Kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2021 của tỉnh Kon Tum, diễn ra trong điều kiện còn nhiều khó khăn, dịch Covid-19 xảy ra ở một số địa phương trên cả nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân trong tỉnh. Trong điều kiện đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ năm 2021, ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã sớm ban hành Chương trình hành động triển khai Nghị quyết của Chính phủ, Kết luận của Tỉnh ủy, Nghị quyết của HĐND tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; kịp thời ban hành các kế hoạch và nhiều văn bản triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, giải ngân các nguồn vốn đầu tư, bảo đảm an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội, ứng phó với dịch bệnh Covid-19.
Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức của địa bàn có nguy cơ cao về dịch bệnh Covid-19 xâm nhập và lây lan, với sự nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 của cả hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân trong tỉnh, công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh được thực hiện tích cực, quyết liệt, việc chưa để xảy ra ca nhiễm bệnh trong cộng đồng là nền tảng để thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm 2021 của tỉnh nhìn chung ổn định, có mặt chuyển biến tích cực, nhiều chỉ tiêu về kinh tế đạt kết quả cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Kết quả đạt được trên một số lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2021 như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
- Trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân tập trung, chăm sóc các loại cây vụ Mùa; công tác tiêm phòng cho đàn gia súc, gia cầm được đẩy mạnh, các hoạt động kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ được tăng cường nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh và lây lan. Diện tích các cây trồng chủ lực của tỉnh như cây lương thực, cà phê, cao su, cây ăn quả, cây Mắc ca đảm bảo kế hoạch; trồng mới rừng và cây phân tán vượt kế hoạch đề ra; hoạt động hỗ trợ phát triển, nâng hạng các sản phẩm OCOP được tích cực triển khai.
- Thu ngân sách Nhà nước 9 tháng đầu năm ước đạt 2.200 tỷ đồng, đạt 62,9% dự toán địa phương giao và tăng 3,1% so cùng kỳ.
- Chi ngân sách địa phương 9 tháng năm 2021 ước đạt 5.000 tỷ đồng, đạt 47,5% nhiệm vụ chi và bằng 85,5% so cùng kỳ.
- Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh 9 tháng ước đạt 14.087,63 tỷ đồng, tăng 18,63% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021 ước tính tăng 11,73% so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 17.778,9 tỷ đồng, tăng 10,12% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2021 tăng 2,68% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân 9 tháng năm 2021 tăng 1,69% so với cùng kỳ năm trước.
2. Tài chính, ngân hàng
a) Thu, chi ngân sách
Thu ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2021 ước khoảng 2.200 tỷ đồng, đạt 62,9% dự toán địa phương giao và tăng 3,1% so cùng kỳ, trong đó: Thu nội địa 1.767 tỷ đồng đạt 85,9% dự toán; Thu hoạt động xuất nhập khẩu 200 tỷ đồng đạt 81% dự toán. Nếu so với dự toán Trung ương giao (2.654,6 tỷ đồng) thì thu ngân sách Nhà nước toàn tỉnh đạt 82,87%. Thu cân đối ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp sau khi trừ số thu tiền sử dụng đất và thu xổ số kiến thiết ước đạt khoảng 81% dự toán, đảm bảo thu theo tiến độ dự toán giao.
Chi ngân sách địa phương 9 tháng năm 2021 ước khoảng 5.000 tỷ đồng, đạt 47,5% nhiệm vụ chi và bằng 85,5% so cùng kỳ, trong đó: Chi đầu tư phát triển 1.732 tỷ đồng, đạt 38,7% so với nhiệm vụ chi; Chi thường xuyên 3.268 tỷ đồng đạt 54,1% so với nhiệm vụ chi.
b) Hoạt động ngân hàng
Tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn đến 30/9/2021 ước đạt 17.400 tỷ đồng đạt 98,3% so với kế hoạch, tăng 5,1% (tăng 851 tỷ) so với đầu năm, trong đó tiền gửi VND chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng nguồn vốn huy động (khoảng 98%).
Trong quý III năm 2021, nguồn vốn huy động tại chỗ có mức tăng trưởng đều, ổn định, bình quân mỗi tháng 0,8%/tháng. Mặc dù trên địa bàn tỉnh chưa phát sinh ca nhiễm SARS-CoV-2 nhưng dịch Covid - 19 bùng phát kéo dài cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của các TCTD. Tuy nhiên, trong quý các TCTD đã nổ lực, duy trì hoạt động ổn định, an toàn, kết quả kể từ đầu quý III đến nay, nguồn vốn huy động của các TCTD có xu hướng tăng trưởng cao hơn và ổn định.
Tổng dư nợ tín dụng toàn địa bàn ước đến 30/9/2021 đạt 36.200 tỷ đồng đạt 95,8% so với kế hoạch, so với đầu năm tăng 5,3% (tăng 1.804 tỷ đồng) và mức tăng trưởng tương đồng so với cùng kỳ năm trước (tăng 5,25%). Trong đó dư nợ ngắn hạn 20.500 tỷ (chiếm 57% tổng dư nợ); dư nợ trung dài hạn 15.700 tỷ (chiếm 43%); dư nợ cho vay bằng VND khoảng 36.000 tỷ (chiếm 99,4%). Bên cạnh việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng hoàn thành kế hoạch kinh doanh của từng hệ thống, các ngân hàng luôn chú trọng và tích cực triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách hỗ trợ của Chính phủ như cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, khởi nghiệp, cho vay các đối tượng chính sách... góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương trong 9 tháng đầu năm 2021.
Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, từ ngày 15/7/2021 nhiều chi nhánh ngân hàng trên địa bàn đã đồng loại thực hiện giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng có dư nợ hiện hữu từ 10% lãi suất trên tổng dư nợ, một số ngân hàng áp dụng giảm bình quân từ 0,2-0,5%/năm so với mặt bằng lãi suất chung.
3. Giá cả, lạm phát
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2021 giảm 0,27% so với tháng trước; tăng 2,68% so với cùng kỳ năm trước; tăng 1,97% so với tháng 12 năm trước; tăng 4,32% so với kỳ gốc 2019; CPI bình quân 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng 1,69%.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, so với tháng trước có 05 nhóm tăng: nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 0,18%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,76%; nhóm giáo dục tăng 0,04%; nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,45%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,04%. Có 05 nhóm giảm là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,68%; nhóm May mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,2%; nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,27%; nhóm Giao thông giảm 0,81%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Có 01 nhóm không biến động giá là nhóm Thuốc và dịch vụ y tế.
Giá vàng biến động theo giá vàng thế giới và trong nước với xu hướng giảm so với tháng trước, giá vàng 9999 trên địa bàn tỉnh tháng 9/2021 được bán với giá bình quân khoảng 5.429.000 đồng/chỉ, giảm 0,07% so với tháng trước; tỷ giá USD/VND bình quân giao dịch ở mức 22.876 đồng/USD giảm 0,59%.
4. Đầu tư và xây dựng
Hoạt động đầu tư nói chung trên địa bàn tỉnh cơ bản được duy trì ổn định, có sự tăng mạnh so với cùng kỳ ước tính vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 9 tháng năm 2021 tăng 18,63 % so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 9 tháng năm 2021 tăng 14,19% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt.
4.1. Vốn đầu tư
a) Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum quý III năm 2021 ước tính đạt 5.305.801 triệu đồng, tăng 21,12% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo nguồn vốn:
- Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 1.529.313 triệu đồng, tăng 9,96% so với cùng kỳ và chiếm 28,82% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước do trung ương quản lý là 311.535 triệu đồng, nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý là 1.217.778 triệu đồng, chủ yếu đầu tư phát triển các chương trình mục tiêu, xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế, ...
- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 3.771.838 triệu đồng, tăng 26,43% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 71,09% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là 2.160.837 triệu đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 1.611.001 triệu đồng, chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, ...
- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 4.650 triệu đồng, chiếm 0,09% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
b) Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum 9 tháng đầu năm 2021 ước tính đạt 14.087.632 triệu đồng, tăng 18,63% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo nguồn vốn:
- Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 3.561.475 triệu đồng, tăng 14,15% so với cùng kỳ và chiếm 25,28% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước do trung ương quản lý là 829.241 triệu đồng, nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý là 2.732.234 triệu đồng, chủ yếu đầu tư phát triển các chương trình mục tiêu, xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế, ...
- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 10.517.337 triệu đồng, tăng 20,31% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 74,66% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là 6.033.758 triệu đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 4.483.579 triệu đồng, chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, ...
- Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 8.820 triệu đồng, chiếm 0,06% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
c) Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn 9 tháng đầu năm 2021
Ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn tỉnh Kon Tum 9 tháng đầu năm 2021 là 1.906.832 triệu đồng, tăng 13,51% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
Vốn Ngân sách Nhà nước cấp tỉnh ước là 1.606.087 triệu đồng, tăng 15,93% so với cùng kỳ và chiếm 84,23% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, môi trường nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn... Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách tỉnh là 1.203.404 triệu đồng, chiếm 74,93%; Vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 235.165 triệu đồng, chiếm 16,42%; Vốn ODA là 91.872 triệu đồng, chiếm 5,72%; Vốn xổ số kiến thiết là 61.846 triệu đồng, chiếm 3,85%; Vốn khác là 13.800 triệu đồng, chiếm 0,86% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh.
Vốn Ngân sách Nhà nước cấp huyện là 300.745 triệu đồng, tăng 3,30% so với cùng kỳ và chiếm 15,77% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa… trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách huyện là 158.343 triệu đồng, chiếm 52,65%; Vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 133.848 triệu đồng, chiếm 44,5%; Vốn khác là 8.554 triệu đồng, chiếm 2,84% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện.
Trong 9 tháng đầu năm 2021 nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cải tạo nâng cấp các tuyến đường giao thông, kiên cố hóa các kênh mương, công trình cấp nước sinh hoạt; công trình giáo dục; y tế… Tổng nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý và vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum tăng cao so với cùng kỳ năm trước là do Các Sở ban ngành trên địa bàn tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp tháo gở khó khăn đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư.
4.2. Xây dựng
Trong 9 tháng năm 2021, hoạt động xây dựng tập trung ở khu vực hộ dân cư, chủ yếu xây dựng nhà ở mới với mức đầu tư cao và sửa chữa các công trình khác. Các đơn vị hoạt động xây lắp triển khai thi công các công trình trọng điểm có vốn đầu tư cao như:
- Công trình kỹ thuật dân dụng: đường giao thông kết nối từ đường Hồ Chí Minh đi Quốc Lộ 24, xây dựng cầu số 3 qua sông Đắkbla, bê tông hóa đường phố phường trường chinh, Đường thôn Kon Trang long loi, xây dựng Cầu Đăk Pne, đường nội bộ QT khu Trung tâm Hành chính mới của tỉnh, Công trình tái định cư huyện Ngọc Hồi, Xây dựng kênh xã Đăk Ngok, Đường GTNT tôn Măn lây đi thôn Ngọc King xã Đăk rinh kon Plong, đường Đông trường sơn-Đ9, Đường tránh đi Quốc lộ 24, Nâng cấp đường GTNT huyện Sa Thầy, Sửa chữa đường bộ QL14, Sửa chữa hư hỏng nền đường IaPa, Nâng cấp sửa chữa quốc lộ 24 tỉnh Kon Tum ... Công trình thủy lợi: Dự án thủy lợi làng Lung Ia Xier Sa Thầy, Thủy điện Đăk Diu, Thủy điện Plei kân hạ ...
- Xây dựng công trình nhà không để ở: Xây lắp trường Tiểu học Trần Phú, Trường học huyện Ia Hdrai, Trường học huyện Kon Plông, xây dựng nhà làm việc, trường học, trụ sở ubnd huyện..., Sửa chữa nhà làm việc trung tâm văn hóa thể dục thể thao huyện Đắk Tô, Sửa chữa trường học, bệnh viện đa khoa ...
- Các loại hình kinh tế khác (hộ dân cư, xã/phường/ thị trấn) trong 9 tháng năm 2021 hoạt động xây dựng chủ yếu do hộ dân cư đầu tư xây dựng nhà ở mới, sửa chữa nhà ở và các công trình liên quan (sân, tường rào, nhà kho, các công trình khác…). Các đơn vị xã, phường, thị trấn cùng nhân dân thực hiện thi công các công trình nhà văn hóa, nhà rông, hội trường, trường học mẫu giáo, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết …, bê tông hoá các đường liên thôn, liên xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới ở một số xã …
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
- Công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tiếp tục được chú trọng. Hiện đang khẩn trương hoàn thiện Nghị quyết của Tỉnh ủy “về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và tăng cường thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh tính đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
- Tình hình thu hút đầu tư trong thời gian qua có nhiều khởi sắc, tính đến hết tháng 8 năm 2021, đã thu hút 32 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký gần 8.389 tỷ đồng; trong đó, 06 dự án tại khu công nghiệp, khu kinh tế với tổng vốn đăng ký gần 710 tỷ đồng, 26 dự án ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế với tổng vốn đăng ký 7.789 tỷ đồng (bằng 164% so với cùng kỳ năm 2020). Tác động của dịch Covid-19 làm hạn chế hoạt động đăng ký kinh doanh của các tổ chức, cá nhân; tuy nhiên, tổng vốn điều lệ có mức tăng đáng kể. Ước thực hiện 9 tháng, thành lập mới khoảng 241 doanh nghiệp, bằng 82,5% so với cùng kỳ; tổng vốn điều lệ khoảng 6.314 tỷ đồng, bằng 252,7% so với cùng kỳ ([1]). Tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cơ bản được duy trì, số doanh nghiệp giải thể giảm 31%, số doanh nghiệp hoạt động trở lại tăng 56% trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động chỉ tăng 7,5% so với cùng kỳ ([2]).
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tháng 9 diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi. Hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Kon Tum tập trung chủ yếu cho việc gieo trồng, chăm sóc cây hàng năm vụ mùa và trồng mới cây lâu năm, trồng rừng tập trung. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được triển khai thường xuyên; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng, trồng cây xanh và đảm bảo an toàn thuỷ lợi cho sản xuất trong mùa mưa lũ gắn với phòng chống dịch bệnh.
6.1. Nông nghiệp
6.1.1. Trồng trọt
a) Kết quả sản xuất vụ đông xuân 2020 - 2021
Diện tích, năng suất, sản lượng cây hàng năm vụ đông xuân 2020 – 2021 so với vụ đông xuân 2019 – 2020 như sau:
Tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ đông xuân 2020 – 2021 tỉnh Kon Tum đạt: 9.548,02 ha, tăng 1,60% (+149,99 ha). Trong đó diện tích cây lương thực có hạt là: 7.823,85 ha, tăng 1,50% (+115,86 ha).
- Cây lúa DTGT: 7.123,85 ha, tăng 1,04% (73,36 ha). Diện tích tăng chủ yếu do phục hóa đảm bảo lượng nước đưa vào gieo trồng.
- Cây ngô DTGT: 700 ha, tăng 6,46% (+42,50 ha) so với cùng kỳ vụ đông xuân 2019 - 2020. Diện tích cây ngô tăng do người dân tranh thủ trồng trên diện tích tái canh cây cà phê.
- Cây lạc DTGT: 36,95 ha, tăng 24,41% (+7,25 ha).
- Cây rau, đậu và hoa các loại: DTGT toàn tỉnh là: 1.447,59 ha, tăng 4,50% (+62,34 ha) so cùng kỳ năm trước.
Sản lượng lương thực vụ đông xuân 2020 - 2021 đạt 38.230,30 tấn, tăng 6,21% (+2.235,32 tấn) so với vụ đông xuân 2019 - 2020, trong đó sản lượng lúa 35.412,86 tấn, tăng 5,65% (+1.894,87 tấn); sản lượng ngô 2.817,44 tấn, tăng 13,74% (+340,45 tấn); Sản lượng lương thực vụ đông xuân 2020 - 2021 tăng so với cùng kỳ năm trước là do DTGT tăng, bên cạnh đó năm nay do thời tiết thuận lợi nên năng suất cũng tăng so với vụ đông xuân năm trước.
Năng suất lúa đạt 49,71 tạ/ha, tăng 3,50% ( +1,68 tạ/ha). Năng suất ngô đạt 40,25 tạ/ha, tăng 6,84% (+2,58 tạ/ha) so với vụ đông xuân 2019 – 2020; Năng suất lúa, ngô tăng do năm nay thời tiết thuận lợi, mưa sớm, lượng nước đảm bảo cho cây trồng phát triển.
b) Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa 2021
Ước tính đến thời điểm ngày 15/9/2021, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ mùa 2021 tỉnh Kon Tum là: 63.410 ha, tăng 1,22% (+772,219 ha) so với cùng kỳ vụ mùa năm 2020. Cụ thể DTGT một số cây trồng so với cùng kỳ năm trước như sau:
- Cây lúa: 16.154 ha, tương đương cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây lúa ruộng: 12.511 ha; Cây lúa rẫy: 3.643 ha.
- Cây ngô: 4.565 ha, giảm 2,00% (-93,40 ha), diện tích cây ngô giảm do một số diện tích ngô người dân tại huyện Kon Rẫy chuyển sang trồng vụ 2 của vụ mùa năm 2021.
- Cây sắn: 38.832 ha, tương đương cùng kỳ năm trước.
- Khoai lang: 156 ha, giảm 16,35% (-30,5 ha). Diện tích khoai lang giảm do người dân chuyển một số diện tích đất có năng suất thấp sang trồng một số loại cây khác.
