Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 30/11/2021-08:52:00 AM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2021 của tỉnh Ninh Bình

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tháng là đẩy nhanh tiến độ gieo trồng cây vụ Đông; tiếp tục phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và chăm sóc, phòng bệnh cho các đối tượng nuôi thủy sản.

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Thu hoạch vụ Mùa:Trong tháng, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ Mùa. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa năm 2021đạt 37,9 nghìn ha, tăng 0,4% (+ 0,2 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước; riêng diện tích lúa đạt 31,8 nghìn ha, tăng 0,5% (+ 0,2 nghìn ha). Vụ Mùa năm nay, thời tiết tương đối thuận lợi, các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt.Năng suất lúa toàn tỉnh sơ bộ vụ Mùa đạt 54,24 tạ/ha, tăng 0,17% (+ 0,09 tạ/ha); sản lượng đạt 172,6 nghìn tấn, tăng 0,7% (+ 1,1 nghìn tấn) so với cùng vụ năm trước. Năng suất ngô sơ bộ đạt 36,1 tạ/ha, tăng 1,1% (+ 0,4 tạ/ha); sản lượng đạt 5,0 nghìn tấn, tăng 5,3% (+ 0,3 nghìn tấn).

Sản xuất vụ Đông:Tính đến ngày 17/11, toàn tỉnh trồng được 5,1 nghìn ha cây vụ Đông, bằng 85,2% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó gồm: 1,0 nghìn hangô; 0,2 nghìn ha khoai lang và 3,7 nghìn ha rau, đậu các loại...

Diện tích cây vụ Đông trồng tập trung chủ yếu ở các địa phương là: huyện Nho Quan 0,9 nghìn ha, huyện Yên Khánh 1,5 nghìn ha, huyện Yên Mô 1,1 nghìn ha...

Đầu vụ Đông năm nay, xuất hiện mưa lớn kéo dài gây ngập úng, hư hại một số cây trồng. Các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạobà con nông dân thực hiện các biện pháp tiêu thoát nước, chăm sóc, phục hồi, tiếp tục trồng mới, trồng bù các cây rau màu còn trong thời vụ để đảm bảo kế hoạch diện tích gieo trồng.Đến nay, thời tiết tương đối thuận lợi,sâu bệnh ít xuất hiện, các loại cây trồng vụ Đông đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển tốt. Các địa phương trong tỉnh đang tập trung chăm sóc và thu hoạch một số loại rau vụ Đông.

1.1.2. Chăn nuôi

Chăn nuôi trâu, bò: Tổng đàn trâu, bò tại thờiđiểmbáo cáo ước đạt 49,2 nghìn con, giảm 0,8% (- 0,4 nghìn con), trong đó: đàn trâu ước đạt 12,6 nghìn con, giảm 0,6%; đàn bò ước đạt 36,6 nghìn con, giảm 0,9%.Bệnh Viêm da nổi cục trên đàntrâu,bò đã được khống chếkhông phát sinh ổ dịch mới, đến nay đàn trâu bò phát triển bình thường.

Chăn nuôi lợn: Tại thời điểm báo cáo, tổng đàn lợn ước đạt 268,0 nghìn con, tăng 16,5% (+ 37,9 nghìn con) so với cùng thời điểm năm trước. Chăn nuôi lợn gặp khó khăn do bệnh dịch tả lợn Châu Phitiếp tục có xu hướng diễn biến phức tạp trở lại. Nguyên nhân do các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, tái đàn không đảm bảo an toàn sinh học; việc lưu thông, vận chuyển, đi lại gia tăng sau khi nới lỏng, mở cửa trở lại.Tính đếnngày 21/11/2021,trên địa bàn tỉnh còn 93 xã, phường, thị trấn thuộc 8 huyện, thành phốdịch bệnh chưa qua 21 ngày. Số lượng lợn tiêu hủy tính từ ngày 01/01/2021 đến hết ngày 21/11/2021 trên địa bàn toàn tỉnh là 14,5 nghìn con với trọng lượng tiêu hủy trên 1.056,0 tấn.

Chăn nuôi gia cầm:Tổng đàn gia cầm đến nay ước đạt 6,2 triệu con, giảm 2,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó: đàn gà ước đạt 4,4 triệu con, tăng 0,2%.

Từ ngày 17/10/2021 đến ngày01/11/2021, trên địa bànxã Xuân Chính, huyện Kim Sơn đã xuất hiện 2 ổ dịch cúmgia cầmA/H5N8,tổngsố gia cầm bắt buộctiêu hủylà2.310 con vịt. Chi cục Thú y đãphối hợp với UBND huyện Kim Sơn, các đơn vị chuyên môn cấp huyện triển khai khẩn trương, quyết liệt các biện pháp bao vây, chống dịch. Đến nay, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, không phát sinh thêm ổ dịch mới.

