Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 30/08/2021-13:48:00 PM
Báo cáo kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng năm 2021 tỉnh Cao Bằng

I. SẢN XUẤT NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THUỶ SẢN

1. Nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp trong tháng 8 nông dân chủ yếu tập trung vào làm đất gieo trồng và chăm sóc các loại cây trồng vụ mùa. Tình hình thời tiết trong tháng mưa nắng xen kẽ, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển.

Tính đến ngày 15/8 toàn tỉnh gieo trồng được 24.848,7 ha lúa mùa, giảm 2,73% hay giảm 698,6 ha so với cùng kỳ năm trước và giảm 4,78% so với kế hoạch do đầu vụ thời tiết nắng nóng kéo dài, không chủ động được nguồn nước nên người dân không gieo cấy được. Hiện nay, lúa mùa đang trong giai đoạn hồi xanh và đẻ nhánh, nhìn chung cây lúa phát triển tốt. Cây ngô gieo trồng được 14.944,73 ha, giảm 1,17% hay giảm 176,92 ha so với cùng kỳ năm trước; khoai lang trồng được 572,8 ha, giảm 2,91% hay giảm 17,17 ha; đỗ tương trồng được 1.731,65 ha, tăng 3,17% hay tăng 53,21 ha; cây lạc trồng được 1.289,07 ha, giảm 1,79% hay giảm 23,56 ha; cây mía trồng được 2.827,12 ha, tăng 4,07% hay tăng 110,56 ha; rau các loại trồng được 2.549,09 ha, tăng 0,93% hay tăng 23,41 ha so với cùng kỳ năm trước.

Chính thức Vụ đông xuân:

Tổng diện tích gieo trồng vụ đông xuân đạt 37.667,32 ha, tăng 1,26% hay tăng 470,04 ha so chính thức vụ đông xuân năm 2020. Diện tích tăng chủ yếu ở cây ngô, rau các loại và cây hàng năm khác (cỏ voi)... Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến cho các cửa khẩu hạn chế xuất nhập khẩu hàng hóa nên người dân đi làm bốc vác và sang Trung Quốc làm thuê giảm vì vậy người dân quay trở lại đầu tư sản xuất nông nghiệp nhằm ổn định kinh tế gia đình.

Diện tích lúa đông xuân gieo trồng được 3.632,57 ha, giảm 0,17% hay giảm 6,04 ha so với cùng kỳ năm trước và tăng 0,3% so với kế hoạch; diện tích giảm do đầu vụ thời thiết khô hạn, thiếu nước sản xuất nhiều diện tích lúa ruộng xa nguồn nước người dân không chủ động khâu làm đất gieo cấy; một số chuyển sang trồng các loại cây khác như đào, nho, … và xây dựng công trình cơ sở hạ tầng như khu du lịch sinh thái.

Cây ngô trồng được 25.862,46 ha, tăng 0,26% hay tăng 66,51 ha so cùng vụ năm trước và tăng 2,81% so với kế hoạch; ngô được coi là cây trồng chính vụ đông xuân, dễ trồng, sinh trưởng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh nên bà con nông dân gieo trồng hết diện tích và tận dụng một số diện tích lúa, đỗ tương, lạc… không gieo trồng được chuyển sang trồng ngô.

Cây thuốc lá là cây trồng trọng điểm của tỉnh, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân vì vậy mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng sản phẩm là yêu cầu cấp bách đảm bảo cho việc phát triển vùng nguyên liệu một cách bền vững. Vụ đông xuân năm 2021 cây thuốc lá trồng được 3.054 ha, tăng 0,93% hay tăng 28,23 ha so với cùng kỳ; diện tích tăng chủ yếu ở Hà Quảng (+26,4 ha) do năm nay việc cam kết thu mua sản phẩm cũng như việc đầu tư, hỗ trợ bà con nông dân được cải thiện, tạo tâm lý an tâm sản xuất cho bà con nông dân vùng trồng nguyên liệu.