- Cây lạc: 125 ha, tăng 4,58% (+5,50 ha).
- Đậu các loại: 265 ha, giảm 3,32% (-9,10 ha).
- Rau các loại: 1.309 ha, tăng 2,90% (+36,91 ha).
- Hoa các loại DTGT: 120 ha, giảm 1,66% (-2,02 ha).
c) Diện tích cây lâu năm
Ước tính đến thời điểm ngày 30/9/2021, tổng diện tích cây lâu năm hiện có trên địa bàn tỉnh là: 112.838 ha, tăng 6,98% (+7.367 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây lâu năm tăng chủ yếu một số loại cây trồng như: Cây ăn quả, cao su, cà phê, cây dược liệu ..., cụ thể một số loại cây trồng như sau:
Diện tích cây ăn quả lâu năm của tỉnh ước tính là 5.943 ha, tăng 75,99% (+2.566 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong năm 2021 người dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tập trung phát triển một số loại cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng như Mắc ca, mít, sầu riêng nên diện tích cây ăn quả tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Cây cao su ước tính 76.736 ha, tăng 3,00% (+2.239 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó Thành phố Kon Tum 9.985 ha, tăng 0,5% (+50ha) so với cùng kỳ năm 2020; Huyện Sa Thầy 12.159 ha tăng 0,67% (+ 81ha) so với cùng kỳ năm trước; Huyện Đăk Hà 7.714 ha tăng 0,35%(+27 ha) so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cao su tăng do người dân trồng lại trên các diện tích cây đã chặt bỏ những năm trước.
Cây cà phê trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính 26.891 ha, tăng 6,68% (+1.685 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó Thành phố Kon Tum là 844 ha, không tăng so với cùng kỳ năm 2020; Huyện Sa Thầy 2.866 ha tăng 4,66% (+128 ha) so với cùng kỳ năm trước; Huyện Đắk Hà 11.848 ha giảm 1,29% (-155 ha) so với cùng kỳ. Diện tích cà phê tăng do giá cà phê những năm gần đây tương đối ổn định nên người dân quan tâm đầu tư mở rộng.
Sản lượng cây công nghiệp lâu năm cũng không nhiều so với các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên. Kon Tum chủ yếu trồng tập trung các cây trọng điểm là cao su và cà phê.
Trong 9 tháng năm 2021, cây cà phê chưa có sản lượng thu hoạch. Đối với cây cao su sản lượng thu hoạch ước tính 40.985 tấn, tăng 7% (+2.680 tấn) so với cùng kỳ, sản lượng cao su tăng chủ yếu do diện tích cho sản phẩm tăng.
1.1.2. Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh gặp tương đối khó khăn do liên tiếp các dịch bệnh nguy hiểm xuất hiện trên đàn vật nuôi. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của các cấp, ngành, địa phương và người dân, một số dịch bệnh đã được kiểm soát tốt. Bên cạnh đó, thông qua nhiều hình thức liên kết quy mô lớn và ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi đã giúp gia tăng số lượng và chất lượng gia súc, gia cầm.
a) Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Kon Tum ước tính đến thời điểm 30/9/2021
- Tổng đàn trâu 25.452 con, tăng 2,63 % (+652 con) so với cùng kỳ năm trước.
- Tổng đàn bò 83.556 con, tăng 2,48% (+2.026 con).
- Tổng đàn lợn 148.520 con tăng 2,03% (+ 2.960 con).
- Tổng đàn gia cầm 1.758.000 con tăng 7,29% (+119.500 con).
Nhìn chung trong 9 tháng năm 2021 giá cả các sản phẩm chăn nuôi ổn định nên người dân đã đầu tư mở rộng và tăng đàn nên tổng đàn gia súc và gia cầm tăng so với cùng kỳ năm trước.
b) Tình hình dịch bệnh
Trong 9 tháng năm 2021, tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh có xảy ra, tuy nhiên đã được các ngành chức năng cơ bản khoanh vùng khống chế và dập dịch, cụ thể tình hình dịch trên địa bàn tỉnh như sau:
- Dịch tả lợn Châu phi: Trên toàn tỉnh có 370 con lợn bị mắc bệnh và đã được tiêu huỷ.
- Dịch lỡ mồm long móng: Trên toàn tỉnh có 394 con trâu, bò bị mắc bệnh; đã tiêu huỷ 13 con.
- Dịch bệnh Tụ huyết trùng ở trâu, bò: Có 206 con trâu, bò mắc bệnh; số đã chết, tiêu hủy: 181 con.
- Bệnh Viêm da nổi cục trên trâu, bò: Trên toàn tỉnh có 3.508 con trâu, bò mắc bệnh, trong đó đã tiêu hủy và chết 233 con.
- Các dịch bệnh khác: các dịch bệnh thông thường trên đàn gia súc, gia cầm được lực lượng thú y phát hiện và xử lý kịp thời.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác trồng rừng, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững được chú trọng và đạt được nhiều kết quả tích cực. Công tác quản lý bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng, vận chuyển lâm sản trái pháp luật và phòng cháy chữa cháy rừng tiếp tục được tăng cường.
Tính đến 15/9/2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ cháy rừng, thiệt hại 27,49 ha; xảy ra 62 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 42,624 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Công tác trồng rừng tập trung trên địa bàn tỉnh đạt 3.642,46 ha, gấp gần 3 lần (+2.705 ha) so với cùng kỳ năm trước. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán trên địa bàn tỉnh đạt 3.620 ngàn cây, tăng 4,11% (+143 ngàn cây) so với cùng kỳ năm trước.
Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 30/9/2021, trên địa bàn tỉnh khai thác gỗ là 103.575 m3, tăng 3,50% (+3.502m3) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng củi khai thác ước đạt 203.809 ster, tăng 2,94% (+5.829 Ster) so với cùng kỳ năm trước.
1.3. Thuỷ sản
Tính đến 30/9/2021, ước tính diện tích nuôi trồng thủy sản là 735 ha, tăng 3,23 % (+23 ha) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thuỷ sản là 4.413 tấn, tăng 8,67% (+352 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
Sản lượng nuôi trồng nước ngọt là 2.904 tấn, tăng 7,68% (+207 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng khai thác nước ngọt là 1.509 tấn, tăng 10,63% (+145 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước là do diện tích nuôi trồng thủy sản tăng. Bên cạnh đó việc khai thác đánh bắt của các hộ trên lòng hồ thủy lợi, thủy điện, sông suối... thuận lợi nên sản lượng thủy sản trong kỳ tăng lên.
7. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 ước tính tăng 20,83% so với tháng trước và tăng 18,08% so với cùng kỳ năm trước, mặc dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4/2021. Tính chung 9 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,73% so với cùng kỳ năm trước.
7.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
a) Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp tháng 9 năm 2021
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 năm 2021 ước tính tăng 18,08% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tăng chủ yếu ở ngành sản xuất và phân phối điện, đến tháng 4 năm 2021 Nhà máy Thủy điện Thượng Kon Tum đã hoàn thành và bắt đầu phát điện nên sản lượng điện tăng cao so với cùng kỳ. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,41%; ngành công nghiệp khai thác khoáng sản giảm 12,88% chủ yếu do lượng đá xây dựng tồn kho nhiều, các đơn vị hạn chế khai thác; ngành sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,86%.
b) Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp quý III năm 2021
Ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp quý III năm 2021 tăng 16,85% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 17,81%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,86%; ngành khai thác khoáng sản giảm 9,90%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2% với cùng kỳ năm trước.
So với quý trước, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp ước tính tăng 18,90%. Trong đó: Ngành khai thác khoáng sản tăng 41,82%, sang quý III các doanh nghiệp xây dựng tập trung thi công các công trình, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi bắt đầu tăng nên các đơn vị tập trung khai thác; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 30,04% so với quý trước, nguyên nhân chủ yếu do trong quý III một số đơn vị sản xuất tinh bột sắn bắt đầu thu mua nguyên liệu và hoạt động sản xuất trở lại đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng mạnh; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,17%; hiện tại trên địa bàn tỉnh đang là mùa mưa, lượng nước trên các hồ thủy điện đảm bảo cho các nhà máy thủy điện hoạt động hết công suất nên sản lượng điện tăng cao so quý trước.
Ước tính một số sản phẩm sản xuất quý III năm 2021 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khác 119.362,9 m3, giảm 7,23%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 64.883 tấn, tăng 38,74%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 61,712 triệu viên, giảm 21,01%, gạch xây dựng bằng đất sét nung giảm thấp so với cùng kỳ do thực hiện chủ trương của tỉnh thay thế dần sản phẩm gạch nung bằng vật liệu không nung, hiện tại số lượng các lò sản xuất gạch thủ công trên địa bàn giảm nhiều; điện sản xuất 508,86 triệu Kwh, tăng 19,08%.
c) Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021
Ước tính chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2021 tăng 11,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 10,95%, nguyên nhân chỉ số sản xuất ngành này giảm thấp do cuối năm trước các đơn vị tập trung vào khai thác, sản lượng đá xây dựng tăng mạnh, sang năm 2021 lượng tồn kho tương đối lớn nên các đơn vị hạn chế sản lượng khai thác. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,92%; trong các tháng đầu năm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn nhiều khó khăn, thiếu nguyên liệu sản xuất, hàng tồn kho nhiều, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như ngành sản xuất đường, tinh bột sắn…; tuy nhiên đến quý III các đơn vị sản xuất tinh bột sắn tập trung thu mua nguyên liệu để sản xuất nên chỉ số ngành này trong 9 tháng đã có mức tăng trưởng khá so với năm trước. Một số ngành sản xuất khác như sản xuất hóa chất, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất bàn ghế… hoạt động tương đối ổn định so với cùng kỳ và so với quý trước, kết quả chung các ngành này có chỉ số tăng tương đối ổn định so với cùng kỳ. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 19,75%, đóng góp tích cực vào chỉ số sản xuất chung toàn tỉnh. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải xấp xỉ so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính một số sản phẩm chủ yếu trên địa bàn sản xuất 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước, như sau:
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện sản xuất 1.291,62 triệu Kwh, tăng 22,04%; Cồn béo công nghiệp đạt 8.611 tấn, tăng 12,34%; Phân vi sinh đạt 826 tấn, tăng 11,77%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 85.798 chiếc, tăng 38,56%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 206.740 chiếc, tăng 53,33%.
Một số sản phẩm có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Đá xây dựng khai thác 263.715m3, giảm 8,96%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 186.332 tấn, giảm 1,48%; Đường RE 8.371 tấn, giảm 26,47% so với cùng kỳ năm trước; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn 142.72 triệu viên, giảm 2,41%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 136 triệu trang, giảm 34,60%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 1.533 tấn, giảm 1,1%; Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1,328 triệu cái, giảm 4,12%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 18.943 tấn, giảm 7,31% so với cùng kỳ năm trước.
7.2. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng năm 2021 tăng 3,46% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao như sản xuất bàn ghế tăng 49,74%; ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 8,42%; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 11,19%. Các ngành có chỉ số tiêu thụ giảm gồm sản xuất đồ uống giảm 2,01%, ngành sản xuất trang phục giảm 4,12%, ngành chế biến gỗ giảm 9,89%; chỉ số tiêu thụ các ngành này giảm do sản lượng phẩm sản xuất giảm. Nhìn chung, chỉ số tiêu thụ 9 tháng tăng thấp, nguyên nhân chủ yếu do sản lượng sản phẩm sản xuất tăng thấp; một mặt dịch Covid-2019 thời gian qua diễn biến phức tạp, khâu lưu thông hàng hóa chậm đã ảnh hưởng đến chỉ số tiêu thụ sản phẩm của các ngành.
7.3. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đến thời điểm 31/8/2021 giảm 5,78% so với cùng thời điểm năm trước. Nhìn chung, tình hình tiêu thụ sản phẩm sản xuất trong các tháng vẫn còn chậm và nhiều khó khăn, nhất là các đơn vị có xuất khẩu hàng hóa như sản xuất tinh bột sắn, chế biến gỗ nên lượng hàng tồn kho lớn.
7.4. Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến chế tạo quý III năm 2021.
Xu hướng tổng quan về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý III năm 2021 nhìn chung các đơn vị đánh giá có khó khăn hơn so với quý trước, với số đơn vị đánh giá khó khăn hơn chiểm 43,75 %; 28,13% số đơn vị đánh giá tốt hơn; 28,13% đánh giá giữ nguyên. Trong đó, các đơn vị đánh giá khó khăn hơn chủ yếu ở một số nhóm ngành như sản xuất thực phẩm, sản xuất sản phẩm cao su, chế biến gỗ. Trong quý tiếp theo số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất sẽ được tốt hơn là 53,13%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 28,13%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất khó khăn hơn giảm còn 18,75%. Các doanh nghiệp dự báo tình hình khó khăn hơn chủ yếu ở ngành sản xuất thực phẩm và ngành chế biến gỗ.
Xu hướng về khối lượng sản xuất ngành chế biến, chế tạo: Khối lượng sản phẩm sản xuất là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất của doanh nghiệp; trong quý III có 31,25% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất tăng hơn quý trước; 28,13% số doanh nghiệp đánh giá giữ mức ổn định sản lượng sản xuất; 40,63% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản phẩm sản xuất giảm đi. Trong quý tiếp theo, tình hình dự báo sẽ tốt lên, theo đó phần lớn các doanh nghiệp đánh giá sẽ tăng khối lượng sản phẩm sản xuất với số doanh nghiệp đánh giá tăng là 43,75%; giữ nguyên cũng chiếm 43,75% và số doanh nghiệp dự kiến giảm khối lượng sản xuất chỉ còn 12,5%.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Về các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất tập trung nhất là nhu cầu thị trường trong nước thấp (có đến 71,88% số doanh nghiệp ảnh hưởng bởi yếu tố này và có 32,14% số doanh nghiệp cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất); tiếp đến là tình trạng thiếu nguyên liệu cho sản xuất cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất của các doanh nghiệp, nhất là các nguyên liệu có tính thời vụ (có 50,0% số doanh nghiệp ảnh hưởng bởi yếu tố này và cũng có đến 21,43% số doanh nghiệp cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất), tính cạnh tranh của hàng trong nước cao cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp (có đến 40,63% số doanh nghiệp ảnh hưởng bởi yếu tố này và 7,11% số doanh nghiệp cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất); Lãi suất vay vốn cao dẫn đến tình trạng khó khăn về tài chính cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất của các doanh nghiệp (có 40,63% số doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi yếu tố này). Ngoài các yếu tố chủ yếu trên, trong quý diễn biến phức tạp của dịch bệnh cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp (có đến 31,25% số doanh nghiệp ảnh hưởng bởi yếu tố này và 21,43% số doanh nghiệp cho rằng đây là yếu tố quan trọng nhất); thiết bị công nghệ lạc hậu, yếu tố lao động… cũng ảnh hưởng đến tình hình sản xuất tuy nhiên mức độ ảnh hưởng không lớn, số doanh nghiệp bị ảnh hưởng không nhiều và đều là các yếu tố không quyết định.
Nhìn chung, tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 9 tháng năm 2021 có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước. Đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo các doanh nghiệp sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên các đơn vị vẫn duy trì được hoạt động sản xuất tương đối ổn định, đến các tháng cuối quý tình hình đã bớt khó khăn, các doanh nghiệp đã tập trung vào sản xuất. Qua kết quả điều tra xu hướng kinh sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng đánh giá tổng thể được tình hình sản xuất trên địa bàn tỉnh.
8. Thương mại, dịch vụ
8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Tình hình thị trường và giá cả hàng hóa trong 9 tháng đầu năm 2021 cơ bản ổn định, lượng hàng hóa dồi dào nhằm sẵn sàng ứng phó với các tình huống dịch Covid-19 có thể xảy ra. Hoạt động thương mại được duy trì ổn định, không có hiện tượng đứt gãy, đình trệ trong lưu thông hàng hóa. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 9 năm 2021 ước đạt 1.986,39 tỷ đồng, tăng 3,43% so với tháng trước và giảm 1,08% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, ước tính đạt 17.778,897 tỷ đồng, tăng 10,12% so với cùng kỳ năm trước.
a) Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 9 năm 2021 đạt 1.986,388 tỷ đồng, tăng 3,43% so với tháng trước và giảm 1,08% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 1.720,056 tỷ đồng, chiếm 86,59% trong tổng số, tăng 3,35% so với tháng trước và giảm 0,26% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 163,968 tỷ đồng, chiếm 8,25% trong tổng số, tăng 5,35% so với tháng trước và giảm 11,01% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 102,364 tỷ đồng, chiếm 5,15% trong tổng số, tăng 1,84% so với tháng trước và tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính tháng 9 năm 2021 tăng so với tháng trước là do các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ khác được phép hoạt động nhưng phải thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch Covid-19 theo Công văn 3916/CV-BCĐ của Ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 tỉnh Kon Tum ngày 19 tháng 8 năm 2021 về việc đảm bảo thực hiện “mục tiêu kép” trong phòng chống dịch Covid-19.
b) Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quý III năm 2021 ước tính đạt 5.870,606 tỷ đồng, giảm 2,13% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 5.091,107 tỷ đồng, chiếm 86,72% trong tổng số, giảm 1,42% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 473,485 tỷ đồng, chiếm 8,07% trong tổng số, giảm 14,51% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 306,014 tỷ đồng, chiếm 5,21% trong tổng số, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước.
c) Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 17.778,897 tỷ đồng, tăng 10,12% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 15.357,881 tỷ đồng, chiếm 86,38% trong tổng số, tăng 9,91% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 1.462,851 tỷ đồng, chiếm 8,23% trong tổng số, tăng 5,92% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 958,166 tỷ đồng, chiếm 5,39% trong tổng số tăng 21,14% so với cùng kỳ năm trước.
Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 bùng phát trở lại từ cuối tháng 4 năm 2021 đến nay, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Kon Tum phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, tuy nhiên được sự giám sát, chỉ đạo điều hành quyết liệt của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự nỗ lực của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh Kon Tum, đến nay tỉnh Kon Tum chưa ghi nhận trường hợp mắc COVID-19 trong cộng đồng nên đã thực hiện tốt “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội; Một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại đang triển khai nhiều chương trình ưu đãi, khuyến mại, giảm giá nhằm kích cầu mua sắm, thu hút người tiêu dùng, và giá cả các mặt hàng tương đối ổn định, phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng, làm cho tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn trong 9 tháng năm 2021 ước tính tăng so với cùng kỳ năm trước.
8.2. Vận tải
Diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 tác động trực tiếp tới hoạt động vận tải. Tình hình dịch bệnh kéo dài và lây lan nhanh, người dân lo ngại lây nhiễm dịch bệnh nên hạn chế đi lại, do đó hoạt động vận tải hành khách giảm mạnh; vận tải hàng hóa hoạt động bình thường, tuy nhiên cũng ảnh hưởng do nhiều cung đường đến các vùng dịch phải ngưng vận chuyển và cước phí vận tải hàng hóa tăng do chi phí xét nghiệm các lái xe và chi phí tiêu hao nhiên liệu trong thời gian chờ đợi làm thủ tục xét nghiệm và phải phụ thu chiều ngược lại.
a) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 9 năm 2021:
+ Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 9 năm 2021 đạt 78.439,3 triệu đồng, cụ thể như sau:
+ Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 13.948,4 triệu đồng, so với tháng trước tăng 28,25%; Vận chuyển ước đạt 225,3 nghìn lượt khách, tăng 5,02%; Luân chuyển ước đạt 30.051,66 nghìn lượt khách.km, tăng 6,04%. So với tháng trước
+ Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 64.037,9 triệu đồng, so với tháng trước tăng 7,91%; Vận chuyển ước đạt 734,34 nghìn tấn, tăng 6,08%; Luân chuyển ước đạt 37.810,32 nghìn tấn.km, tăng 5,47% so với tháng trước.
+ Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 453 triệu đồng, tăng 2,49% so với tháng trước.
Hoạt động vận chuyển hành khách và hàng hóa tăng so với tháng trước nguyên nhân chủ yếu là có một số địa phương dự kiến nới lỏng giản cách xã hội phòng chống dịch Covid-19 sau ngày 15/9/2021 do đó hoạt động vận chuyển hành khách và hàng hóa liên tỉnh tăng, bên cạnh đó vận chuyển hàng hóa phục vụ ngành xây dựng nội tỉnh tăng.
b) Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính quý III năm 2021 đạt 226.378,4 triệu đồng, giảm 52,21% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
+ Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 38.629,5 triệu đồng, giảm 76,45%; Vận chuyển ước đạt 702,5 nghìn lượt khách, giảm 76,86%; Luân chuyển ước đạt 92.884,9 nghìn lượt khách.km, giảm 75,77%.
+ Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 186.317,9 triệu đồng, giảm 39,43%; Vận chuyển ước đạt 2.158,3 nghìn tấn, giảm 37,48%; Luân chuyển ước đạt 111.358,4 nghìn tấn.km, giảm 35,69%.
+ Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1.431,0 triệu đồng, giảm 32,2%.
c) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính 9 tháng năm 2021:
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính 9 tháng năm 2021 đạt 1.148.388,6 triệu đồng, giảm 12,52% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 334.913,4 triệu đồng, giảm 29,77%; Vận chuyển ước đạt 6.218,97 nghìn lượt khách, giảm 28,35%; Luân chuyển ước đạt 803.619,83 nghìn lượt khách.km, giảm 27,12%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 807.521,2 triệu đồng, giảm 2,69%; Vận chuyển ước đạt 9.157,78 nghìn tấn, giảm 2,22%; Luân chuyển ước đạt 466.774,51 nghìn tấn.km, giảm 1,52%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 5.954 triệu đồng, giảm 2,6%.
9. Thông tin về tình hình kinh tế thế giới
Tình hình kinh tế thế giới khá khởi sắc trong 9 tháng năm 2021 khi triển khai tiêm phòng vắc-xin nhanh chóng đã giúp giảm nhanh số ca lây nhiễm tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tăng trưởng của các nền kinh tế cho thấy sự khác biệt do tốc độ triển khai vắc-xin và hỗ trợ chính sách khác nhau ở các quốc gia. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) giữ nguyên dự báo kinh tế toàn cầu, với mức tăng trưởng 6,0% năm 2021. Tuy nhiên, một số tổ chức điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 đạt 5,7%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 5/2021. Fitch Ratings dự báo GDP thế giới sẽ tăng 6,0% vào năm 2021, điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo của tổ chức này trong tháng 6/2021.
Đối với các nền kinh tế phát triển và mới nổi, OECD dự báo GDP của Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Nhật Bản và Trung Quốc trong năm 2021 tăng lần lượt là 6,0% (giảm 0,9 điểm phần trăm), 5,3% (tăng 1,0 điểm phần trăm), 2,5% (giảm 0,1 điểm phần trăm) và 8,5% (không đổi). So với thời điểm tháng 4/2021, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) giảm dự báo tăng trưởng năm 2021 của Hoa Kỳ, Nhật Bản lần lượt từ 6,5% xuống 6,0% và từ 2,9% xuống 2,2%, trong khi giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Trung Quốc (8,1%) và nâng dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro từ 4,3% lên 4,6%.
Tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á (gồm cả Đông Ti-mo) được ADB dự báo ở mức 3,1% trong năm 2021, giảm so với mức 4,4% đưa ra vào tháng 4/2021. Trong đó, ADB giảm dự báo tăng trưởng năm 2021 của hầu hết các nền kinh tế trong khu vực Đông Nam Á như In-đô-nê-xi-a (từ 4,5 xuống 3,5%), Ma-lai-xi-a (từ 6,0 xuống 4,7%), Thái Lan (từ 3,0% xuống 0,8%) và Việt Nam (từ 6,7% xuống 3,8%); không thay đổi dự báo của Phi-li-pin (4,5%); duy chỉ có Xin-ga-po được dự báo tăng so với báo cáo trước đây (từ 6,0% lên 6,5%).
10. Các vấn đề xã hội
10.1. Đời sống dân cư
Nhìn chung 9 tháng năm 2021, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định, phát triển và đạt được nhiều kết quả: thương mại, dịch vụ đảm bảo theo kế hoạch; các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng, an sinh xã hội và giảm nghèo được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định; công tác phòng chống dịch Covid-19 được triển khai chủ động, quyết liệt, hiệu quả, việc chưa để xảy ra ca nhiễm bệnh trong cộng đồng là nền tảng để ổn định tình hình đời sống dân cư trên địa bàn; cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp triển khai nghiêm túc, an toàn, dân chủ, đúng pháp luật; kỷ luật, kỷ cương hành chính được chú trọng; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Tình hình đời sống dân cư trên địa bàn tương đối ổn định, giá cả thị trường của một số mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm trong dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021 tuy có tăng nhẹ nhưng không có hiện tượng tăng giá đột biến và đã ổn định dần trở lại, đáp ứng nhu cầu mua sắm của người dân trên địa bàn.
Tuy nhiên, tình hình diễn biến hết sức phức tạp của dịch bệnh Covid-19 trên cả nước, nhất là đợt bùng phát dịch từ tháng 4 và hiện vẫn đang tiếp diễn đã tác động không nhỏ đến đời sống dân cư. Lũy tích đến ngày 15/9/2021, tỉnh Kon Tum ghi nhận 27 ca mắc, chưa ghi nhận trường hợp mắc Covid - 19 trong cộng đồng.
Năm học 2020-2021 vừa qua là một năm học đặc biệt, ngành Giáo dục chịu ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch COVID-19, nhưng bằng sự quyết tâm, đồng thuận của toàn xã hội, ngành Giáo dục đã chủ động, nhanh chóng triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các giải pháp, thực hiện thành công mục tiêu “kép”: vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa đảm bảo hoàn thành kế hoạch năm học.
Năm học mới 2021 - 2022 bắt đầu trong tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, vì vậy Lễ Khai giảng năm học 2021-2022 được Ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh tổ chức qua kênh truyền hình để bắt đầu Năm học mới. Ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh đã triển khai nhiều hình thức học tập như học trực tuyến, học trên truyền hình... với phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng học”, phấn đấu hoàn thành mục tiêu chất lượng giáo dục.