Công tác tiêm phòng vắc xin trên đàn gia, súc gia cầm vụ Thu Đông: Tính đến ngày 18/11/2021:vắc xin Lở mồm long móng trâu bò tiêm được 23,7 nghìn con đạt 83,3%;vắc xin Viêm da nổi cục trâu, bò tiêm được 3,8 nghìn con đạt 29,3%; vắc xin Cúm gia cầm tiêm được 1.198,8 nghìn con đạt 70,2% kế hoạch trong diện tiêm phòng.

1.2. Lâm nghiệp

Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được các ngành, các cấp quan tâm, trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 11 ước đạt4,5 ha, giảm 22,4% so với cùng tháng năm trước do trong tháng xuất hiện không khí lạnh, sương muối không thích hợp cho việc trồng rừng;số cây trồng phân tán ước đạt 24,6 nghìn cây, tăng 1,2%;sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,1 nghìn m3,tăng 2,8%; sản lượng củi khai thác ước đạt 2,2 nghìn ste,giảm 0,3%.Tính chung 11 tháng năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt212 ha, giảm 7,2%so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 25,0 nghìn m3,tăng 3,4%; sản lượng củi khai thác 27,4 nghìn ste,giảm2,8%.

1.3. Thủy sản

Trong tháng, các hộ nuôi thủy sản tập trung đẩy mạnh sản xuất để đảm bảo nguồn cung cho tiêu dùng, cũng như tăng thu nhậpbù đắp lại khoảng thời gian khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19.Đến nay, các diện tích nuôi thả thủy sản đang sinh trưởng và phát triển tốt, không códịch bệnh xảy ra.

Sản lượng thủy sản tháng Mười một ước đạt 5,1 nghìn tấn, tăng 8,7% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồngước đạt 4,6 nghìn tấn, tăng 10,0%; sản lượng khai thác ước đạt 0,5 nghìn tấn,giảm 2,7%.

Tính chung lại, sản lượng thủy sản 11 tháng đầu năm ước đạt 58,2 nghìn tấn, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: sản lượng nuôi trồng ước đạt 52,1 nghìn tấn, tăng 8,3%; sản lượng khai thác ước đạt 6,1 nghìn tấn, tăng 0,3%.

2. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp của tỉnh trong tháng tiếp tục ghi nhận mức giảm sút khi giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, hoạt động cung ứng nguyên, vật liệu đầu vào bị thiếu hụt, thị trường tiêu thụ sản phẩm chậm, làm tăng nguy cơ "đứt gẫy" chuỗi cung ứng, sản xuất và tăng tỷ lệ tồn kho.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP)toàn tỉnh tháng Mười một năm nay ước tính giảm 4,98% so với cùng tháng năm trước, đây là lần giảm thứ 3 trong năm của chỉ số IIP, chủ yếu do ngành công nghiệp khai khoáng giảm 14,84% và ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,41%, riêng ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 10,81% và ngành cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 12,99%.

So với tháng trước (tháng 10/2021), chỉ số IIP tháng này giảm 3,74%, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 28,35%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 4,14%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,19%; cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 2,32%.

Tính chung lại 11 tháng năm 2021 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 5,78%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 17,68%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,13%; cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải tăng 11,98%; riêng sản xuất và phân phối điện giảm 5,8%.

Giá trị sản xuất:Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tháng Mười một ước đạt 9.021,2 tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng 11/2020. Trong đó: công nghiệp khai khoáng ước đạt 40,1 tỷ đồng, giảm 0,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.878,0 tỷ đồng, tăng 0,1%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 83,8 tỷ đồng, tăng 1,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 19,3 tỷ đồng, tăng 8,2%.

Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 11 tháng đầu năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 90.033,0 tỷ đồng, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: công nghiệp khai khoáng ước đạt 522,8 tỷ đồng, tăng 18,2%; công nghiệp chế biến, chế tạo 88.374,7 tỷ đồng, tăng 6,7%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 957,5 tỷ đồng, giảm 5,0%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 178,0 tỷ đồng, tăng 6,0%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu:Trong tháng Mười một năm nay, một số sản phẩm công nghiệp tăng khá so với cùng tháng năm trước là: dứa đóng hộp 1,6 nghìn tấn, tăng 80,6%; nước dứa tươi 130,0 nghìn lít, tăng 20,4%; hàng thêu 108,5 nghìn m2, tăng 54,3%; quần, áo các loại 10,4 triệu cái, tăng 36,5%; giày, dép các loại 6,0 triệu đôi, tăng 29,3%; găng tay 400,0 nghìn đôi, tăng 73,9%; phân ure 42,6 nghìn tấn, gấp 3,3 lần; kính nổi 35,0 nghìn tấn, tăng 4,8%; xi măng và clanke 1,1 triệu tấn, tăng 8,2%; modul camera 35,0 triệu cái, gấp 2,1 lần; xe ô tô chở hàng 860 chiếc, tăng 8,7%; đồ chơi hình con vật 1,7 triệu con, tăng 47,6%; điện sản xuất 47,1 triệu kWh, tăng 23,9%... Bên cạnh đó, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: đá các loại 377,6 nghìn m3, giảm 14,7%; ngô ngọt đóng hộp 300,0 tấn, giảm 0,2%; thức ăn cho gia súc 1,3 nghìn tấn, giảm 7,9%; nước khoáng không có ga 300,0 nghìn lít, giảm 18,3%; phân hỗn hợp NPK 11,5 nghìn tấn, giảm 14,2%; phân lân nung chảy 3,0 nghìn tấn, giảm 9,1%; linh kiện điện tử 13,5 triệu cái, giảm 35,4%; tai nghe điện thoại 328,1 nghìn cái, giảm 79,4%; kính máy ảnh 100,0 nghìn cái, giảm 71,4%; xe ô tô 5-14 chỗ 3,6 nghìn chiếc, giảm 44,7%; điện thương phẩm 200,0 triệu kWh, giảm 2,4%; nước máy thương phẩm 2,1 triệu m3, giảm 0,4%;…

Tính chung lại, 11 tháng, các sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước là: đá các loại 3,7 triệu m3, tăng 18,1%; dứa đóng hộp 11,1 nghìn tấn, tăng 61,3%; nước dứa tươi 2,3 triệu lít, tăng 14,0%; thức ăn cho gia súc 19,6 nghìn tấn, tăng 12,6%; hàng thêu 1,8 triệu m2, tăng 69,6%; quần áo các loại 97,8 triệu cái, tăng 26,8%; giày, dép các loại 53,4 triệu đôi, tăng 29,5%; phân ure 455,8 nghìn tấn, tăng 53,5%; phân NPK 116,7 nghìn tấn, tăng 31,4%; phân lân nung chảy 117,0 nghìn tấn, tăng 38,3%; kính nổi 437,0 nghìn tấn, tăng 3,5%; modul camera 253,8 triệu cái, tăng 62,9%; xe ô tô chở hàng 8,1 nghìn chiếc, gấp 2,9 lần; cần gạt nước ô tô 12,6 triệu cái, tăng 28,6%; đồ chơi hình con vật 14,7 triệu con, tăng 15,0%; điện thương phẩm 2,3 tỷ kWh, tăng 2,3%; nước máy thương phẩm 24,3 triệu m3, tăng 19,6%;...

Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: ngô đóng hộp 3,0 nghìn tấn, giảm 4,3%; nước khoáng không có ga 4,0 triệu lít, giảm 17,0%; găng tay 4,4 triệu đôi, giảm 18,0%; xi măng và clanke 10,0 triệu tấn, giảm 4,5%; linh kiện điện tử 126,7 triệu cái, giảm 29,1%; tai nghe điện thoại 5,8 triệu cái, giảm 62,7%; kính máy ảnh 1,9 triệu cái, giảm 1,6%; xe ô tô 5-14 chỗ 58,0 nghìn chiếc, giảm 4,7%; điện sản xuất 596,8 triệu kWh, giảm 10,7%…

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Một số ngành có chỉ số tồn kho tháng này tăng cao so với cùng tháng năm trước như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 48,41%; sản xuất đồ uống tăng 33,13%; sản xuất trang phục gấp 3,4 lần; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 30,06%; sản xuất kim loại gấp 2,4 lần; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 48,22%; sản xuất xe có động cơ gấp 5,5 lần; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 33,37%...

Một số sản phẩm tồn kho đến 31/10/2021 là: giày, dép 3,2 triệu đôi; đạm urê 53,1 nghìn tấn; phân NPK 117,2 nghìn tấn; phân lân nung chảy 15,5 nghìn tấn; kính xây dựng 29,9 nghìn tấn; xi măng 15,0 nghìn tấn; linh kiện điện tử 22,9 triệu chiếc; modul camera 11,6 triệu cái; loa tai nghe điện thoại 731,2 nghìn cái; kính máy ảnh 500 cái; xe ô tô 5-14 chỗ 2.153 chiếc...

3. Vốn đầu tư và phát triển

Tổng số vốn đầu tư phát triển tháng Mười một năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 2.330,3 tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: vốn Nhà nước đạt 516,2 tỷ đồng, tăng 4,9%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.689,1 tỷ đồng, tăng 4,0%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 125,0 tỷ đồng, tăng 13,6%.

Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:

- Khu vực đầu tư công:Dự án hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn và khu dân cư mới xã Gia Xuân, huyện Gia Viễn ước đạt 13,7 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà văn hóa Trung tâm tỉnh Ninh Bình ước đạt 10,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Mầm non xã Khánh Thịnh, huyện Yên Mô ước đạt 9,6 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường khu dân cư phố Thống Nhất vào phố Mỹ Cát, huyện Gia Viễn ước đạt 9,5 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án xây dựng tuyến đường nối khu nhà ở công nhân với khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn ước đạt 8,5 tỷ đồng…

- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):Dự án xây dựng nhà máy sản xuất mỹ phẩm, xà phòng của Công ty TNHH Global Tone ước đạt 36,0 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Huyndai Thành Công Việt Nam ước đạt 20,0 tỷ đồng;dự ánmua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện camera modulcủa Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt15,0tỷ đồng;dự án mua sắm máy móc thiết bịphục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Sản xuất giày Chung Jye Việt Nam ước đạt 15,0 tỷ đồng…

Một số dự án, công trình khởi công mới trong tháng như:Dự án xây dựng khu Trung tâm thể dục thể thao huyện Kim Sơn với tổng mức đầu tư 115,5 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đấu giá quyền sử dụng đất xã Yên Lâm, huyện Yên Mô với tổng mức đầu tư 55,6 tỷ đồng; dự án cải tạo mở rộng đường Nguyễn Huệ (đoạn từ đường Hai Bà Trưng đến Ngô Gia Tự) phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình với tổng mức đầu tư 39,3 tỷ đồng…

Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển 11 tháng năm 2021 toàn tỉnh ước đạt 24.358,5 tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2020. Chia ra: vốn Nhànước đạt 4.496,6 tỷ đồng, tăng 17,4%; vốn ngoài Nhà nước đạt 18.280,1 tỷ đồng, tăng 2,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.581,8 tỷ đồng, giảm 1,4%.

Các công trình, dự án có khối lượng lớn vốn đầu tư thực hiện trong 11 tháng năm nay như sau:

- Khu vực đầu tư công:Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới thị trấn Me, khu dân cư xã Gia Lập, xã Gia Trấn và khu dân cư mới xã Gia Xuân huyện Gia Viễnước đạt156,1tỷ đồng;dự án làm đường ô tô đến trung tâm các xã miền núi Mai Sơn, Khánh Thịnh, Khánh Thượng, huyện Yên Mô ước đạt 62,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường khu dân cư phố Thống Nhất vào phố Mỹ Cát, huyện Gia Viễn ước đạt 52,4 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án xây dựng tuyến đường nối khu nhà ở công nhân với khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu tại xã Gia Tân, huyện Gia Viễn ước đạt 42,2 tỷ đồng…

-Dự án vốn ODA: Dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 146,5 tỷ đồng; dự án sửa chữa nâng cao an toàn đập tỉnh Ninh Bình ước đạt 55,0 tỷ đồng; dự án xây dựng hệ thống cống kiểm soát ngăn mặn và nâng cấp đê Dưỡng Điềm kết hợp nâng cấp bờ sông thành đường cứu hộ, cứu nạn chống xâm nhập mặn, phục vụ phòng chống lụt bão liên huyện Yên Khánh - Kim Sơn ước đạt 36,0 tỷ đồng…

-Dự án vốn Trái phiếu Chính phủ: Dự án thành phần đầu tư xây dựng Đoạn Cao Bồ - Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía Đông ước đạt 402,3 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng xây dựng tuyến đường cao tốc Cầu Giẽ Ninh Bình với Quốc lộ 1A đoạn qua thành phố Tam Điệp ước đạt 398,1tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đê Bình Minh 4 - huyện Kim Sơn ước đạt 87,0 tỷ đồng…

- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:Dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện camera modul của Công ty TNHH McNex Vina ước đạt 549,5 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Huyndai Thành Công Việt Nam ước đạt 321,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất mỹ phẩm, xà phòng của Công ty TNHH Global Tone ước đạt 170,4 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc phục vụ sản xuất giày của Công Ty TNHH Sản xuất Giày Chung Jye Việt Nam ước đạt 126,5 tỷ đồng...

4. Thương mại, dịch vụ và giá cả

Thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ, tỉnh Ninh Bình cũng như nhiều địa phương khác trên cả nước đã triển thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, đây là điều kiện thuận lợi để các hoạt động thương mại, dịch vụ, vận tải trên địa bàn tỉnh dần khôi phục trở lại.

4.1. Bán lẻ hàng hóa

Doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh tháng Mười một ước đạt trên 2.925,3 tỷ đồng tăng 0,7% so với cùng tháng năm trước. Các nhóm hàng hóa có tốc độ tăng chủ yếu tập trung ở một số mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực phẩm ước đạt 905,3 tỷ đồng, tăng 7,3%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 54,6 tỷ đồng, tăng 7,7%; gỗ và vật liệu xây dựng 508,8 tỷ đồng, tăng 5,2%; xăng, dầu các loại 271,4 tỷ đồng, tăng 2,6%; hàng hóa khác 124,1 tỷ đồng, tăng 5,6%. Bên cạnh đó, các nhóm hàng hóa không thiết yếu tiếp tục ghi nhận mức giảm so với cùng kỳ: hàng may mặc ước đạt 208,5 tỷ đồng, giảm 14,4%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 307,9 tỷ đồng, giảm 7,7%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 148,5 tỷ đồng, giảm 1,0%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 165,6 tỷ đồng, giảm 7,9%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 61,5 tỷ đồng, giảm 2,6%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 95,5 tỷ đồng, giảm 4,9%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 73,8 tỷ đồng, giảm 0,5%.

Tính chung trong 11 tháng 2021, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện trên 30.923,0 tỷ đồng, tăng 14,5% so với 11 tháng 2020. Tất cả các nhóm ngành hàng đều đạt mức tăng khá, cụ thể: lương thực, thực phẩm 9.395,1 tỷ đồng, tăng 15,4%; hàng may mặc 2.300,2 tỷ đồng, tăng 10,1%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 3.379,3 tỷ đồng, tăng 9,1%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 541,4 tỷ đồng, tăng 15,8%; gỗ và vật liệu xây dựng 5.185,8 tỷ đồng, tăng 14,3%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 1.576,1 tỷ đồng, tăng 17,6%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 1.810,2 tỷ đồng, tăng 3,9%; xăng, dầu các loại 2.889,0 tỷ đồng, tăng 22,3%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 668,8 tỷ đồng, tăng 14,7%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 1.065,5 tỷ đồng, tăng 16,8%; hàng hoá khác 1.304,1 tỷ đồng, tăng 26,5%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 807,5 tỷ đồng, tăng 14,4%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong tháng Mười một ước đạt trên 388,6 tỷ đồng, giảm 1,1% so với cùng tháng năm trước; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 245,1 tỷ đồng, tăng 4,3%.

Trong 11 tháng, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 4.315,1 tỷ đồng, tăng 22,5% so với cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 290,8 tỷ đồng, tăng 11,2%; doanh thu dịch vụ ăn uống 4.024,3 tỷ đồng, tăng 23,5%); doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 3,5 tỷ đồng, giảm 40,7%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 2.639,7 tỷ đồng, tăng 17,9%.

4.2. Chỉ số giá tiêu dùng

Sau hai lần giảm liên tiếp trước đó, chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một tăng 0,75% so với tháng trước, tăng 1,74% so với tháng 12 năm 2020 và tăng 1,52% so với cùng tháng năm trước. Bình quân 11 tháng 2021, CPI tăng 0,96% so với cùng kỳ.

So với tháng trước, có đến 07 trong tổng số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số tăng, cụ thể: nhóm giao thông tăng mạnh nhất với 3,27% nguyên nhân chính là sau kỳ điều chỉnh tăng giá vào ngày 10/11/2021 (đây là kỳ thứ 5 liên tiếp điều chỉnh tăng giá), giá xăng tăng 8,74%, giá dầu diezel tăng 7,6% kéo theo giá nhiên liệu tăng 8,51% so với tháng trước; tiếp theo nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,54% (trong đó nhóm lương thực tăng 0,22%; nhóm thực phẩm tăng 2,33% chủ yếu do giá rau xanh đồng loạt tăng cao khi trong tháng xuất hiện mưa lớn kéo dài gây ngập úng ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng thu hoạch rau, nguồn cung rau trên thị trường giảm dẫn đến giá rau tăng cao như: bắp cải tăng 35,46%; su hào tăng 33,4%; cà chua tăng 37,01%; khoai tây tăng 18,05%; rau muống tăng 24,0%; đỗ quả tươi tăng 24,39%...; riêng ăn uống ngoài gia đình giữ ổn định); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,13%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,06%; hai nhóm giáo dục và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác cùng tăng 0,02%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng nhẹ 0,01%. Duy nhất có 01 nhóm giảm là nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,33%. Ba nhóm còn lại giữ chỉ số ổn định.

CPI bình quân 11 tháng 2021 tăng 0,96% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó có 08/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: nhóm giao thông tăng cao nhất 10,26%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 5,4%; nhóm giáo dục tăng 4,06%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,85%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,91%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,47%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,33%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,17%. Ba nhóm còn lại có chỉ số giảm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 2,91% (lương thực tăng 4,76%; thực phẩm giảm 4,83%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,71%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,12%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,16%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá Đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng này tăng 4,17% so với tháng trước, tăng 1,24% với tháng 12/2020 và tăng 1,15% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá bán lẻ Đô la Mỹ giảm 0,14% so với tháng 10/2021, tăng 2,06% so với tháng 12 năm trước và giảm 4,67% so với tháng 11/2020. Bình quân 11 tháng, chỉ số giá vàng tăng 11,42%; chỉ số giá Đô la Mỹ giảm 7,03% so với cùng kỳ năm 2020.

4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu:Giá trị xuất khẩu tháng Mười một năm nay ước đạt trên 291,7 triệu USD, tăng 53,3% so với cùng tháng năm 2020. Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng năm nay ước đạt gần 2.623,8 triệu USD, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại 369,8 triệu USD; xi măng, clanke 556,3 triệu USD; giày, dép các loại 566,0 triệu USD; camera và linh kiện điện thoại 769,3 triệu USD; linh kiện điện tử 70,0 triệu USD…

Trong 11 tháng năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu đạt khá so với cùng kỳ năm trước như: quần áo các loại 61,8 triệu chiếc, tăng 33,4%; sản phẩm cói khác 1,8 triệu sản phẩm, gấp 2,2 lần; hàng thêu ren 149,2 nghìn chiếc, tăng 50,7%; xi măng, clanke 14,4 triệu tấn, tăng 8,0%; camera và linh kiện 259,2 triệu sản phẩm, tăng 60,9%; giày, dép các loại 54,4 triệu đôi, tăng 43,0%... Bên cạnh đó, một số mặt hàng mới xuất khẩu năm nay có giá trị xuất khẩu khá như: phân u rê; một số nguyên liệu cho sản xuất (nhựa plastic, đồng, kẽm, thủy tinh)... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút so với cùng kỳ như: thảm cói 12,4 nghìn m2, giảm 65,7%; găng tay các loại 4,2 triệu đôi, giảm 17,2%; phôi nhôm 12,2 nghìn tấn, giảm 37,5%; dứa, dưa chuột đóng hộp 11,4 nghìn tấn, giảm 4,3%...

Nhập khẩu:Giá trị nhập khẩu trong tháng ước đạt trên 280,1 triệu USD, tăng 32,3% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 11 tháng ước đạt 2.887,8 triệu USD, tăng 6,5% so với 11 tháng năm 2020. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện điện tử 824,8 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 1.041,1 triệu USD; vải và phụ liệu may 161,9 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 444,3 triệu USD; phế liệu sắt thép 129,0 triệu USD; máy móc thiết bị 62,7 triệu USD; ô tô 38,5 triệu USD.

4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách:Hoạt động vận tải hành khách trong tháng Mười một tuy có khởi sắc hơn tháng trước nhưng so với cùng kỳ năm trước vẫn ghi nhận mức giảm. Khối lượng vận chuyển hành khách trong tháng ước thực hiện trên 1,3 triệu lượt khách giảm 22,3% và luân chuyển gần 80,1 triệu lượt khách.km, giảm 14,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng 2021, vận tải hành khách toàn tỉnh ước thực hiện gần 15,0 triệu lượt khách, giảm 4,0% so với 11 tháng 2020 và luân chuyển gần 840,1 triệu lượt khách.km, giảm 0,3%. Trong đó, chủ yếu là vận tải đường bộ ước đạt 13,9 triệu lượt khách, tăng 1,2% và 835,8 triệu lượt khách.km, tăng 0,1%; vận tải đường thủy nội địa 1,1 triệu lượt khách, giảm 42,1% và 4,3 triệu lượt khách.km, giảm 41,5%.

Vận tải hàng hóa:Tháng Mười một ước thực hiện gần 5,4 triệu tấn vận chuyển, tăng 11,3% so với tháng 11/2020 và luân chuyển 784,3 triệu tấn.km, tăng 9,7%. Ước tính 11 tháng năm 2021, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt gần 49,8 triệu tấn, tăng 4,3% và luân chuyển trên 7.100,2 triệu tấn.km, tăng 4,4% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 23,4 triệu tấn, tăng 3,8% và 1.232,0 triệu tấn.km, tăng 5,5%; vận tải đường thủy nội địa 24,7 triệu tấn, tăng 4,4% và 4.966,8 triệu tấn.km, tăng 3,3%; vận tải đường biển 1,7 triệu tấn, tăng 10,1% và 901,4 triệu tấn.km, tăng 9,4%.

Doanh thu vận tải:Trong tháng Mười một ước đạt 608,2 tỷ đồng, tăng 4,2% so với tháng 11/2020. Ước tính trong 11 tháng, doanh thu vận tải toàn tỉnh đạt 5.955,6 tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ. Phân theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước thực hiện 687,9 tỷ đồng, tăng 5,1%; vận tải hàng hóa 5.088,5 tỷ đồng, tăng 6,6%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 174,4 tỷ đồng, giảm 36,7%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 4,8 tỷ đồng, gấp trên 3,6 lần.

4.5. Hoạt động du lịch

Trên cơ sở đánh giá tình hình diễn biến của dịch Covid-19 và khả năng kiểm soát dịch trong cả nước cũng như trên địa bàn tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 180/KH-UBND ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc phục hồi và phát triển du lịch những tháng cuối năm 2021 và năm 2022 xây dựng cụ thể, chi tiết phương án đón khách cho từng giai đoạn. Theo đó, các khu, điểm du lịch, di tích trên địa bàn tỉnh được phép mở cửa, đón khách du lịch và nhân dân trong tỉnh từ 06h00 ngày 15/11/2021 nhưng vẫn phải đảm bảo nghiêm các yêu cầu về phòng chống dịch Covid-19 theo quy định.

Ước tính số lượng khách đến thăm quan, du lịch tại các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một đạt 31,3 nghìn lượt khách chỉ bao gồm khách trong nước, giảm 84,1% so với tháng 11/2020. Tính chung lại 11 tháng năm nay, tổng số khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn tỉnh đạt gần 957,1 nghìn lượt khách, giảm 60,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khách trong nước ước đạt 943,7 nghìn lượt khách, giảm 57,7%; khách quốc tế ước đạt 13,4 nghìn lượt khách, giảm 93,0%. Tổng số khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt trên 198,2 nghìn lượt khách, giảm 52,3%; số ngày khách lưu trú ước đạt gần 265,8 nghìn ngày.khách, giảm 51,7%. Doanh thu du lịch ước thực hiện trên 639,2 tỷ đồng, giảm 55,9%, trong đó: doanh thu lưu trú 143,8 tỷ đồng, giảm 51,4%; doanh thu ăn uống 236,8 tỷ đồng, giảm 57,3%.

5. Một số vấn đề xã hội

5.1. Văn hoá thông tin, thể thao

Hoạt động văn hóa thông tin trong tháng chủ yếu tập trung tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị, tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn như: kỷ niệm 30 năm ngày tái lập tỉnh Ninh Bình (01/4/1992 – 01/4/2022), ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc 18/11, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày Thế giới xóa bỏ bạo lực với phụ nữ 25/11, tiếp tục tuyên truyền về việc thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch Covid-19…

Trong tháng Nhà hát Chèo đã tổ chức 07 buổi biểu diễn nghệ thuật, ghi hình phục vụ công tác tuyên truyền phòng chống dịch Covid-19; Trung tâm Văn hóa tỉnh thiết kế, trưng bày ảnh Bác Hồ tại khu du lịch tâm linh Chùa Bái Đính; tập luyện chương trình văn nghệ chào mừng triển lãm ảnh “Việt Nam qua ống kính nhiếp ảnh gia quốc tế” tại Ninh Bình do Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm phối hợp với tỉnh Ninh Bình tổ chức.

Hoạt động thể thao chủ yếu tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện, nâng cao thành tích cho vận động viên các đội tuyển;tổ chức giải Cầu lông các câu lạc bộ cúp PTTH tỉnh Ninh Bình lần thứ XXV năm 2021 (từ ngày 23/11- 25/11/2021); thành lập các đoàn VĐV tham gia thi đấu các giải: Giải vô địch Cờ vua xuất sắc quốc gia năm 2021 tại tỉnh Quảng Ninh; Giải vô địch Cờ vua trẻ Quốc gia năm 2021 tại thành phố Ninh Bình, Giải vô địch Karate quốc gia lần thứ XXXI năm 2021 (từ ngày 24/11 - 04/12/2021) tại tỉnh Thanh Hóa... Chuẩn bị các điều kiện để tổ chức vòng II giải Bóng chuyền Vô địch quốc gia năm 2021 tại Ninh Bình.

5.2. Hoạt động Y tế[1]

Trong tháng, tình hình dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh có diễn biến phức tạp, đã xuất hiện các ca bệnh trong cộng đồng tại thành phố Tam Điệp và huyện Yên Khánh. Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh Ninh Bình đã ban hành Quyết định về việc thiết lập cách ly y tế vùng có dịch trên địa bàn phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp. Theo đó, phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp có 02 khu vực phải thực hiện cách ly y tế (phong tỏa) trong vòng 14 ngày. Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, ngành Y tế đã chủ động các phương án, kịch bản phòng, chống dịch trên địa bàn tỉnh trong tình hình mới; kịp thời truy vết, lấy mẫu xét nghiệm, rà soát các đối tượng có liên quan đến các ca bệnh dương tính; bên cạnh đó tiếp tục quản lý, giám sát các trường hợp cách ly tại cơ sở y tế, cơ sở cách ly tập trung và tại nơi lưu trú, triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho người dân theo đúng kế hoạch.

Tính đến 16h ngày 23/11/2021 toàn tỉnh đã tiếp nhận cách ly và giám sát 90.924 trường hợp; trong đó: cách ly tại cơ sở y tế 2.264 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung 19.741 trường hợp; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú 68.919 trường hợp.Tổng số mẫu đã lấy là 367.760 mẫu; số ca đã lấy mẫu xét nghiệm là 252.338 trường hợp; số ca đã có kết quả âm tính là 250.877 trường hợp; số ca đã có kết quả dương tính là 421 trường hợp (trong đó 01 trường hợp chuyển sang tỉnh Nam Định quản lý). Đã điều trị khỏi và xuất viện 261 trường hợp; đang điều trị 138 trường hợp; chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 21 trường hợp. Triển khai tiêm phòng vắc xin Covid-19 cho nhóm đối tượng trên 18 tuổi với 591.532 người được tiêm tối tiểu 01 mũi và 578.351 người tiêm đủ 02 mũi; nhóm đối tượng học sinh THPT với 33.413 người được tiêm mũi 1 và 8.062 người được tiêm mũi 2; nhóm đối tượng học sinh THCS với 10.038 người được tiêm mũi 1.

TrongthángMười,toàn tỉnh xảy ra 21 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm; 02ca mắc thủy đậu; 01 ca sốt xuất huyết; 41 ca viêm gan virut…Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 75,0 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho 11,0 nghìn lượt, điều trị ngoại trú 15,0 nghìn lượt, khám phụ khoa 4,5 nghìn lượt, khám thai 3,7 nghìn lượt, đặt dụng cụ tử cung 349 ca.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: trong tháng Mười, phát hiện mới17người nhiễm HIV, không có trường hợp tử vong do AIDS.

5.3. Hoạt động Giáo dục

Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã tổ chức thi chọn đội tuyển học sinh giỏi chính thức của tỉnh chuẩn bị tham dự kỳ thi học sinh giỏi Quốc gia THPT năm học 2021-2022. Kết quả có 68 học sinh được chọn vào 10 đội tuyển thuộc 10 bộ môn: Lịch sử, Địa lý, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Tiếng Anh, Tiếng Pháp.

Tổ chức kỳ thi nghề phổ thông cho 8.817 thí sinh đang học lớp 12 THPT và Giáo dục thường xuyên đăng ký dự thi 07 nghề (điện dân dụng, điện tử, Tin học, làm vườn, trồng lúa, thêu, cắt may).

Tổ chức cuộc thi “Sáng tạo thanh, thiếu niên và nhi đồng tỉnh Ninh Bình lần thứ XII”. Kết quả: có 64 mô hình/sản phẩm của 162 tác giả và đồng tác giả đạt giải, trong đó có 01 giải Đặc biệt, 03 giải Nhất, 06 giải Nhì, 20 giải Ba, 30 giải Khuyến khích và 04 giải phụ. Trong số các tác giả đạt giải có 34 học sinh tiểu học, 85 học sinh THCS, 43 học sinh THPT.

Tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 39 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 đảm bảo an toàn, phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, phối hợp với ngành y tế tổ chức tiêm phòng cho giáo viên và cho học sinh cấp THPT, THCS.

Hội Khuyến học tỉnh chủ trì phối hợp với Ban thường trực Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh tổ chức Chương trình trao tặng "Học bổng cùng em vượt khó đến trường". Trong đợt đầu, đã trao tặng học bổng cho 465 em học sinh có hoàn cảnh khó khăn với tổng số tiền trao tặng gần 2,6 tỷ đồng trong năm học 2021-2022. Bên cạnh việc trao tặng học bổng bằng tiền, nhiều tổ chức, cá nhân còn giúp đỡ các em học sinh bằng hiện vật như trao tặng cặp, sách vở, xe đạp, quần áo, đồ dùng học tập... nhằm khích lệ, động viên tinh thần hiếu học, vượt khó, vươn lên của các em học sinh.

5.4. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]

Trong tháng, lực lượng Công ann tỉnh tiếp tục thực hiện các giải pháp góp phần đảm bảo an ninh trật tự, giảm thiểu tai nạn giao thông trên địa bàn, tăng cường tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm về TTATGT, đồng thời phối hợp với ngành Y tế và các cơ quan chức năng tiếp tục tăng cường kiểm soát, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong phòng chống dịch Covid-19, đẩy mạnh công tác truy vết các trường hợp liên quan đến ca bệnh trên địa bàn tỉnh.

Tính từ 15/10/2021 đến 14/11/2021, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 06 người, bị thương 11người; đã xảy ra 23 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện, xử lý 18 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 19 đối tượng.

5.5. Tình hình cháy nổ, bảo vệ môi trường[3]

Trong tháng,đã xảy ra 01 vụ cháy, không có thương vong về người, thiệt hại tài sản không đáng kể; phát hiện và xử lý 01 vụ vi phạm về môi trường với số tiền phạt 80 triệu đồng./.


[1]Số liệu Y tế là số liệu tháng 10/2021

[2]Số liệu của Công an tỉnh từ 15/10/2021 đến 14/11/2021

[3]Số liệu của Công an tỉnh từ 15/10/2021 đến 14/11/2021



Cục thống kê tỉnh Ninh Bình

  • Tổng số lượt xem: 628
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)