Cây lạc trồng được 301,81 ha, giảm 5,48% hay giảm 17,49 ha, diện tích giảm là do đầu vụ khô hạn làm tiến độ gieo trồng muộn hơn so với thời vụ nên chuyển sang trồng cây hàng năm khác. Cây đỗ tương trồng được 547,96 ha, giảm 9,93% hay giảm 60,43 ha do đỗ tương hiệu quả kinh tế không cao nên nhiều hộ có hướng giảm diện tích để tăng diện tích các loại cây khác. Các loại cây khác như khoai lang trồng được 183,85 ha, tăng 11,7% so với cùng kỳ; rau các loại diện tích gieo trồng được 2.178,95 ha, tăng 3,8% hay tăng 79,76 ha.

Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ đông xuân năm 2021 đạt 125.061,83 tấn, tăng 3,2% hay tăng 3.875,4 tấn so cùng vụ năm trước, so kế hoạch tăng 5,08% hay tăng 6.045,13 tấn. Năng suất và sản lượng một số cây trồng chính vụ đông xuân như sau: Cây lúa, năng suất bình quân đạt 51,65 tạ/ha, tăng 0,51% hay tăng 0,26 tạ/ha so với cùng vụ năm trước; sản lượng đạt 18.762,66 tấn, tăng 0,35% hay tăng 64,59 tấn. Mặc dù diện tích gieo trồng giảm nhưng năng suất, sản lượng tăng hơn so với năm trước do bà con nông dân lựa chọn các giống lúa chịu hạn tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu của địa phương, kết hợp nhiều đợt bón phân cân đối, phun thuốc diệt trừ sâu bệnh gây hại đúng thời điểm vì vậy cây lúa phát triển tốt. Cây ngô, năng suất đạt 41,09 tạ/ha, tăng 3,45% so với cùng kỳ và đạt 102,97% so với kế hoạch; sản lượng đạt 106.280,44 tấn, tăng 3,71% so cùng kỳ và đạt 105,86% so với kế hoạch. Thuốc lá, năng suất đạt 25,45 tạ/ha, tăng 4,82% so với cùng kỳ, sản lượng đạt 7.772,07 tấn, tăng 5,8% hay tăng 425,89 tấn. Cây đỗ tương, năng suất đạt 8,44 tạ/ha, tăng 3,43% so với cùng kỳ; sản lượng đạt 462,24 tấn, giảm 6,92% hay giảm 34,36 tấn do diện tích gieo trồng giảm. Cây lạc, năng suất đạt 11,97 tạ/ha, giảm 12,05% so cùng vụ năm trước; sản lượng đạt 361,33 tấn, giảm 16,86% hay giảm 73,25 tấn.

Tình hình dịch bệnh

Tính đến ngày 15/8 thời tiết mưa nắng xen kẽ, độ ẩm cao tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh và gây hại đối với cây trồng như: Bệnh sâu keo, sâu gai, gây hại trên rau, đậu các loại; bệnh rệp muội, rệp sáp, ruồi đục quả, bọ xít, ngoài ra còn bệnh chảy gôm, bệnh greening, bệnh sẹo, bệnh thán thư,... gây trên cây ăn quả. Ngành chức năng theo dõi tình hình sâu bệnh gây hại trên cây trồng và kịp thời khuyến cáo người dân xử lý các ổ bệnh không để lây lan trên diện rộng.

Chăn nuôi

Trong 8 tháng đầu năm 2021, tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối ổn định, công tác theo dõi, giám sát dịch bệnh được các địa phương quan tâm, chú trọng thực hiện thường xuyên, đa số các ổ dịch bệnh được phát hiện sớm và kịp thời áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh theo quy định. Công tác thú y, tiêm phòng vắc xin viêm da nổi cục cho đàn trâu bò được đẩy nhanh tiến độ nhằm hạn chế các ổ dịch phát sinh và lây lan; việc kiểm soát giết mổ, kiểm dịch nội địa được quản lý chặt chẽ.