Đánh giá chung, dịch Covid-19 trong nước bùng phát trở lại vào cuối tháng 01 và bùng phát mạnh trên diện rộng vào tháng 4 năm 2021 tại nhiều tỉnh trên cả nước, vì vậy đã có những ảnh hưởng nhất định đến tình hình đời sống dân cư và các hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, dịch vụ ăn uống, lưu trú … Tuy nhiên, Kon Tum là một trong số ít những tỉnh chưa có dịch trong cộng đồng, đời sống dân cư và các hoạt động sản xuất tương đối ổn định; giá cả các mặt hàng thiết yếu tăng nhẹ, chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu nhưng không đột biến; việc vui xuân, đón Tết của Nhân dân trên địa bàn tỉnh diễn ra đầm ấm, vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm, không có trường hợp nào đói và không có Tết, đồng thời đảm bảo thực hiện nghiêm túc quy định về phòng, chống dịch Covid-19; hoạt động cung ứng hàng hóa, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, cung cấp điện cho sản xuất, sinh hoạt, tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí, chính sách, an sinh xã hội... được thực hiện tốt. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn ổn định, không có vụ việc phức tạp xảy ra.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, còn có một số hạn chế và khó khăn tác động đến đời sống dân cư như: Dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn chưa được kiểm soát triệt để, dịch viêm da nổi cục trâu, bò đang có nguy cơ lây lan trên địa bàn tỉnh; thiên tai như nắng hạn, mưa giông, gió lốc, bão số 5 tiếp tục gây thiệt hại đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và đời sống của Nhân dân.
a) Thực trạng đời sống cán bộ, công nhân viên chức, người lao động hưởng lương và giải quyết việc làm
- Đời sống cán bộ, công nhân viên chức, người lao động hưởng lương
Trước tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, nhất là đang lan rộng tại các tỉnh thành giáp và liên quan với tỉnh ta, đã tác động đến các lĩnh vực như: vận tải hành khách liên tỉnh; các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao đã bị hủy hoặc tạm dừng tổ chức đã ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty lữ hành, cơ sở lưu trú, các điểm tham quan du lịch, do đó đã tác động trực tiếp đến đời sống và thu nhập của một bộ phận nhỏ người lao động trong một số ngành, lĩnh vực hoạt động kinh tế ...
Tuy nhiên, với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành, đơn vị, địa phương trong toàn tỉnh đã tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhiều nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống dịch với tinh thần “chống dịch như chống giặc”; tập trung thực hiện “nhiệm vụ kép” vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội nhằm nỗ lực phấn đấu thực hiện đến mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn cơ bản đã được kiểm soát, các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp hoạt động bình thường trở lại đã thu hút lực lượng lao động trở lại làm việc.
Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ, tính đến ngày 29/8/2021, toàn tỉnh đã thực hiện hỗ trợ cho 875 doanh nghiệp (với 16.054 lao động) và hỗ trợ trực tiếp cho 322 lao động với tổng kinh phí đã hỗ trợ trên 5.776 triệu đồng. Cung cấp thông tin người lao động ngoại tỉnh đang làm việc tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Kon Tum gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh: Bến Tre, Cao Bằng, Phú Thọ, Bình Định.
Những tác động từ dịch Covid - 19 đã ảnh hưởng cục bộ đến đời sống và thu nhập của một bộ phận người lao động trong một số ngành, lĩnh vực hoạt động kinh tế, nhưng theo đánh giá chung đời sống cán bộ, công nhân viên chức, người lao động hưởng lương mức độ ảnh hưởng là không lớn; tình hình lao động, việc làm tuy có ảnh hưởng nhưng tương đối ổn định; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức thấp.
- Giải quyết việc làm
Tình hình diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 trên cả nước và thế giới làm ảnh hướng đáng kể đến hoạt động cung ứng lao động, giải quyết việc làm. Có 2.800 lao động được giải quyết việc làm mới trong 8 tháng năm 2021. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp được triển khai tích cực, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội so với lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước đạt 17,53%, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm thất nghiệp ước đạt 11,82%.
Trong tháng 4 đã tổ chức thành công Ngày việc làm và Khởi nghiệp năm 2021 tại Trung tâm dịch vụ việc làm, thu hút hơn trên 50 doanh nghiệp đăng ký tuyển dụng lao động với hơn 3.000 vị trí việc làm trống và 02 Trường Cao đẳng tuyển sinh đào tạo, dạy nghề với trên 2.000 chỉ tiêu. Tính đến nay, tổng số lao động tạo việc làm thông qua chương trình việc làm là 2.141 lao động, đạt 129,7% kế hoạch năm; cung ứng thông qua Trung tâm Dịch vụ việc làm là 496 lao động; xuất khẩu lao động là 45 lao động (Nhật Bản 26 lao động, Đài Loan 19 lao động); Quỹ Giải quyết việc làm thông qua nguồn vốn vay Quỹ quốc gia về việc làm 1.600 lao động.
Triển khai tư vấn, giới thiệu việc làm cho thanh niên có nhu cầu tìm việc làm tại xã Mô Rai, huyện Sa Thầy.
- Kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19
Chính sách do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì: Chính sách Hỗ trợ người lao động chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hướng trợ cấp thất nghiệp: UBND tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho 34 lao động, 23 trẻ em với tổng kinh phí 149,14 triệu đồng.
Chính sách do UBND các huyện, thành phố chủ trì: Chính sách Hỗ trợ người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc nghỉ việc không hưởng lương: UBND tỉnh đã phê duyệt: 94 lao động (trong đó: 13 lao động nghỉ từ 15 đến dưới 30 ngày; 81 lao động nghỉ trên 30 ngày), 01 lao động mang thai, 54 trẻ em với tổng kinh phí 379,625 triệu đồng; Thành phố Kon Tum đã trình UBND tỉnh xem xét phê duyệt cho 14 lao động, 11 trẻ em với tổng kinh phí đề nghị là 62,94 triệu đồng; Chính sách Hỗ trợ đối với trẻ em và người đang điều trị Covid-19, cách ly y tế: UBND tỉnh đã phê duyệt 02 trường hợp F1, với tổng số tiền 2,24 triệu đồng.
Chính sách do Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch chủ trì: Chính sách Hỗ trợ
viên chức hoạt động nghệ thuật và người lao động là hướng dẫn viên du lịch: UBND tỉnh đã phê duyệt 02 hướng dẫn viên du lịch với kinh phí 7,42 triệu
đồng; Hỗ trợ viên chức hoạt động nghệ thuật: đã trình UBND tỉnh 21 người, với
kinh phí 77,91 triệu đồng.
Chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh chủ trì: Chính sách Hỗ
trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi
sản xuất Chi nhánh NHCSXH tỉnh đã tiếp nhận 01 hồ sơ của 01 doanh nghiệp đề nghị vay vốn để trả lương ngừng việc cho 07 lao động với 22 triệu đồng.
b) Thực trạng đời sống dân cư nông thôn
Ngay sau Tết nguyên đán trên cơ sở kế hoạch ra quân phát động phong trào xây dựng nông thôn mới, trồng cây xanh gắn với chỉnh trang khu dân cư nông thôn, đô thị trên địa bàn tỉnh; UBND các huyện, thành phố đã chỉ đạo các xã lựa chọn công trình, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, huy động nhân lực của địa phương để đồng loạt ra quân xây dựng nông thôn mới, với sự tham gia hưởng ứng của các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp và người dân trên địa bàn tỉnh cùng sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự nỗ lực của các Sở, ngành, trong quá trình thực hiện đã đạt được những thành quả nhất định như: hạ tầng nông thôn được cải thiện rõ rệt; diện mạo nông thôn đã có sự chuyển biến tích cực; nhận thức của người dân về xây dựng nông thôn mới đã có những thay đổi, nhờ đó phong trào xây dựng nông thôn mới đã trở thành một phong trào thi đua sâu rộng trong toàn dân, được Nhân dân ủng hộ và đồng lòng triển khai thực hiện; đời sống của người dân nông thôn đã được cải thiện đáng kể, thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng; Chương trình mục tiêu Quốc gia nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, đến nay toàn tỉnh đã có 29 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Tình hình kinh tế - xã hội của các xã đạt chuẩn nông thôn mới ngày càng khởi sắc và theo hướng phát triển bền vững, giá trị sản lượng nông nghiệp của toàn tỉnh liên tục tăng, chủng loại cây trồng, vật nuôi đa dạng hơn, nhiều sản phẩm nông nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận người dân thuộc khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh dần được cải thiện đáng kể. Song, kinh tế ở nông thôn vẫn là khu vực chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn mang nặng tính chất của nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự cung tự cấp, nguồn lực lao động, tài nguyên khai thác, sử dụng còn hạn chế. Thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với khu vực thành thị, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều hộ gia đình ở nông thôn tuy đã thoát khỏi hộ nghèo, nhưng thực tế thu nhập chỉ cao hơn mức chuẩn nghèo không đáng kể. Người nông dân chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các thành tựu khoa học phát triển, các dịch vụ cơ bản như: vệ sinh, môi trường, y tế, giáo dục... Hệ thống hạ tầng nông thôn còn lạc hậu, chất lượng tương đối thấp.
Ngành Y tế đã tổ chức tốt việc phân công cán bộ, nhân viên y tế công tác phòng, chống dịch bệnh và khám, chữa bệnh trong dịp Tết. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các cơ sở kinh doanh, chế biến thực phẩm. Nhìn chung, trong dịp Tết đảm bảo đủ cơ số thuốc, vật tư y tế và các trang thiết bị y tế phục vụ tốt cho hoạt động khám, chữa bệnh tại các bệnh viện và các cơ sở khám chữa bệnh.
Công tác đào tạo nghề được quan tâm, đặc biệt là công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn được triển khai đúng hướng, phù hợp với nhu cầu tạo nguồn lao động cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần quan trọng vào mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục duy trì đào tạo các lớp trung cấp nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, theo Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, với mục tiêu đào tạo phải gắn với quy hoạch sản xuất, quy hoạch xây dựng nông thôn mới và phải gắn với nhu cầu của nhà tuyển dụng. Đối với người lao động sau học nghề đã áp dụng và phát triển nhiều mô hình kinh tế bền vững, có hiệu quả cao như: trồng cao su, cà phê, bời lời, chăn nuôi gia súc, gia cầm... Sau học nghề người lao động có cơ hội tự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, tự tạo việc làm tại chỗ thông qua canh tác, sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi phục vụ cho việc phát triển kinh tế hộ gia đình. Ngoài ra, thông qua công tác tư vấn giới thiệu việc làm người lao động được giới thiệu đến làm việc tại các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
c) An sinh xã hội
- Công tác giảm nghèo
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bền vững là chủ trương lớn của Đảng, là nhiệm vụ trọng tâm vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài của cả hệ thống chính trị và Nhân dân nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của các hộ nghèo, tạo cho hộ nghèo có cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản.
Công tác giảm nghèo tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện để đảm bảo mục tiêu tỷ lệ hộ nghèo giảm ít nhất khoảng 3-4% trong năm 2021. Đã triển khai thực hiện đầy đủ kịp thời các chính sách, dự án cho hộ nghèo, hộ cận nghèo thực hiện đầy đủ chính sách cứu trợ xã hội (cứu trợ thường xuyên, cứu trợ đột xuất) cho các đối tượng đủ điều kiện, bảo đảm an sinh xã hội, không có người dân nào bị đói, rét. Triển khai lồng ghép thực hiện các chính sách, dự án của Đề án giảm nghèo tỉnh Kon Tum.
Qua kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2020, tổng số hộ nghèo chung là 14.601 hộ (tỷ lệ 10,29%), số hộ thoát nghèo năm 2020 là 5.493 hộ (giảm 3,97%).
- Bảo trợ xã hội
Nhân dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021, để Nhân dân trên toàn tỉnh đón Tết vui tươi, an toàn, lành mạnh và tiết kiệm, nhất là những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng chính sách. Các cơ quan, đơn vị, địa phương đã quan tâm, tổ chức thăm hỏi, động viên và tặng quà cho người nghèo, gia đình chính sách, người cao tuổi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và những đối tượng yếu thế… để tất cả mọi người, mọi nhà đều đón Tết cổ truyền của dân tộc trong không khí vui tươi, đầm ấm, bảo đảm an sinh xã hội, cụ thể như sau:
Chúc tết các đối tượng bảo trợ xã hội 2.804 người với số tiền 1.230 triệu đồng; thăm, chúc thọ, mừng thọ 249 người cao tuổi với số tiền 251,6 triệu đồng.
Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố đã chủ động ngân sách và vận động xã hội hóa để hỗ trợ cho 2.002 hộ/6.700 khẩu với 100.500 kg gạo; cấp phát 91.350 kg gạo do Chính phủ hỗ trợ cho 1.660 hộ/6.090 khẩu.
Ủy ban nhân dân một số huyện đã chủ động ngân sách để hỗ trợ chăn đắp, áo ấm cứu rét cho 2.662 hộ/10.048 khẩu với tổng kinh phí 1.300 triệu đồng.
Thăm, tặng quà cho 2.804 đối tượng bảo trợ xã hội với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.200 triệu đồng. Thăm, tặng quà cho 7.542 trẻ em với tổng kinh phí hỗ trợ là 1.700 triệu đồng. Thăm và gửi Thiệp mừng thọ của Chủ tịch nước đến 25 người cao tuổi tròn 100 tuổi với tổng kinh phí là 50 triệu đồng; thăm và gửi Giấy chúc thọ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cho 224 người cao tuổi tròn 90 tuổi với tổng kinh phí là 201 triệu đồng; đồng thời, tổ chức chúc thọ, mừng thọ cho người cao tuổi thọ 70, 75, 80, 85, 95 và trên 100 tuổi.
Các cấp, các ngành, các doanh nghiệp đã triển khai hoạt động từ thiện, thăm, tặng quà, tổ chức Ngày hội bánh chưng xanh đảm bảo kịp thời, hiệu quả, ý nghĩa với tổng kinh phí hỗ trợ là 11.200 triệu đồng. Các cơ quan kết nghĩa xây dựng xã của tỉnh, huyện, các cơ quan, đơn vị, trường học trên địa bàn các xã đã cử cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ xuống các thôn cùng tham gia Ngày hội. Đồng thời, triển khai chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh về phòng, chống dịch bệnh Covid-19, các địa phương tổ chức gói, nấu và trao tặng bánh cho người dân theo từng nhóm nhỏ (không quá 20 người/nhóm), không tổ chức phần hội và thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19 trong quá trình tổ chức.
Quỹ bảo trợ trẻ em phối hợp với Công ty Bảo Việt Nhân thọ phân bổ, lựa chọn đối tượng trao tặng xe đạp đến trường năm 2021 và thực hiện phân bổ 40 chiếc xe đạp do Công ty Bảo Việt Nhân thọ hỗ trợ cho 08 đơn vị; Tiếp tục hỗ trợ gia đình có chỉ định phẫu thuật tim bẩm sinh làm hồ sơ; Phối hợp với Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng kiểm tra hồ sơ kết nối các nhà tài trợ hỗ trợ kinh phí mỗ tim miễn phí cho đối tượng trẻ em.
Tiếp nhận và phân bổ 69,705 tấn gạo từ nguồn gạo hỗ trợ của Chính phủ cho các địa phương để hỗ trợ cho Nhân dân có nguy cơ thiếu đói trong thời gian giáp hạt đầu năm 2021, cụ thể: Huyện Đăk Hà 21,060 tấn gạo (hỗ trợ cho 369 hộ/1.404 khẩu); huyện Đăk Glei 29,580 tấn gạo (hỗ trợ cho 640 hộ/ 1.972 khẩu); huyện Kon Rẫy 19,065 tấn gạo (hỗ trợ cho 366 hộ/1.271 khẩu).
Triển khai thực hiện công tác phòng chống thiên tai, ảnh hưởng rủi ro do thiên tai xảy ra đối với đối tượng BTXH trong cộng đồng và trong các cơ sở trợ giúp xã hội theo hướng dẫn của Cục Bảo trợ xã hội và Kế hoạch phòng chống thiên tai tỉnh.
- Thực hiện chính sách với người có công
Các cấp, các ngành đã thăm, tặng 10.620 suất quà trị giá 2.872,5 triệu đồng cho người có công với cách mạng, trong đó: Quà của Chủ tịch nước là 1.595,4 triệu đồng, quà từ ngân sách cấp tỉnh 47 triệu đồng, quà từ ngân sách cấp huyện/thành phố là 881,56 triệu đồng, quà của xã/phường là 18,95 triệu đồng, quà xã hội hóa (của cá nhân, doanh nghiệp) là 181,1 triệu đồng.
Triển khai các hoạt động kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2021): Tổ chức Lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh; thăm hỏi, tặng 4.532 suất quà cho người có công được với kinh phí tặng quà là 1.373 triệu đồng cho người có công.
10.2. Tình hình ANTT – ATGT
a) Tình hình ANTT – ATGT tháng 8 và 8 tháng năm 2021
Tội phạm và VPPL về trật tự xã hội (TTXH): 8 tháng năm 2021 phát hiện 317 vụ. Trong tháng 8 phát hiện 45 vụ, tăng 13 vụ so cùng kỳ năm 2020 và 08 vụ so với tháng trước, trong đó: giết người 01 vụ; cố ý gây thương tích 03 vụ; hiếp dâm người dưới 16 tuổi 01 vụ; giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi 01 vụ; cướp giật tài sản 01 vụ; trộm cắp tài sản 23 vụ; lừa đảo chiếm đoạt tài sản 05 vụ; cố ý làm hư hỏng tài sản 01 vụ; đánh bạc 02 vụ; làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức 01 vụ; vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 05 vụ; vô ý làm chết người 01 vụ. Thiệt hại: chết 01 người, 03 người bị thương, mất 08 mô tô, 400 triệu đồng tiền mặt và một số tài sản trị giá khoảng 50 triệu đồng.
Tội phạm và VPPL về kinh tế: 8 tháng năm 2021 phát hiện 27 vụ. Trong tháng 8 phát hiện 05 vụ, gồm: Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản 03 vụ; cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự 01 vụ; giả mạo trong công tác 01 vụ.
Tội phạm và VPPL về môi trường: 8 tháng năm 2021 phát hiện 8 vụ. Trong tháng 8 không phát hiện.
Tội phạm và VPPL về ma túy: 8 tháng năm 2021 phát hiện 81 vụ. Trong tháng 8 phát hiện 10 vụ, trong đó: Tàng trữ trái phép chất ma túy 05 vụ; tàng trữ + mua bán trái phép chất ma túy 01 vụ; mua bán trái phép chất ma túy 02 vụ; tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ; vận chuyển trái phép chất ma túy 01 vụ. Thu giữ 4,9579 gram Methamphetamine, 0,575 gram Heroin.
Tình hình trật tự an toàn giao thông: 8 tháng năm 2021 phát hiện 45 vụ. Trong tháng 8 phát hiện Xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông. Hậu quả chết 05 người, bị thương 02 người, hư hỏng 01 ô tô, 07 mô tô.
b) Tình hình cháy, nổ
Trong 8 tháng năm 2021 xảy ra 14 vụ. Tháng 8 xảy ra 01 vụ cháy trên địa bàn thành phố Kon Tum. Thiệt hại 33,5 triệu đồng, nguyên nhân do sự cố hệ thống, thiết bị điện.
10.3. Tình hình giáo dục
Năm học mới 2021 - 2022 bắt đầu trong tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, vì vậy Lễ Khai giảng năm học 2021-2022 được Ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh tổ chức qua kênh truyền hình để bắt đầu Năm học mới. Ngành Giáo dục - Đào tạo tỉnh đã triển khai nhiều hình thức học tập như học trực tuyến, học trên truyền hình... với phương châm “tạm dừng đến trường, không dừng học”, phấn đấu hoàn thành mục tiêu chất lượng giáo dục.
10.4. Vi phạm môi trường
Trong 8 tháng năm 2021 phát hiện 11 vụ.
10.5. Văn hóa - Thể dục thể thao
Các di tích lịch sử cách mạng, văn hóa và danh thắng tiếp tục được bảo tồn, khôi phục. Hoạt động tuyên truyền các sự kiện, ngày lễ trong năm được thực hiện thường xuyên và phù hợp với điều kiện phòng, chống dịch Covid-19. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đạt được những kết quả tích cực; ước thực hiện 9 tháng đầu năm, tỷ lệ xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa (55%) và tỷ lệ thôn, làng, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa (84%) đều đạt và vượt kế hoạch. Thể thao thành tích cao được tập trung phát triển. Phong trào tập luyện thể dục của quần chúng Nhân dân trên địa bàn tỉnh có chiều hướng giảm do phải thực hiện các quy định về phòng, chống Covid-19.
10.6. Y tế
a) Tình hình dịch bệnh
Bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19): Trong tháng, không ghi nhận ổ dịch và không có tử vong; ghi nhận 11 ca mắc mới, giảm 03 ca so với tháng trước. Lũy tích đến ngày 22/9/2021, ghi nhận 29 ca mắc, chưa ghi nhận trường hợp mắc Covid-19 trong cộng đồng, trong đó xuất viện 11 và đang điều trị 16 ca. Bên cạnh đó, hưởng hứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tỉnh Kon Tum đã thành lập Đoàn công tác hỗ trợ tỉnh Bình Dương phòng chống dịch Covid - 19 với số lượng 30 cán bộ y tế (10 bác sĩ và 20 Điều dưỡng).
Tay - chân - miệng: Trong tháng, ghi nhận 02 ca mắc mới (Đăk Glei 01, Đăk Hà 01), giảm 04 ca so với tháng trước và bằng so với tháng 08/2020. Lũy tích đến 31/8/2021, không có tử vong, ghi nhận 59 ca mắc, tăng 42 ca so với cùng kỳ năm trước.
Thủy đậu: Trong tháng, ghi nhận 10 ca mắc (thành phố Kon Tum 02, Đăk Glei 03, Kon Plông 02, Sa Thầy 03), giảm 02 ca so với tháng trước và tăng 04 ca so với tháng 08/2020. Lũy tích đến 31/8/2021, không có tử vong, ghi nhận 249 ca, giảm 90 ca so với cùng kỳ năm trước.
Quai bị: Trong tháng, ghi nhận 08 ca mắc (Đăk Tô 01, Đăk Glei 01, Tu Mơ Rông 04, Kon Rẫy 01, Ia H’Drai 01), tăng 02 ca so với tháng trước và tăng 04 ca so với tháng 08/2020. Lũy tích đến 31/8/2021, không có tử vong, ghi nhận 48 ca mắc, giảm 37 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng,ghi nhận 30 ổ dịch mới, 93 ca mắc mới (thành phố Kon Tum 12, Đăk Hà 30, Đăk Tô 19, Ngọc Hồi 20, Đăk Glei 04, Sa Thầy 08), giảm 87 ca so với tháng trước và giảm 275 ca so với tháng 08/2020. Lũy tích đến 31/8/2021, không có tử vong, ghi nhận 467 ca mắc, giảm 427 ca so với cùng kỳ năm trước.
Sốt rét: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc mới. Lũy tích đến 31/8/2021, không có tử vong, ghi nhận 03 ca mắc (Đăk Hà 01, Sa Thầy 01, Ia H’Drai 01), giảm 20 ca so với cùng kỳ năm trước.
Viêm não Nhật Bản: Trong tháng, không ghi nhận ca mắc. Lũy tích đến 31/8/2021, không có tử vong, ghi nhận 01 ca mắc tại huyện Sa Thầy, tăng 01 ca so với cùng kỳ năm trước.
Trong 8 tháng đầu năm 2021, không ghi nhận mắc mới các bệnh: Cúm A (H5N1, H7N9...), hội chứng viêm đường hô hấp vùng Trung Đông do vi rút Corona (MERS-CoV), cúm A(H1N1), bệnh do vi rút Zika, viêm gan vi rút A, bạch hầu, dại, ho gà, sởi.
Phòng chống lao, phong: Tổng số bệnh nhân lao đăng ký điều trị 27 người, trong đó lao phổi AFB (+) 17. Tổng số bệnh nhân phong đang quản lý 180 người (đa hóa trị liệu 04, giám sát 21 và chăm sóc tàn tật 155 người).
b) Phòng chống HIV/AIDS
Trong tháng, ghi nhận 02 ca nhiễm HIV mới, bằng so với tháng trước. Lũy tích đến ngày 31/8/2021, tổng số nhiễm HIV/AIDS 531người, trong đó tử vong 195 người và còn sống 336 người (quản lý được 178). Tổng số bệnh nhân đang được điều trị ARV 140 người (có 08 trẻ em), đang điều trị dự phòng lao bằng Isoniazid 18 người.
c) An toàn vệ sinh thực phẩm
Tiếp tục triển khai các hoạt động truyền thông phòng, chống ngộ độc thực phẩm tại các thôn, làng. Giám sát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm đợt 2 năm 2021 (test nhanh 50 mẫu với 99 test, kết quả đều âm tính; gửi kiểm nghiệm 27 mẫu thực phẩm, kết quả 100% mẫu đạt chỉ tiêu vi sinh); tiếp tục giám sát bảo đảm an toàn thực phẩm tại các khu cách ly tập trung trên địa bàn tỉnh phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19. Tập huấn các quy định của pháp luật và kiến thức về an toàn thực phẩm cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, kinh doanh thực phẩm (136 người tham dự).
Tình hình ngộ độc thực phẩm: Trong tháng 8 năm 2021 xảy ra 05 trường hợp ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ do ăn uống không bảo đảm vệ sinh./.
[1] Tính đến hết ngày 20-9-2021, toàn tỉnh thành lập mới 233 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký trên 5.591 tỷ đồng.
[2] Số liệu tính đến ngày 31-8-2021.
File đính kèm: Bao_cao_so_lieu_thang_9.2021_tinh_Kon_Tum.pdf
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum