1. Tình hình chung:
Tháng 4 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 37.353 tỷ đồng tăng 16,4% so với cùng kỳ và tăng 2,1% so với tháng 3/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12,5%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,3%, khu vực đầu tư nước ngoài tăng 14,7% so cùng kỳ.
Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 138.549 tỷ đồng tăng 15,1% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,9% (chiếm 33%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,2% (chiếm 30%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,1% (chiếm 37%) (trong đó Tcty dầu khí giảm 9,2%, các ngành khác tăng 21,1%).
Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 27,1%; các sản phẩm chế biến là thuỷ sản chế biến tăng 19,4%, giấy bìa các loại 17,3%; các sản phẩm hoá chất là phân hoá học 43,3%, xút NaOH tăng 38%, thuốc viên các loại 22,1%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là thép cán 17,1%, sứ vệ sinh tăng 29,2%, gạch lát 17,7%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như máy công cụ 18,3%, động cơ điện 21,8%, quạt điện dân dụng 62,5%, xe máy tăng 24,4%, ôtô các loại 26% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành gồm: điện sản xuất tăng 12,7%, xi măng 12,3%, gạch xây 5,7%, khí đốt thiên nhiên 3,4%, ga hoá lỏng 1,2%, sữa hộp 12,6%, bột ngọt 9,9%, bia 8,1%, thuốc lá bao 14,4%, xà phòng các loại 7,2%, ắc quy 8,7%, thuốc trừ sâu 12%, quần áo may sẵn 12,6%, quần áo dệt kim 9,1%, tivi các loại 7,6% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 88,1%, đường mật các loại 77%, thuốc ống đạt 90,9%, vải lụa thành phẩm 98%, động cơ diezen 80,5%, máy biến thế 94,5%, xe đạp hoàn chỉnh 77,4% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ 4 tháng đầu năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hà Nội tăng 24,4% (chiếm tỷ trọng 7,6%), Vĩnh Phúc tăng 46,2%, Hà Tây tăng 18,3%, Hải Dương tăng 18,2%, Phú Thọ tăng 17,3%, Quảng Ninh tăng 19,1%, Bình Dương tăng 34,3% (chiếm 8,4%), Đồng Nai tăng 21,3% (chiếm 8,3%), Cần Thơ tăng 30,3%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn vẫn tiếp tục đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 12,7% (chiếm tỷ trọng 25%), Hải phòng tăng 15%, Thanh Hoá tăng 5,6%, Đà Nẵng tăng 14,8%, Khánh Hoà tăng 15,9%, Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 4,8% (chiếm 10,3%).
Một số nhận xét chung:
Tình hình 4 tháng đầu năm đã có tăng trưởng khá hơn so với quý I do một số sản phẩm chính đã có tăng trưởng khả quan như phân bón, thép xây dựng, trong khi các sản phẩm khác như than sạch, lắp ráp ôtô, xe máy, vật liệu xây dựng tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao. Về tình hình các địa phương đã có thêm nhiều tỉnh thành phố đạt tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành như Vĩnh phúc, Hà Tây, Hải dương, Phú Thọ, Quảng Ninh, trong khi một số tỉnh, thành phố như Hà nội, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ vẫn duy trì mức tăng trưởng cao.
Tuy nhiên tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2005 vẫn thấp hơn so với kế hoạch đề ra cho cả năm (16%) do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ (9,9%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng thấp do khai thác dầu thô giảm 12% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí và sản xuất gas hoá lỏng cũng tăng thấp so cùng kỳ.
- Về các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 15/36 sản phẩm thống kê chính như điện, xi măng, khí đốt thiên nhiên, bia, lắp ráp tivi,...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 7/36 sản phẩm như dầu thô, vải lụa thành phẩm...). Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may, da giầy, xe đạp và phụ tùng, thuỷ sản chế biến có mức tăng chậm so cùng kỳ. Đặc biệt là hàng dệt may tăng thấp do vướng quota nhập khẩu vào thị trường Mỹ và khả năng cạnh tranh kém so với hàng Trung Quốc tại thị trường EU. Theo kiến nghị của các doanh nghiệp thì Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân bổ quota hàng dệt may để giúp các doanh nghiệp tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu.
- Theo vùng lãnh thổ: trong khi một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 9/15 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội, thì một số tỉnh và thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa – Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải phòng,... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước có mức tăng trưởng thấp (12,7%) đã ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng chung của cả nước.
- Trong các tháng đầu năm 2005 tình hình giá cả nguyên vật liệu vẫn ổn định như ở các tháng cuối năm 2004, giá dầu thô tăng cao trên 50 USD/thùng làm giá xăng dầu tăng lên tương ứng nên Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% để giảm ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới lên chi phí nhiên liệu trong nước, giá phôi thép duy trì ở mức 400-420 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước có tăng chút ít ở mức 7,5-8 triệu đ/tấn, giá cả các mặt hàng sinh hoạt tăng hơn so với cuối năm 2004 ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt của dân cư.
Theo kiến nghị của Bộ Công nghiệp và Hiệp hội thép Việt Nam nên giảm thuế nhập khẩu từ 5% xuống 0% nhằm giảm giá thép thành phẩm ở trong nước, tuy nhiên vì mục tiêu dài hạn và một phần bảo hộ các doanh nghiệp sản xuất phôi thép trong nước cũng như để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất phôi thép, Vụ Kinh tế Công nghiệp đề nghị tiếp tục duy trì mức thuế suất này.
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Bốn tháng đầu năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt 15,9 tỷ kwh tăng 12,7% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 12,2 tỷ Kwh chỉ tăng 0,8%, điện mua ngoài chiếm 23% sản lượng toàn ngành và đạt trên 3,6 tỷ Kwh tăng 87,1% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia. Bốn tháng đầu năm do tình hình khô hạn kéo dài nên thuỷ điện phát sản lượng thấp chỉ đạt gần 21% toàn ngành so với 28,5% cùng kỳ. Điện thương phẩm 4 tháng đầu năm đạt 13,5 tỷ kwh đạt 30,5% kế hoạch năm và tăng 12,9% so cùng kỳ. Về đầu tư XDCB 4 tháng đầu năm ước đạt 6785 tỷ đồng bằng 26,5% kế hoạch năm (tiếp tục triển khai theo tiến độ các công trình lớn như nhiệt điện Uông bí mở rộng, nhiệt điện Hải phòng, Quảng Ninh, Thuỷ điện Tuyên Quang, Sơn la, A Vương, Sông Ba Hạ, Sê San 3, Sê San 4, Pleikrông, Quảng Trị, Bản Vẽ, ...
- Dầu thô khai thác đạt gần 6 triệu tấn giảm 12% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt gần 2,1 tỷ m3 tăng 3,4% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 118 nghìn tấn tăng 1,2% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt trên 10 triệu tấn tăng 27% so cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 9,9 triệu tấn tăng 25,7% so với cùng kỳ.
- Thép cán đạt 1088 nghìn tấn tăng 17% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 365 ngàn tấn tăng 10%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 419 nghìn tấn tăng 39%, khu vực ĐTNN đạt 303 nghìn tấn tăng 2,4% so cùng kỳ.
- Xi măng đạt 8,9 triệu tấn tăng 12,3% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất đạt 5,9 triệu tấn tăng 10,7%, khu vực ĐTNN đạt gần 2,4 triệu tấn tăng 11%.
- Giấy các loại đạt 278 nghìn tấn tăng 17,3%, trong đó 2 khu vực tăng cao là quốc doanh đạt 98 nghìn tấn tăng 25%, ngoài quốc doanh đạt 172 nghìn tấn tăng 13,6%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 151 triệu m giảm 2% cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 292,8 triệu cái tăng 12,6%, quần áo dệt kim đạt 41,1 triệu cái tăng 9,1%.
3. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 4 tháng đầu năm 2005 ước đạt 9,57 tỷ USD tăng 22% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu như: dầu thô đạt 6 triệu tấn giảm 6% (do khai thác giảm), than đá đạt 5 triệu tấn tăng 33%, hàng dệt may đạt 1,3 tỷ USD tăng 5,3%, giày dép đạt 874 triệu USD tăng 5,6%, sản phẩm gỗ đạt 446 triệu USD tăng 44,3%, hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 438 triệu USD tăng 54,3%, túi xách, va ly đạt 148 triệu USD tăng 13,5%, dây và cáp điện đạt 159 triệu USD tăng 42%, sản phẩm nhựa đạt 105 triệu USD tăng 64,1%, xe đạp và phụ tùng đạt 61 triệu USD giảm 30%.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 4 tháng đầu năm 2005 ước đạt 11,3 tỷ USD tăng 21,3% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu như: linh kiện và phụ tùng ôtô đạt 233 triệu USD tăng 68,7%, linh kiện xe máy đạt 172 triệu USD tăng 49,4%, xăng dầu các loại đạt 3,9 triệu tấn tăng 2,7%, phân bón các loại đạt 754 nghìn tấn giảm 56%, thép các loại đạt 1,65 triệu tấn giảm 5%, trong đó phôi thép đạt 602 nghìn tấn giảm 23%, giấy các loại đạt 176 nghìn tấn tăng 45%, bông các loại đạt 51 nghìn tấn tăng 37,5%, sợi các loại đạt 76 nghìn tấn tăng 6,3%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 1,68 tỷ USD tăng 16,6%, hoá chất các loại đạt 251 triệu USD tăng 22,5%, chất dẻo nguyên liệu đạt 346 nghìn tấn giảm 1,6%, vải đạt 596 triệu USD tăng 1,5%, nguyên liệu dệt may da đạt 642 triệu USD giảm 2%, linh kiện máy tính và điện tử đạt 550 triệu USD tăng 56,3%.