Tổng đàn trâu hiện có 101.439 con, tăng 0,19% hay tăng 190 con so với cùng kỳ năm trước; đàn bò hiện có 108.728 con, giảm 0,34% hay giảm 375 con; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng tháng 8 đạt 105,68 tấn, giảm 4,13% so với cùng kỳ năm 2020, lũy kế từ đầu năm 1.128,68 tấn; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng tháng 8 đạt 118,79 tấn, giảm 3,24%, lũy kế từ đầu năm đạt 1.364 tấn.

Tổng số lợn hiện có 295.923 con, tăng 6,28% hay tăng 17.473 con so với cùng thời điểm năm 2020; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng tháng 8 đạt 1.734,97 tấn, tăng 3,93% so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm đạt 15.730,99 tấn.

Ước tính tổng đàn và sản lượng thịt gia cầm tiếp tục tăng. Tổng số gia cầm hiện có 3.071,21 nghìn con, tăng 5,25% so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng tháng 8 đạt 437,65 tấn, tăng 2,9% lũy kế từ đầu năm đạt 3.948,23 tấn; sản lượng trứng gia cầm đạt 1.883,29 nghìn quả, tăng 0,68%, lũy kế từ đầu năm đạt 20.480,15 nghìn quả.

Từ đầu năm đến ngày 09/8/2021, trên toàn tỉnh có 9.462 con trâu, bò mắc bệnh viêm da nổi cục, chết 631 con (tháng 8 chết 242 con); dịch tả lợn Châu Phi làm mắc và tiêu hủy 3.967 con của 754 hộ chăn nuôi với trên 188 tấn (tháng 8 làm mắc và tiêu hủy 1.476 con) các ngành chức năng phối hợp với các ban, ngành, địa phương tổ chức xử lý ổ dịch theo đúng kỹ thuật. Các dịch bệnh thông thường vẫn xảy ra lác đác tại một số địa phương, lũy kế từ đầu năm làm chết 68 con trâu, bò (tháng 8 chết 4 con); 114 con lợn (tháng 8 chết 16 con); 2.869 con gia cầm các loại (tháng 8 chết 245 con).

2. Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp tháng 8 tập trung kiểm tra, chăm sóc nuôi dưỡng, bảo vệ, khoanh nuôi diện tích rừng hiện có. Các ngành chức năng tăng cường chỉ đạo và đôn đốc thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý kịp thời các vụ khai thác, vận chuyển lâm sản và chặt phá rừng trái phép; tăng cường bám sát địa bàn, tuyên truyền rộng rãi đến từng xã, xóm và hộ gia đình về hoạt động quản lý bảo vệ rừng và các phương án phòng chống cháy rừng tại địa phương.

Ước tính diện tích trồng rừng mới trong tháng là 42,9 ha, lũy kế từ đầu năm là 1.918,11 ha, giảm 0,38% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước tính khoảng 1.523,66 m3, giảm 0,56% so cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm là 16.304,62 m3, giảm 0,82%; sản lượng củi khai thác khoảng 71.520,48 Ste, tăng 0,08% so cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm 498.912,08 Ste, tăng 0,14%.

Trong tháng 8 toàn tỉnh có 1,5 ha diện tích rừng bị thiệt hại bao gồm: Diện tích rừng bị cháy 0,9 ha (với 2 vụ cháy tại huyện Hòa An); diện tích rừng bị chặt, phá 0,6 ha (với 3 vụ tại huyện Thạch An)

3. Thuỷ sản

Trong tháng 8, nuôi trồng và khai thác thủy sản vẫn duy trì ổn định, các hộ gia đình tập trung vào chăm sóc diện tích nuôi trồng và diện tích mới thả giống ở các chân ruộng. Việc đánh bắt các loại thủy sản trên sông, suối vẫn được duy trì nhưng sản lượng đánh bắt thấp do người dân dùng những phương tiện thô sơ để đánh bắt và chủ yếu mang tính chất tự cung tự cấp. Tổng sản lượng thủy sản tháng 8 ước tính đạt 40,26 tấn, giảm 0,9% hay giảm 0,37 tấn so với cùng kỳ năm trước, lũy kế từ đầu năm 341,29 tấn, giảm 0,17% hay giảm 0,57 tấn, trong đó: Sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 9,42 tấn, giảm 1,99% hay giảm 0,19 tấn, lũy kế từ đầu năm 75,95 tấn, giảm 0,42% hay giảm 0,32 tấn; sản lượng thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 30,84 tấn, giảm 0,56% hay giảm 0,18 tấn, lũy kế từ đầu năm 265,34 tấn, giảm 0,09% hay giảm 0,25 tấn.

II. SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP

Sản xuất công nghiệp tháng 8 và 8 tháng năm 2021 chịu tác động tiêu cực của dịch Covid-19 với biến chủng mới diễn biến phức tạp. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8 ước tính giảm 6,13% so với cùng kỳ năm trước và tăng 33,76% so với tháng trước (do tháng 7 công ty Cổ phần Gang thép nghỉ 10 ngày để bảo trì máy móc, vì vậy sản lượng đạt thấp). Tính chung 8 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 5,62% so với cùng kỳ năm 2020.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tháng 8/2021 ước tính tăng 33,76% so với tháng trước và giảm 6,13% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành khai khoáng giảm 12,79%; ngành chế biến, chế tạo giảm 8,79%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 3,36%; riêng ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng giảm 5,62% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 9,27%; ngành khai khoáng giảm 5,75%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 2,24%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1%.

Trong 8 tháng năm 2021, một số sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước: Cửa ra vào, cửa sổ bằng sắt, thép tăng 13,87%; điện thương phẩm tăng 4,07%; quặng manggan và tinh quặng manggan tăng 3,97%; nước uống được tăng 1,36%. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Xi măng giảm 51,36%; cát tự nhiên giảm 48,7%; chiếu trúc, chiếu tre giảm 22,33%; gạch xây giảm 17,7%; sắt thép không hợp kim dạng bán thành phẩm (phôi thép) giảm 11,88%; đá xây dựng giảm 9,04%; manggan và các sản phẩm của manggan giảm 9,7%...

III. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN

Do dịch Covid-19 bùng phát mạnh tại nhiều địa phương trong cả nước nên trong tháng 7 vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách nhà nước giảm so với tháng 6 và giảm so với dự tính. Dự kiến vốn đầu tư thực hiện trong tháng 8 năm 2021 sẽ tăng nhưng mức tăng không cao.

Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tháng 8 năm 2021 thực hiện được 173,25 tỷ đồng, tăng 2,17% so với tháng trước, bằng 53,68% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện được 156,75 tỷ đồng, tăng 2,1%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước thực hiện được 16,5 tỷ đồng, tăng 2,84% so với tháng trước.

Tỉnh Cao Bằng là một trong những tỉnh có tiến độ giải ngân vốn đầu tư công thấp so với cả nước. Khối lượng thực hiện trong tháng chủ yếu ở một số công trình: Kè bờ trái sông Hiến; kè chống sạt lở, ổn định dân cư bờ trái sông Bằng - Thành phố Cao Bằng; Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn - Tiểu dự án tỉnh Cao Bằng; Kè chống sạt lở sông Bằng, bảo vệ khu dân cư thị trấn Nước Hai; Kè chống sạt lở ổn định dân cư Cao Bình, xã Hưng Đạo, Thành phố Cao Bằng; Phố đi bộ ven sông Bằng.

Để đẩy nhanh tiến độ giải ngân trong những tháng cuối năm, UBND tỉnh quyết liệt chỉ đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện, Thành phố, các chủ đầu tư triển khai thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Phân công Thường trực UBND tỉnh Cao Bằng theo dõi địa bàn các huyện, Thành phố, các dự án trọng điểm, kịp thời đôn đốc, chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Yêu cầu các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân các dự án theo kế hoạch; kiên quyết xử lý nghiêm các nhà thầu vi phạm tiến độ, chậm thi công công trình…

Tính chung 8 tháng năm 2021, vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện được 1.079,2 tỷ đồng, giảm 29,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện được 973,73 tỷ đồng, giảm 28,38%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước thực hiện được 105,48 tỷ đồng, giảm 38,4% so với cùng kỳ năm 2020.

