1.Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tháng 8 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Kon Tum tập trung chủ yếu cho việc gieo trồng, chăm sóc cây hàng năm vụ mùa và trồng mới cây lâu năm, trồng rừng tập trung. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được triển khai thường xuyên; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, trồng cây xanh và đảm bảo an toàn thuỷ lợi cho sản xuất trong mùa mưa lũ gắn với phòng chống dịch bệnh.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1.Trồng trọt
a) Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa 2021
Ước tính đến thời điểm ngày 15/8/2021, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ mùa 2021 tỉnh Kon Tum là: 62.498,16 ha, tăng 2,19% (+1.337,72 ha) so với cùng kỳ vụ mùa năm 2020. Cụ thể một số cây trồng so với cùng kỳ vụ mùa năm 2020 như sau:
- Cây lúa DTGT: 16.102 ha, tăng 1,07% (+170,79 ha). Trong đó: Cây lúa ruộng DTGT: 12.469,6 ha, tăng 1,72% (+211ha); Cây lúa rẫy DTGT: 3.632,5 ha, giảm 1,1% (-40,42 ha). Diện tích gieo trồng lúa ruộng tăng so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là do năm nay thời tiết thuận lợi nên người dân chủ động gieo cấy.
- Cây ngô DTGT: 4.332,5 ha, giảm 6,08% (-280,3 ha). Diện tích cây ngô giảm do người dân chuyển sang trồng một số loại cây khác, bên cạnh đó một số diện tích ngô tại huyện Kon Rẫy người dân chuyển sang trồng vụ 2 của vụ mùa.
- Cây sắn DTGT: 38.550,9 ha, giảm 0,49% (-191,11 ha).
- Rau các loại DTGT: 1.295,3 ha, tăng 12,2% (+140,8 ha), năm nay thời tiết thuận lợi cho việc gieo trồng nên diện tích tăng.
- Đậu các loại DTGT: 263,3 ha tương đương cùng kỳ năm trước.
- Hoa các loại DTGT: 66,34 ha, tăng 3,3% (+2,12 ha).
- Cây lạc DTGT: 92 ha, giảm 2,9% (-3,05 ha).
b) Diện tích cây lâu năm
Diện tích, sản lượng cây công nghiệp lâu năm không nhiều so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên, diện tích cây công nghiệp lâu năm chủ yếu là cao su và cà phê.
Ước tính đến thời điểm ngày 15/8/2021, tổng diện tích cây lâu năm hiện có trên địa bàn tỉnh là: 107.554,99 ha, tăng 0,97% (+1.037,99 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó:
+ Cây cao su: Diện tích là 75.312,28 ha, tương đương với cùng kỳ năm trước; trong đó diện tích trồng mới đến 15/8/2021 là 281,8 ha, diện tích trồng mới chủ yếu là tái canh (trồng mới lại trên diện tích cao su thanh lý).
+ Cây cà phê: Diện tích là 25.536,81 ha, tương đương với cùng kỳ năm trước; trong đó diện tích trồng mới đến 15/8/2021 là 350 ha. Thời tiết năm nay thuận lợi đã xuất hiện những cơn mưa đầu mùa có lưu lượng lớn giúp cho cây cà phê phát triển tốt.
Sản lượng cây ăn quả trên địa bàn tỉnh không lớn. Khí hậu, thổ nhưỡng ở đây không phù hợp với các loại cây ăn qủa. Diện tích chủ yếu trồng rải rác ở các khu vườn hộ dân, trồng xen trong vườn cây công nghiệp, sản lượng thu hoạch chủ yếu phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày.
1.1.2. Chăn nuôi
Tình hình dịch bệnh (Tính từ ngày 17/7/2021 đến ngày 15/8/2021)
- Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Trong tháng, trên địa bàn tỉnh đã phát sinh và tiêu hủy 34 con lợn nái mắc bệnh DTLCP tại 03 ổ dịch xã Ia Tơi – Ia H’Drai 13 con; xã Ia Dom – Ia H’Drai 6 con; xã Hiếu – Kon Plong 15 con.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn 02 ổ dịch DTLCP tại xã Ia Tơi – Ia H’Drai; xã Hiếu – Kon Plông chưa qua 21 ngày.
- Bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò: Trong tháng, trên địa bàn tỉnh phát sinh 475 con bò mắc bệnh VDNC; chăm sóc khỏi triệu chứng lâm sàng cho 1.350 con bò; có 109 con bò mắc bệnh và chết.
Lũy kế đến 15/8/2021 trên địa bàn tỉnh Kon Tum có 2.018 hộ/324 thôn 75 xã/9 huyện thành phố có trâu, bò mắc bệnh VDNC. Tổng số là 3.508 con trâu, bò (trong đó: đã tiêu hủy và chết 233 con; đã chăm sóc khỏi triệu chứng cho 2.851 con; đang chăm sóc 424 con bò).
1.2. Lâm nghiệp
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu cho công tác quản lý bảo vệ, trồng mới rừng tập trung; trồng cây lâm nghiệp phân tán; chăm sóc, nuôi dưỡng, tỉa thưa rừng trồng.
Thực hiện Chỉ thị số 04/CT-UBND, ngày 26/02/2021 của UBND tỉnh về việc chấn chỉnh, ngăn chặn vi phạm Luật Lâm nghiệp và tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy rừng và quản lý rừng trên địa bàn tỉnh; các ngành chức năng đã có kế hoạch chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tăng cường công tác phòng cháy chữa cháy rừng trong các tháng cao điểm mùa khô, phân công trực PCCCR theo quy định; thông báo cấp dự báo cháy rừng định kỳ 10 ngày/lần đến Tổ công tác liên ngành các huyện, thành phố và đơn vị chủ rừng trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức cho người dân địa phương về phòng cháy chữa cháy rừng được tăng cường.
Tính đến 15/8/2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ cháy rừng, thiệt hại 27,489 ha; xảy ra 60 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 42,545 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Ước tính đến thời điểm 31/8/2021, Công tác trồng rừng mới tập trung trên địa bàn tỉnh đạt 3.229,7 ha. Sản lượng gỗ khai thác đạt 91.183 m3, tăng 4,22% (+3.693 m3); Sản lượng củi khai thác ước đạt 182.600 ster, tăng 2,77% (+4.920 ster) so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Thuỷ sản
Tình hình nuôi trồng và khai thác thủy sản trong tháng ổn định, sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác tăng so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là khai thác đánh bắt của các hộ trên lòng hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8 ước tính tăng 6,44% so với tháng trước và tăng 12,49% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4/2021. Tính chung 8 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,57% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 8 năm 2021 ước tính tăng 12,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 20,19%, nguyên nhân ngành công nghiệp khai thác giảm so cùng kỳ chủ yếu do lượng đá xây dựng tồn kho lớn nên các doanh nghiệp hạn chế khai thác; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,18% chủ yếu do ở ngành chế biến thực phẩm, nguyên nhân năm nay các doanh nghiệp sản xuất chế biến tinh bột sắn vào vụ sản xuất sớm hơn, sản lượng tinh bột sắn sản xuất tăng mạnh so với cùng kỳ; Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,07% do nhà máy thuỷ điện Thượng Kon Tum đã được đưa vào vận hành trong năm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm nhẹ (bằng 99,45%) so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 8 năm 2021 ước tính tăng 6,44%, thời điểm hiện nay hầu hết các ngành đều hoạt động ổn định, tăng chủ yếu ở ngành chế biến thực phẩm do trong tháng 8 các nhà máy sản xuất tinh bột sắn đã ổn định hoạt động sản xuất, thời gian sản xuất hoạt động dài, sản phẩm tinh bột sắn sản xuất tăng cao so với tháng trước.
|
Ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng năm 2021 tăng 9,57% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 14,37%, nguyên nhân chỉ số sản xuất ngành này giảm thấp do cuối năm trước các đơn vị tập trung vào khai thác, sản lượng đá xây dựng tăng mạnh, lượng sản phẩm tồn kho lớn, sang các tháng đầu năm 2021 lượng tiêu thụ thấp do các công trình xây dựng chưa triển khai nhiều nên hiện tại các đơn vị hạn chế sản lượng khai thác. Trong 8 tháng ngành sản xuất đường giảm 26,47%, do năm 2021 Công ty Cổ phần Đường Kon Tum chủ yếu sản xuất chế biến từ nguồn nguyên liệu mía trong tỉnh; Vụ mùa năm 2020 diện tích gieo trồng, thu hoạch mía trên địa bàn giảm dẫn đến nguồn nguyên liệu giảm thấp. Một số ngành sản xuất khác như sản xuất hóa chất, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất bàn ghế… hoạt động tương đối ổn định so với cùng kỳ, kết quả chung các ngành này có chỉ số tăng tương đối ổn định. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,86%, đóng góp tích cực vào chỉ số sản xuất chung toàn tỉnh. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải xấp xỉ so với cùng kỳ năm trước.
