ đồng, giảm 0,75% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 242,80 tỷ đồng, giảm 5,17% so với cùng kỳ; Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 377,95 tỷ đồng, tăng 2,35% so với cùng kỳ; Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 12,92 tỷ đồng, giảm 1,83% so với cùng kỳ.
5. Bưu chính, viễn thông
Hạ tầng bưu chính, mạng viễn thông tiếp tục được phát triển mở rộng và ổn định; đảm bảo an toàn và thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước, người dân và các tổ chức, doanh nghiệp. Mạng lưới phục vụ bưu chính, viễn thông với 1.250 cơ sở kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, đạt bán kính phục vụ bình quân là 14 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại các loại ước đạt: 1.848.900 thuê bao (điện thoại cố định là 30.000 thuê bao), mật độ điện thoại 147,25 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet ước đạt 144.000 thuê bao, tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) là 64%.
V. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
Với tình hình Dịch Covid-19 được kiểm soát chặt chẽ trên cả nước và tỉnh đã trải qua liên tiếp 398 ngày không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm Covid-19, hoạt động sản xuất - kinh doanh trên địa bàn tỉnh dần đi vào trạng thái bình thường mới, đã tác động tích cực đến thu, chi ngân sách của tỉnh.
1. Thu, chi ngân sách
Ước thu ngân sách tháng 4 đạt 450 tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng đầu năm, ước đạt 4.174,7 tỷ đồng, đạt 50,18% dự toán năm, tăng 12,47% so cùng kỳ năm trước; trong đó, thu nội địa (trừ dầu) đạt 3.443,98 tỷ đồng, đạt 57,21% dự toán năm, tăng 25,27%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí và thu khác 2.669,54 tỷ đồng, đạt 52,04% dự toán năm, tăng 11,52%; thu tiền nhà, đất 774,44 tỷ đồng, đạt 87,02% dự toán năm, tăng gấp 2,17 lần (trong đó, thu tiền sử dụng đất 680,39 tỷ đồng, đạt 97,20% dự toán năm, tăng gấp 3,35 lần so với cùng kỳ); thu dầu thô 362,37 tỷ đồng, đạt 45,30% dự toán năm, giảm 26,93%.
Tổng chi ngân sách trong tháng 4 ước thực hiện 600 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 550 tỷ đồng); lũy kế 4 tháng đầu năm ước đạt 4.924,20 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 3.714,95 tỷ đồng); trong đó, chi đầu tư phát triển 1.897,29 tỷ đồng, chi thường xuyên 1.817,66 tỷ đồng.
2. Hoạt động tín dụng
Trong tháng, hoạt động tín dụng trên địa bàn tiếp tục ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội địa phương; Vốn tín dụng mở rộng đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt là cho vay để duy trì và khôi phục các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, thanh toán chuyển tiền điện tử tiếp tục được đẩy mạnh; việc cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu tiếp tục được quan tâm triển khai, đảm bảo hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân nói riêng phát triển an toàn đáp ứn nhu cầu tiền mặt của người dân, bảo đảm hệ thống máy ATM hoạt động ổn địnhvà thông suốt.
Đến ngày 31/3/2021, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 754,4 tỷ đồng/5.223 khách hàng; giảm lãi vay cho 2.703 khách hàng với số tiền lãi được giảm 1,18 tỷ đồng; cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra, doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến ngày 31/3/2021 là 17.522 tỷ đồng/6.062 khách hàng. Đến ngày 28/02/2021, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 803 tỷ đồng, chiếm 1,11% tổng dư nợ, tăng 0,08% so với đầu năm.
Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 3 - 3,95%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 3,6 - 6,85%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 5,6 - 7,1%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 5,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7 - 9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9 - 11,5%/năm.
Hoạt động huy động vốn (đến ngày 28/02/2021), nguồn vốn huy động đạt 40.376 tỷ đồng, giảm 1,46% so với đầu năm. Ước đến ngày 30/4/2021, vốn huy động đạt 41.915 tỷ đồng, tăng 2,3% so với đầu năm.
Hoạt động tín dụng (đến 28/02/2021), tổng dư nợ cho vay đạt 70.526 tỷ đồng, tăng 1,22% so với đầu năm. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 69.384 tỷ đồng, chiếm 98,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 38.089 tỷ đồng, chiếm 54% tổng dư nợ. Ước đến 30/4/2021, dư nợ đạt 72.115 tỷ đồng, tăng 3,5% so với đầu năm.
Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 37.253 tỷ đồng, chiếm 52,8% tổng dư nợ; cho vay xuất khẩu đạt 501 tỷ đồng, chiếm 0,7% tổng dư nợ; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 14.727 tỷ đồng, chiếm 20,9% tổng dư nợ; cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.975 tỷ đồng.
Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 928 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 293,3 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 629 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 5,7 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 87,37 tỷ đồng/6 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 142,6 tỷ đồng/91 tàu.
Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 369 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, chăn nuôi bò sữa công nghệ cao; dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thuốc thú y, thức ăn gia súc đạt 518 tỷ đồng.
Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh, dư nợ đạt 57 tỷ đồng/149 hộ.
Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Đẩy mạnh thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt; thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công và chi trả an sinh xã hội, tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử và thanh toán thẻ nhằm tạo điều kiện thúc đẩy, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư,hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động thông suốt. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục hoạt động ổn định, thông suốt và an toàn. Đến ngày 28/02/2021, trên địa bàn có 187 máy ATM (tăng 03 máy so với đầu năm) và 1.476 máy POS (giảm 237 máy so với đầu năm), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng trên địa bàn đã bám sát điều hành tỷ giá và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Nhìn chung, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 02 tháng đầu năm 2021 đạt 105,5 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 14,9 triệu USD.
VI. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động văn hóa
- Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Trong tháng, tăng cường công tác tuyên truyền bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026; tuyên truyền sản xuất, cấp và quản lý căn cước Công dân trong toàn tỉnh; kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3); kỷ niệm 46 năm Giải phóng quê hương Bình Thuận (19/4); tổ chức vòng Sơ kết và Chung kết cuộc thi “Tiếng hát truyền hình - Ngôi sao biển lần III” năm 2021; tổ chức Lễ hội Giỗ Tổ các vua Hùng năm 2021 tại đền thờ Hùng Vương, thị trấn Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong; công tác phòng, chống dịch Covid-19,…
- Hoạt động Thư viện: Cấp mới 71 thẻ (thiếu nhi 56 thẻ), phục vụ 1.194 lượt bạn đọc tại thư viện (thiếu nhi 455 lượt), 245.214 lượt bạn đọc truy cập website, luân chuyển 2.578 lượt tài liệu tại thư viện (thiếu nhi 1.002 lượt). Sưu tầm 20 tin, bài cho tập Thông tin tư liệu Bình Thuận; 125 tin, bài Chuyên mục Thông tin kinh tế, luân chuyển 500 bản sách lưu động cho Thư viện Hàm Tân; xe thư viện lưu động phục vụ 9.000 lượt tài liệu tại 5 điểm trường học, thu hút 2.250 lượt học sinh tham dự.
- Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Phát huy các giá trị lịch sử văn hóa đem lại cho du khách tham quan, thưởng lãm nhiều trải nghiệm quý báo về con người văn hóa Bình Thuận. Trong tháng, đã đón 10.365 lượt khách, trong đó 5 lượt khách nước ngoài. Lũy kế 4 tháng đầu năm (tính đến ngày 01/4/2021), đã đón 62.313 lượt khách, trong đó 12 lượt khách nước ngoài.
2. Thể dục thể thao
- Hoạt động thể thao quần chúng: Lễ phát động Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, giai đoạn 2021-2030”; Giải Việt dã “Chạy vì sức khoẻ cộng đồng” tỉnh Bình Thuận năm 2021; Hành trình xe đạp thể thao của tỉnh; giải Bóng đá 5 người và tổ chức sinh hoạt truyền thống; giải Bóng đá mini nam, nữ học sinh, sinh viên tỉnh Bình Thuận lần thứ 4 năm 2021. Phối hợp tổ chức giải xe đạp nữ quốc tế Bình Dương lần thứ XI Cúp BIWASE năm 2021; tổ chức các hoạt động thể thao biển năm 2021 tại công viên Đồi Dương, thành phố Phan Thiết từ ngày 10 - 24/4/2021.
- Hoạt động thể thao thành tích cao: Hội Vovinam tỉnh tham gia giải Cụm miền Đông Nam Bộ năm 2021 tại Đồng Nai (đạt 03 huy chương vàng, 06 huy chương vàng, 07 huy chương đồng); Đội tuyển Điền kinh tham dự giải Việt dã Leo núi “Chinh phục đỉnh cao Bà Rá” lần thứ 27 năm 2021 tại Bình Phước (đạt 01 huy chương đồng); Đội tuyển Karate tham dự giải vô địch miền Trung - Tây Nguyên tại Nghệ An (đạt 03 huy chương vàng, 01 huy chương bạc, 14 huy chương đồng); Đội Điền kinh tham dự giải Việt dã Báo Tiền phong tại Gia Lai đạt (đạt 01 huy chương đồng). Cử vận động viên Surfing tham dự giải đua Đà Nẵng Sup Race 2021 (đạt 01 huy chương vàng, 03 huy chương bạc). Lũy kế 4 tháng đầu năm 2021 (đến ngày 01/4/2021), tổng số huy chương đạt 40 huy chương (07 huy chương vàng; 10 huy chương bạc; 23 huy chương đồng).
3. Giáo dục và Đào tạo
Trong tháng, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, đối với lớp 2, lớp 6. Tiếp tục tuyên truyền triển khai ứng dụng “An toàn Covid-19”, tăng cường công tác phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh Covid -19. Thông báo về môn thi thứ 3 (môn tiếng Anh) của kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ công lập trường THPT chuyên và THPT không chuyên năm học 2021- 2022.
Tính đến cuối tháng 3 năm 2021, toàn tỉnh có tổng cộng 262 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó Mầm non có 49 trường, Tiểu học 124 trường, THCS 75 trường, THPT 14 trường; tính riêng trong năm 2021, có thêm 01 trường THCS đạt chuẩn quốc gia.
4. Y tế
Tiếp tục tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 gây ra. Đến ngày 15/04/2021 Bình Thuận đã liên tiếp 398 ngày không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm Covid-19. Căn cứ vào nhu cầu, khả năng tiêm chủng của địa phương, tỉnh đăng ký với Bộ Y tế mua 723.270 liều vaccine phòng Covid-19 và cũng cam kết với Bộ Y tế sẽ tổ chức tiêm chủng đúng số lượng, đối tượng đã đăng ký, tuân thủ đúng tiến độ tiêm chủng theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Trong tháng 4 (từ ngày 15/3 - 15/4/2021) toàn tỉnh có 100 cas mắc sốt xuất huyết, 01 ca mắc sốt rét và 106 cas mắc tay chân miệng, tất cả đều không có cas tử vong. Số bệnh nhân mắc bệnh phong 07 bệnh nhân, 407 bệnh nhân đang quản lý và không có bệnh nhân phong mới tàn tật độ II.
Công tác phòng chống Lao: Có 1.265 tổng số lượt khám, số bệnh nhân thu dung điều trị 146. Số bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới 89.
Số nhiễm HIV mới phát hiện 10 cas (tích luỹ 1.592 cas); có 01 cas chuyển AIDS mới (tích luỹ 1.074 cas); có 02 cas tử vong (tích luỹ 535 cas).
Trong tháng có xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm; xác định nguyên nhân nghi ngờ ngộ độc thực phẩm do ăn ốc biển lạ([1]).
Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng, số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh 75.964 lượt, số bệnh điều trị nội trú 10.083, số bệnh nhân chuyển viện 787, số bệnh nhân tử vong 32. Công suất sử dụng giường bệnh tại các tuyến đạt từ 65,1% đến 105%.
5. Lao động – Xã hội (tính đến ngày 05/4/2021)
Trong tháng, đã giải quyết việc làm cho 1.732 lao động; lũy kế 4 tháng giải quyết việc làm 6.123 lao động, đạt 30,61% so kế hoạch năm và đạt 100,46% so với cùng kỳ; trong đó, cho vay vốn giải quyết việc làm cho 458 lao động, đạt 32,71% so với kế hoạch năm. Tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp cho 806 người; lũy kế 4 tháng đầu năm tuyển mới và đào tạo nghề 3.631 người, đạt 36,31% so với kế hoạch năm và tăng 15,75% so với cùng kỳ.
Vận động Quỹ Bảo trợ trẻ em 386 triệu đồng, đạt 19,3% kế hoạch năm và bằng 121,8% so với cùng kỳ.
Công tác chính sách người có công: Ban hành 03 quyết định đình chỉ, thu hồi và 01 quyết định tạm dừng chi chế độ trợ cấp đối với người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày đối với 07 trường hợp có đơn kiến nghị. Trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 45 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; trợ cấp mai táng phí cho 49 trường hợp.
Luỹ kế 4 tháng đầu năm toàn tỉnh có 3.664 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy 197 người; đang quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 342 người; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 634 người; Có 112/124 xã, phường, thị trấn có người đoàn thể ở nơi cư trú quản lý giáo dục sử dụng ma tuý, chiếm 90,32% số xã, phường, thị trấn có người nghiện.
Thực hiện hướng dẫn Liên tịch số 14/HDLN-UBMTTQVN-LĐTBXH-GDĐT, ngày 22/9/2020 về việc lập thủ tục hồ sơ hỗ trợ giáo viên, nhân viên trong các trường học, cơ sở giáo dục bị ảnh hưởng do dịch Covid-19, trong tháng đã hỗ trợ cho 417 người, với số tiền 834 triệu đồng; lũy kế 4 tháng đầu năm đã hỗ trợ cho 819 người với số tiền 1.638 triệu đồng.
6. Hoạt động bảo hiểm (Tính đến ngày 31/3/2021)
Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm, toàn tỉnh có 92.027 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 2,5% so với cùng kỳ; có 83.419 người tham gia BHTN, giảm 1,9% so với cùng kỳ; số người tham gia BHXH tự nguyện 10.169 người, tăng 188,7% so với cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 1.009.197 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.312 người), tăng 2,8% so với cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 89% dân số.
Đã xét duyệt, giải quyết cho 13.367 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN. Trong đó, hưởng các chế độ BHXH dài hạn 212 lượt người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 3.312 lượt người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 8.586 lượt người; hưởng trợ cấp BHTN 1.257 lượt người. Tổng số đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn đến đầu tháng 4/2021 xét duyệt, quản lý 16.316 người.
Luỹ kế 3 tháng đầu năm, tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn 21.268 người; tổng số thu 629,19 tỷ đồng, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước; tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 122,55 tỷ đồng, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Toàn tỉnh có 233.562 em học sinh, sinh viên tham gia BHYT đạt 98,8%. Trong đó, có 200.645 em tham gia tại trường học; 32.917 em tham gia theo nhóm khác (hộ gia đình nghèo, cận nghèo,…), chưa tham gia BHYT 2.899 em, chiếm 1,2%.
7. Tai nạn giao thông (từ 15/3-14/4/2021):
Số vụ tai nạn giao thông 15 vụ, so với tháng trước giảm 07 vụ và so với cùng kỳ năm trước giảm 09 vụ. Luỹ kế 4 tháng đầu năm 108 vụ (trong đó đường sắt không xảy ra), so với cùng kỳ năm trước tăng 14 vụ.
Số người bị thương 09 người, giảm 04 người so với tháng trước và giảm 03 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng đầu năm 62 người, tăng 05 người so với cùng kỳ năm trước.
Số người chết 08 người, giảm 10 người so với tháng trước và giảm 08 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng đầu năm 75 người, so với cùng kỳ tăng 18 người.
Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông nào đặt biệt nghiêm trọng. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra trên tuyến quốc lộ 1A ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, đi không đúng phần đường, làn đường, chuyển hướng sai quy định, không nhường đường, lái xe đã uống rượu bia,... ngoài ra còn có các nguyên nhân khác và do người đi bộ gây ra. Tập trung thực hiện, tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm, lập lại trật tự an toàn giao thông; xử lý xe chở học sinh, xe chở công nhân, xe chở khách du lịch trên địa bàn tỉnh và các xe hợp đồng “trá hình” chạy tuyến cố định.
8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường
Thiên tai: Trong tháng xảy ra vụ 01 thiên tai mưa to kéo dài đã gây sạt lỡ cát tràn lấp tuyến đường giao thông trên dường Hùng Thúc Kháng thuộc Khu phố 1, phường Mũi Né, thành phố Phan Thiết dài hơn 40m. Về tài sản: 01 xe ô tô 4 chỗ ngồi, một số xe gắn máy, một số tài sản và vật dụng của các nhà dân và cơ sở xung quanh bị cát lấp gây hư hỏng. Lũy kế 4 tháng đầu năm xảy ra 04 vụ thiên tai do gió to, sóng mạnh kết hợp triều cường dâng liên tục vào bờ gây sạt lỡ bờ kè bảo vệ bờ biển, sạt lỡ cát tràn lấp tuyến đường giao thông và làm 01 thuyền máy của ngư dân bị chìm, 01 xe ô tô 4 chỗ ngồi, một số xe gắn máy, một số tài sản và vật dụng của các nhà dân và cơ sở xung quanh bị cát lấp gây hư hỏng. Ước giá trị thiệt hại do gió mạnh 100 triệu đồng.
Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 07 vụ cháy (giảm 01 vụ so với cùng kỳ), 3 người bị thương, thiệt hại 416 triệu đồng; không xảy ra nổ. Lũy kế 4 tháng đầu năm có 21 vụ cháy (giảm 16 vụ so cùng kỳ), thiệt hại 3.203,7 triệu đồng.
Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 04 vụ (bằng so với cùng kỳ), đã xử phạt 332,58 triệu đồng. Lũy kế 4 tháng đầu năm, đã phát hiện 12 vụ (tăng 04 vụ so cùng kỳ), tổng tiền đã xử phạt 1.141,23 triệu đồng.