IV. THƯƠNG MẠI, DỊCH VỤ, GIÁ CẢ

Tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên cả nước, tuy tại tỉnh Cao Bằng đến thời điểm hiện tại chưa ghi nhận ca dương tính với Covid-19 nhưng các hoạt động ăn uống, lưu trú, du lịch lữ hành và vận tải tiếp tục chịu nhiều ảnh hưởng của dịch bệnh. Hoạt động thương mại, kinh doanh dịch vụ được duy trì đáp ứng nhu cầu của người dân, giá cả ổn định.

1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 năm 2021 ước đạt 750,47 tỷ đồng, tăng 4,07% so với tháng trước và tăng 1,59% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo ngành hoạt động:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 621,93 tỷ đồng, tăng 5,25% so với tháng trước và tăng 4,99% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa, dịch vụ doanh thu ước trong tháng đều tăng so với tháng trước từ 0,66% - 18,81%. Trong đó, tăng cao ở nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 18,81% và nhóm hàng may mặc tăng 9,94%. Do thời tiết đang dần chuyển sang mùa thu và chuẩn bị cho năm học mới nên nhu cầu mua sắm của người dân tăng. Đồng thời, một số nhóm doanh thu tăng cao hơn các tháng do nhu cầu tiêu thụ trong dịp Rằm tháng 7 như: nhóm lương thực, thực phẩm tăng 5,75%; nhóm hàng hóa khác tăng 7,75%.

Doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 88,65 tỷ đồng, giảm 2,76% so với tháng trước và giảm 15,36% so với cùng kỳ năm trước.

Dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 0,2 tỷ đồng, giảm 13,04% so với tháng trước và giảm 55,56% so với cùng kỳ năm trước. Để đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh, theo công điện số 05/CĐ-UBND ngày 23/7/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc tăng cường các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, hạn chế tối đa tình trạng tập trung đông người, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ người và phương tiện vận tải lưu thông trên địa bàn tỉnh. Vì vậy, hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch tiếp tục bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Doanh thu hoạt động dịch vụ khác ước đạt 39,69 tỷ đồng, tăng 2,26% so với tháng trước và giảm 3,63% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 5.766,49 tỷ đồng, tăng 7,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 4.718,59 tỷ đồng, tăng 9,52%; doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 728,25 tỷ đồng, giảm 0,74%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,71 tỷ đồng, giảm 26,47%; doanh thu hoạt động dịch vụ khác đạt 316,95 tỷ đồng, tăng 4,77%.

2. Hoạt động xuất nhập khẩu

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn quản lý tháng 8 năm 2021 ước tính đạt 64,2 triệu USD, giảm 52% so với tháng trước. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 18,6 triệu USD, tăng 117%; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 23 triệu USD, giảm 78%; trị giá hàng tạm nhập tái xuất, kho ngoại quan đạt 20,6 triệu USD, tăng 13% so với tháng trước.

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Hàng thủy sản ước đạt 11 triệu USD, giảm 3%; hàng rau quả ước đạt 1,3 triệu USD, giảm 68%; nhân hạt điều ước đạt 4,2 triệu USD, giảm 57%; cà phê ước đạt 0,095 triệu USD, tăng 22%; hạt tiêu ước đạt 2,1 triệu USD, giảm 48%.

Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Than các loại 0,475 triệu USD, giảm 90%; gỗ và sản phẩm gỗ 0,43 triệu USD, tăng 20%; vải các loại 0,554 triệu USD, giảm 71%.

3. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 năm 2021 giảm 0,34% so với tháng trước. Chỉ số giá trong tháng giảm chủ yếu do nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,17% (trong đó: lương thực giảm 0,11%; thực phẩm giảm 1,73%; ăn uống ngoài gia đình không tăng, không giảm) do giá thịt lợn giảm và một số rau, hoa quả đang vào mùa nên giá giảm sâu. Đồng thời, do nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,42%, nhóm giao thông giảm 0,1% và một số nhóm chỉ số giá giảm nhẹ như: nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,06%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,04%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,04%.

Các nhóm có chỉ số giá tăng trong tháng gồm: nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,48% do thời tiết trong tháng có nhiều ngày nắng nóng gay gắt nên nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân tăng cao; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,01%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 năm 2021 giảm 0,21% so với tháng 12 năm 2020 và giảm 1,75% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2021 giảm 1,21% so với bình quân cùng kỳ năm 2020.

Chỉ số giá vàng tháng 8 năm 2021 tăng 0,04% so với tháng trước, giảm 3,82% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá vàng bình quân 8 tháng năm 2021 tăng 12,92% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 8 năm 2021 giảm 0,43% so với tháng trước, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá Đô la Mỹ bình quân 8 tháng năm 2021 giảm 0,95% so với cùng kỳ năm trước.

4. Hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải

Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 8 năm 2021 ước đạt 22,07 tỷ đồng, tăng 8,37% so với tháng trước và tăng 2,49% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, doanh thu vận tải hành khách ước tăng 0,51%, doanh thu vận tải hàng hóa ước tăng 10,49%, doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 6,04%.

Trong 8 tháng năm 2021, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ vận tải ước đạt 195,4 tỷ đồng, tăng 12,65% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu hoạt động vận tải hành khách đạt 45,85 tỷ đồng, giảm 1,59%; doanh thu hoạt động vận tải hàng hóa đạt 145,07 tỷ đồng, tăng 22,25%; doanh thu hoạt động kho bãi đạt 4,48 tỷ đồng, giảm 45,4% so với cùng kỳ năm 2020.

Vận tải hành khách

Ước tính tháng 8 năm 2021 vận chuyển hành khách đạt 82,15 nghìn lượt hành khách, tăng 2,34% so với tháng trước, giảm 23,27% so với cùng kỳ năm trước; ước tính hành khách luân chuyển đạt 4,14 triệu HK.Km, tăng 1,65% so với tháng trước, giảm 28,78% so với cùng kỳ năm 2020.

Vận tải hành khách trong 8 tháng năm 2021 ước tính đạt 890,27 nghìn hành khách và đạt 51,18 triệu HK.Km, so với cùng kỳ năm trước số hành khách vận chuyển giảm 5,88% và số hành khách luân chuyển giảm 0,86%.

Vận tải hàng hoá

Dự ước vận chuyển hàng hóa tháng 8 năm 2021 đạt 119,02 nghìn tấn hàng hóa và luân chuyển hàng hóa đạt 3,5 triệu tấn.km, so với tháng trước tăng 17,23% hàng hóa vận chuyển và tăng 7,25% hàng hóa luân chuyển. So với cùng kỳ năm 2020 tăng 5,52% hàng hóa vận chuyển và tăng 2,64% hàng hóa luân chuyển.

Tính chung 8 tháng năm 2021, vận tải hàng hóa ước tính đạt 1.288,62 nghìn tấn hàng hóa vận chuyển, tăng 12,02%; hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 28,86 triệu tấn.km, tăng 17,59% so với cùng kỳ năm trước.

V. TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG

1. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn tháng 8 năm 2021 duy trì tiến độ. Các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo và thực hiện các giải pháp tăng thu đảm bảo tổng thu ngân sách đạt và vượt dự toán được giao; chi ngân sách tập trung thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công tác phòng, chống dịch Covid-19 và đảm bảo hoạt động chuyên môn của các đơn vị sử dụng ngân sách.

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tính đến ngày 15/8/2021 ước tính đạt 960.159 triệu đồng, bằng 121% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu nội địa đạt 824.713 triệu đồng, bằng 118%; thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 132.447 triệu đồng, bằng 142%. Trong thu nội địa, ngành thuế thu 765.415 triệu đồng, chiếm 92,8% tổng thu, thu khác ngân sách 59.298 triệu đồng, chiếm 7,2%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn tính đến ngày 15/8/2021 ước tính đạt 4.179.171 triệu đồng, bằng 85% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chi thường xuyên đạt 3.504.927 triệu đồng, bằng 93%; chi đầu tư phát triển 672.039 triệu đồng, bằng 59%; chi trả nợ lãi 905 triệu đồng, bằng 215%; chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính đạt 1.300 triệu đồng, đạt 100% so với cùng kỳ năm trước.

2. Hoạt động tín dụng, ngân hàng

Hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn tỉnh duy trì ổn định, thông suốt, đáp ứng đầy đủ các dịch vụ ngân hàng và nhu cầu giao dịch thanh toán, chuyển tiền… cho các đối tượng khách hàng theo quy định. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ khách hàng theo Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn vốn huy động tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu vốn hợp pháp phục vụ sản xuất kinh doanh.

Mặt bằng lãi suất huy động cho vay giảm nhẹ so với năm trước, các ngân hàng trên địa bàn tỉnh áp dụng mức lãi suất huy động vốn, lãi suất cho vay phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước và diễn biến của thị trường. Lãi suất huy động tiền gửi biến động từ 0,1%-6,99% trên 1 năm; lãi suất cho vay các lĩnh vực ưu tiên biến động từ 4,5%-10%; lãi suất cho vay kinh doanh thông thường phổ biến ở mức 7,5%-13% trên 1 năm phụ thuộc vào kỳ hạn từng gói.

Tổng vốn quản lý và huy động trên địa bàn ước tính đến 31/8/2021 đạt 24.260 tỷ đồng, tăng 1,9% hay tăng 459 tỷ đồng so đầu năm, trong đó: Nguồn vốn huy động tại địa phương ước đạt 21.190 tỷ đồng, chiếm 87,3% tổng nguồn vốn và tăng 1,5% hay tăng 318 tỷ đồng; nguồn vốn quản lý ước đạt 3.070 tỷ đồng, chiếm 12,7% tổng nguồn vốn, tăng 4,8% so với đầu năm.

Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/8/2021 ước đạt 12.250 tỷ đồng, giảm 258 tỷ đồng so với đầu năm, trong đó nợ xấu 92 tỷ đồng, chiếm 0,75% tổng dư nợ và tăng 15,2 tỷ đồng so với thời điểm 31/12/2020. Nợ xấu tăng so với đầu năm do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và bùng phát tại nhiều địa phương trong cả nước, ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế xã hội, nhiều khách hàng chưa hồi phục được hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính gặp khó khăn.

Hoạt động ngoại hối trên địa bàn không có biến động lớn, thị trường ngoại tệ diễn biến tích cực, thanh khoản tốt, tỷ giá ngoại tệ diễn biến linh hoạt theo cả hai chiều tăng/giảm; các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ thông qua tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh vàng vẫn được duy trì ổn định, giá vàng được điều chỉnh phù hợp với biến động giá vàng trong nước, các nhu cầu giao dịch vàng của người dân cơ bản được đáp ứng.

VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

Tình hình dịch Covid-19 trong nước đang diễn biến phức tạp, số lượng ca nhiễm tăng nhanh và lan ra nhiều tỉnh, thành phố, UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch bệnh, tuyệt đối không lơ là, chủ quan, tăng cường kiểm tra, giám sát, rà soát trên địa bàn tỉnh. Tính đến 6h ngày 17/8/2021, tỉnh Cao Bằng chưa ghi nhận, phát hiện trường hợp nào nhiễm Covid-19, các trường hợp cách ly đều chưa có biểu hiện viêm đường hô hấp, sức khỏe ổn định.

Về hoạt động tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19: Tính từ ngày 16/4-13/8/2021, toàn tỉnh có 15.128 người đã tiêm đủ 2 mũi vắc xin (2,8% dân số toàn tỉnh) và 42.026 người (7,8% dân số toàn tỉnh) đã tiêm 1 mũi, đang chờ đủ thời gian để tiêm mũi 2.

Đối với các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác: Trong tháng ghi nhận 03 ca Rubella lâm sàng, ghi nhận 03 ca Ho gà, 01 ca viêm não Nhật Bản, 01 trường hợp sởi lâm sàng và 01 ca Tay – chân - miệng lâm sàng. Ngoài ra, ghi nhận một số bệnh dịch lưu hành tại địa phương như: Cúm thông thường 454 ca; Tiêu chảy 284 ca; Thủy đậu 086 ca; Quai bị 05 ca, bệnh do vi rút Adeno virus 44 ca… Tất cả các trường hợp mắc bệnh được phát hiện, điều trị và xử lý kịp thời, không có tử vong.

Trong tháng phát hiện 09 trường hợp nhiễm mới HIV, 01 người nhiễm HIV/AIDS tử vong, không có trường hợp mới chuyển AIDS.

Số trường hợp đang điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tính đến tháng 8/2021 trên địa bàn tỉnh là 1.490 người.

Trong tháng, trên địa bàn toàn tỉnh không có vụ ngộ độc thực phẩm xảy ra.

2. Thiệt hại do thiên tai

Từ ngày 15/7/2021 đến ngày 14/8/2021 trên địa bàn tỉnh Cao Bằng xảy ra 02 đợt thiên tai do mưa giông, lốc, sét. Thiên tai làm 01 người chết do đuối nước (nghi bị nước cuốn trôi), 354 nhà bị hư hại; 0,2 ha lúa bị thiệt hại; 01 cầu dân sinh bị cuốn trôi; 02 trụ sở cơ quan bị ảnh hưởng; 02 xe ô tô bị hư hỏng do pano đổ trúng và 03 công trình bị tốc mái. Tổng giá trị thiệt hại ước tính 2.100 triệu đồng.

Sau khi thiên tai xảy ra, Ban Chỉ huy PCTT&TKCN các huyện bị thiệt hại chỉ đạo các xã rà soát, thống kê thiệt hại và báo cáo theo quy định. Đồng thời, vận động bà con nhân dân giúp đỡ nhau khắc phục hậu quả, ổn định sinh hoạt và sản xuất.

3. Trật tự an toàn giao thông

Trong tháng 8 (từ 15/7 - 14/8/2021) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 07 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 05 người chết và 07 người bị thương, giá trị thiệt hại tài sản ước tính 377 triệu đồng. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông tăng 04 vụ, tăng 04 người chết, tăng 03 người bị thương.

Tính từ đầu năm 2021 đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 34 vụ tai nạn giao thông đường bộ. Các vụ tai nạn giao thông làm 19 người chết và 43 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 8 tháng năm nay giảm 32%; số người chết giảm 29,63%; số người bị thương giảm 15,69%.

4. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

Từ ngày 15/7/2021 đến ngày 14/8/2021, cơ quan chức năng đã phát hiện 21 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 11 vụ với tổng số tiền phạt 194,5 triệu đồng. Tính chung 8 tháng năm 2021 đã phát hiện 106 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý 57 vụ với tổng số tiền phạt là 563,8 triệu đồng.

Cùng khoảng thời gian trên, trên địa bàn tỉnh Cao Bằng xảy ra 02 vụ cháy nhà tại huyện Bảo Lâm và Bảo Lạc, không có người bị thương, giá trị thiệt hại ước tính 73 triệu đồng. Tính chung từ đầu năm 2021 đến thời điểm báo cáo, toàn tỉnh đã xảy ra 19 vụ cháy, tổng giá trị thiệt hại ước tính 2.992 triệu đồng, không có thiệt hại về người.


Website Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng

    Tổng số lượt xem: 566
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)