Sản phẩm chủ yếu trên địa bàn: Ước tính một số sản phẩm sản xuất 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước, như sau:
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất 1.080,8 triệu Kwh, tăng 20,06%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 119.706,25 triệu viên, tăng 7,3%; Cồn béo công nghiệp đạt 7.916 tấn, tăng 10,56%; Phân vi sinh đạt 744 tấn, tăng 28,5%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 72.136 chiếc, tăng 32,99%. Một số sản phẩm có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Đá xây dựng khai thác 210.936,8 m3, giảm 10,55%; Tinh bột sắn sản xuất 145.483 tấn, giảm 7,3%; Đường RE 8.371 tấn, giảm 26,47%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 125 triệu trang, giảm 31,36%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.382 tấn, giảm 1,29% ; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1,187 triệu cái, giảm 3,87%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 18.507 tấn, giảm 6,65% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 8 và 8 tháng năm 2021 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ, thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định hơn nên các đơn vị, cơ sở đã tập trung vào sản xuất. Sang quý III năm 2021 ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã bắt đầu có mức tăng trưởng tương đối khá sau một thời gian dài có chỉ số sản xuất âm so với cùng kỳ năm trước. Riêng 2 ngành sản xuất đường, tinh bột sắn có chỉ số sản xuất giảm, chủ yếu do khó khăn về nguồn nguyên liệu ở các tháng đầu năm; còn lại đa số các ngành sản xuất khác trong tháng 8 và 8 tháng đều ổn định có mức tăng trưởng khá.
3. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính tháng 8 năm 2021 là 323,2 tỷ đồng, tăng 7,69% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 292,8 tỷ đồng, chiếm 90,59% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới ...
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện là 30,4 tỷ đồng, chiếm 9,41% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa ...
Tính chung 8 tháng, vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 1.561,1 tỷ đồng, tăng 14,68% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do các ngành, các cấp trên địa bàn tỉnh đã chủ động triển khai đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công nên vốn đầu tư tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, chia ra:
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 1.289,5 tỷ đồng, chiếm 82,6% trong tổng số nguồn vốn. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, ... Trong đó: nguồn vốn cân đối ngân sách tỉnh là 954,9 tỷ đồng; nguồn vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 188,3 tỷ đồng; nguồn vốn ODA là 81,3 triệu đồng; nguồn vốn Xổ số kiến thiết là 53,2 tỷ đồng; nguồn vốn khác là 11,8 tỷ đồng.
- Nguồn vốn thuộc ngân sách Nhà nước cấp huyện là 271,6 tỷ đồng, chiếm 17,4% trong tổng số nguồn vốn. Chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa... trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh, trong đó: vốn cân đối ngân sách huyện là 150.304 triệu đồng; nguồn vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 113,7 tỷ đồng và nguồn vốn khác là 7,6 tỷ đồng.
4. Thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại dịch vụ tháng 8/2021 đã chịu ảnh hưởng lớn do tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 các cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ không thiết yếu tiếp tục tạm ngưng... Các dịch vụ vui chơi giải trí đóng cửa, dịch vụ y tế hoạt động hạn chế, hầu hết các cơ sở đào tạo, trung tâm ngoại ngữ, cơ sở mầm non, nhà trẻ và cơ sở dạy hè cho học sinh đều đóng cửa, … Kết quả doanh thu các ngành dịch vụ tiêu dùng trong tháng 8 giảm sút. Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 8 giảm 2,74% so với tháng trước và giảm 3,65% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,63% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 8 năm 2021 đạt 1.909,875 tỷ đồng, giảm 2,74% so với tháng trước và giảm 3,65% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.658,697 tỷ đồng, chiếm 86,85% trong tổng số, giảm 2,81% so với tháng trước và giảm 3,71% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 150,856 tỷ đồng, chiếm 7,9% trong tổng số, giảm 1,97% so với tháng trước và giảm 10,94% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 100,323 tỷ đồng, chiếm 5,25% trong tổng số, giảm 2,72% so với tháng trước và tăng 11,19% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 8 năm 2021 giảm so với tháng trước là do các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ ăn, uống phải giảm 50% số lượng phục vụ theo đăng ký và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ không thiết yếu tạm ngừng hoạt động để thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp theo Công điện 04/CĐ-CTUBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Kon Tum ngày 26 tháng 7 năm 2021 về việc tăng cường các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 và hỗ trợ vận chuyển hàng hoá thiết yếu.
Tính chung tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh 8 tháng năm 2021 ước tính đạt 15.781,862 tỷ đồng, tăng 11,63% so với cùng kỳ năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 13.632,154 tỷ đồng, chiếm 86,38% trong tổng số, tăng 11,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 13,86%; hàng may mặc tăng 14,86%; phương tiện đi lại tăng 8,49%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 13,39%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 29,11%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 1,04% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.294,102 tỷ đồng, chiếm 8,2% trong tổng số, tăng 8,13% so với cùng kỳ năm trước;
Doanh thu dịch vụ khác đạt 855,606 tỷ đồng, chiếm 5,42% trong tổng số tăng 23,68% so với cùng kỳ năm trước.
5. Hoạt động vận tải
Tình hình dịch bệnh kéo dài và lây lan nhanh, người dân lo ngại lây nhiễm dịch bệnh nên hạn chế đi lại, do đó hoạt động vận tải hành khách giảm mạnh; vận tải hàng hóa hoạt động bình thường, tuy nhiên cũng ảnh hưởng do nhiều cung đường đến các vùng dịch phải ngưng vận chuyển và cước phí vận tải hàng hóa tăng do chi phí xét nghiệm các lái xe và chi phí tiêu hao nhiên liệu trong thời gian chờ đợi làm thủ tục xét nghiệm và phải phụ thu chiều ngược lại.
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 8 năm 2021 đạt 71.211,5 triệu đồng, giảm 53,57% so với cùng kỳ năm trước (trong đó doanh thu vận tải hành khách giảm 76,64%, doanh thu vận tải hành hóa giảm 42,47%); giảm 7,85% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng đạt 1.070.500,8 triệu đồng, giảm 8,29% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hành khách tháng 8 doanh thu ước đạt 11.673,3 triệu đồng, so với tháng trước giảm 15,44%; Vận chuyển ước đạt 227,64 nghìn lượt khách, giảm 13,44%; Luân chuyển ước đạt 30.327,27 nghìn lượt khách.km, giảm 12,08%. Tính chung 8 tháng doanh thu ước đạt 321.762,3 triệu đồng, giảm 23,99%; Vận chuyển ước đạt 6.007,14 nghìn lượt khách, giảm 21,75%; Luân chuyển ước đạt 775.556,37 nghìn lượt khách.km, giảm 20,49% so với cùng kỳ năm trước.
Vận tải hàng hoá tháng 8 doanh thu ước đạt 59.076,2 triệu đồng, so với tháng trước giảm 6,13%; Vận chuyển ước đạt 688,77 nghìn tấn, giảm 5,85%; Luân chuyển ước đạt 35.790,29 nghìn tấn.km, giảm 5,06%. Tính chung 8 tháng Doanh thu ước đạt 743.217,5 triệu đồng, tăng 2,37%; Vận chuyển ước đạt 8.419,93 nghìn tấn, tăng 2,64%; Luân chuyển ước đạt 428.904,81 nghìn tấn.km, tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 462 triệu đồng, giảm 13,81%. Tính chung 8 tháng doanh thu ước đạt 5.521 triệu đồng, tăng 2,37% so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động vận chuyển hành khách giảm mạnh so với tháng trước nguyên nhân chủ yếu một mặt là do ảnh hưởng dịch COVID-19 nhiều Tỉnh, thành phố thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 nên tạm dừng phương tiện vận chuyển hành khách liên tỉnh đi và đến địa phương đó, mặt khác tuy ở địa bàn tỉnh hoạt động vận chuyển hành khách hoạt động bình thường nhưng nhu cầu đi lại của người dân giảm. Hoạt động vận chuyển hàng hóa giảm là do ảnh hưởng dịch COVID-19 nên hoạt động vận chuyển hàng hóa đường dài liên tỉnh giảm mạnh.
6. Giá cả thị trường
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 năm 2021 tăng 0,27% so với tháng trước; tăng 2,87% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,26% so với tháng 12 năm trước và tăng 4,62% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng 1,57%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 04 nhóm tăng: nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,71%; nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,1%; nhóm Giao thông tăng 0,46%; nhóm giáo dục tăng 0,56%. Có 05 nhóm giảm là nhóm Đồ uống và thuốc lá giảm 0,13%; nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,18%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,1%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,05%; nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,45%. Có 02 nhóm không biến động giá là nhóm Thuốc và dịch vụ y tế và nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác.
-Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng giảm so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 8/2021 được bán với giá bình quân khoảng 5.433.000 đồng/chỉ, giảm 0,06% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 23.012 đồng/USD giảm 0,43%.
7. Một số tình hình xã hội
a) Tình hình ANTT – ATGT tháng 7 năm 2021
Tội phạm và VPPL về trật tự xã hội (TTXH): Phát hiện 53 vụ, tăng 30 vụ so cùng kỳ năm 2020 và 08 vụ so với tháng trước, trong đó: giết người 02 vụ; cố ý gây thương tích 05 vụ; giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi 01 vụ; cướp tài sản 01 vụ; cướp giật tài sản 01 vụ; trộm cắp tài sản 17 vụ; lừa đảo chiếm đoạt tài sản 01 vụ; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 01 vụ; chống người thi hành công vụ 03 vụ; đánh bạc 08 vụ; vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 10 vụ; làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức + sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức 01 vụ. Thiệt hại: chết 01 người, 01 người bị thương, mất 24 ĐTDĐ các loại (trị giá khoảng 150 triệu đồng), 140 triệu đồng tiền mặt và một số tài sản trị giá 115 triệu đồng.
Tội phạm và VPPL về kinh tế: Phát hiện 05 vụ vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản.
Tội phạm và VPPL về môi trường: Phát hiện 01 vụ vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm trên địa bàn huyện Đăk Glei.
Tội phạm và VPPL về ma túy: Phát hiện 10 vụ, trong đó: Tàng trữ trái phép chất ma túy 06 vụ; mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 02 vụ; chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ 42,889 gram ma túy tổng hợp.
Tình hình trật tự an toàn giao thông: Xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông. Hậu quả chết 05 người, bị thương 02 người, hư hỏng 01 ô tô, 05 mô tô.
Tình hình cháy, nổ
Trong tháng 7/2021: Không xảy ra.
b) Tình hình giáo dục
Ngày 18/8, UBND tỉnh ban hành Văn bản 2902/UBND-KGVX thống nhất khung kế hoạch thời gian năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh theo đề xuất của Sở Giáo dục và Đào tạo. Cụ thể, học sinh tựu trường và khai giảng năm học vào ngày 05/9/2021 và các cấp học bắt đầu học từ ngày 06/9/2021.
c) Vi phạm môi trường
Trong tháng 7/2021, trên địa bàn tỉnh Kon Tum phát hiện 01 vụ vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm trên địa bàn huyện Đăk Glei.
d) Văn hóa - Thể dục thể thao
Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, UBND tỉnh đã ban hành các Chỉ thị, Công văn và Văn bản hướng dẫn đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Theo đó, yêu cầu UBND huyện, thành phố, Sở ban ngành hạn chế tổ chức các hoạt động văn hóa thể dục thể thao, các hoạt động tập trung đông người không cần thiết nhằm hạn chế lây nhiễm dịch bệnh Covid-19.
Lập hồ sơ khoa học di tích lịch sử cách mạng Trại giam Đăk Tô; thực hiện công tác rà soát, nghiên cứu tư liệu các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và lãnh đạo tiền bối tiêu biểu trên địa bàn tỉnh để tham mưu việc xây dựng, trùng tu, tôn tạo khu lưu niệm, nhà lưu niệm.
Triển khai thực hiện Kế hoạch số 3152/KH-UBND ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc tổ chức Đại hội Thể dục thể thao các cấp tiến tới Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Kon Tum lần thứ VII năm 2022 và tham gia Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022.
e) Y tế
-Tình hình dịch bệnh
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID-19): Lũy tích đến ngày 12/8/2021, ghi nhận 21 ca mắc được phát hiện qua sàng lọc và kiểm soát tại Chốt và đưa đi cách ly tập trung kịp thời, chưa ghi nhận trường hợp mắc COVID-19 trong cộng đồng; đang cách ly điều trị 18 ca, đã kết thúc cách ly điều trị 03 ca và không có ca lây nhiễm thứ phát trên địa bàn trong 14 ngày qua.
Tay - chân - miệng: Trong tháng, ghi nhận 06 ca mắc mới (Đăk Glei 03, Đăk Hà 03), tăng 01 ca so với tháng trước và tăng 03 ca so với tháng 7/2020. Lũy tích đến 31/7/2021, không có ca tử vong, ghi nhận 57 ca mắc, tăng 42 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 12 ca mắc (Đăk Tô 04, Đăk Glei 01, Tu Mơ Rông 04, Kon Rẫy 02, Sa Thầy 01), giảm 09 ca so với tháng trước và giảm 13 ca so với tháng 7/2020. Lũy tích đến 31/7/2021, không có ca tử vong, ghi nhận 239 ca, giảm 94 ca so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 06 ca mắc (Đăk Hà 01, Đăk Tô 02, Tu Mơ Rông 01, Kon Rẫy 01, Sa Thầy 01), giảm 01 ca so với tháng trước và tăng 03 ca so với tháng 7/2020. Lũy tích đến 31/7/2021, không có ca tử vong, ghi nhận 40 ca mắc, giảm 41 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng, ghi nhận 35 ổ dịch mới, 180 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 12, Đăk Hà 32, Đăk Tô 55, Ngọc Hồi 18, Đăk Glei 06, Kon Rẫy 02, Sa Thầy 55), tăng 52 ca so với tháng trước và giảm 139 ca so với tháng 7/2020. Lũy tích đến 31/7/2021, không có ca tử vong, ghi nhận 374 ca mắc tại 7/10 huyện, thành phố, giảm 152 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt rét: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc. Lũy tích đến 31/7/2021, không có ca tử vong, ghi nhận 03 ca mắc (Đăk Hà 01, Sa Thầy 01, Ia H’Drai 01), giảm 20 ca so với cùng kỳ năm trước.
Viêm não Nhật Bản: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc. Lũy tích đến 31/7/2021, không có ca tử vong, ghi nhận 01 ca mắc tại huyện Sa Thầy, tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong 7 tháng đầu năm 2021, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), cúm A(H1N1), bệnh do vi rút Zika, viêm gan vi rút A, bạch hầu, dại, ho gà, sởi.
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 22 người, trong đó lao phổi AFB (+) 12. Tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 181 người (điều trị hóa trị liệu 05, giám sát 21, và chăm sóc tàn tật 155 người).
- Phòng chống HIV/AIDS
Trong tháng, ghi nhận 02 ca nhiễm HIV mới (giảm 3 ca so với tháng trước). Lũy tích đến ngày 31/7/2021, tổng số nhiễm HIV/AIDS 529 người, trong đó đã tử vong 195 người và còn sống 334 người (quản lý được 176). Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 136 người (có 08 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 19 người.
- An toàn vệ sinh thực phẩm
Triển khai các hoạt động truyền thông phòng, chống ngộ độc thực phẩm tại các thôn, làng; tuyên truyền, giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm phục vụ kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, giáo dục nghề nghiệp năm 2021.
Giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm tại các khu cách ly tập trung trên địa bàn tỉnh phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19. Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm đối với các cơ sở kinh doanh thực phẩm chức năng, kết quả: Tổng số cơ sở được kiểm tra 108 cơ sở, hầu hết thực phẩm chức năng được bán tại các cơ sở thực hiện nghiêm túc các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm, bên cạnh đó vẫn còn một vài cơ sở để lẫn thực phẩm chức năng chung với thuốc tây. Kiểm tra đột xuất cơ sở sản xuất nước uống đóng chai có mẫu không đạt qua giám sát, kết quả: 03 cơ sở được kiểm tra đã chấp hành đầy đủ các điều kiện về sản xuất nước uống đóng chai; có đủ hồ sơ pháp lý liên quan đến sản xuất, kinh doanh nước uống đóng chai; đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm; đã thực hiện tự công bố sản phẩm và chấp hành đầy đủ các trình tự thủ tục liên quan đến tự công bố sản phẩm.
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 7 năm 2021 xảy ra 13 trường hợp ngộ độc thực phẩm do ăn uống không bảo đảm vệ sinh./.
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum