Trong năm 2022, với sự chỉ đạo sát sao, có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của Tỉnh ủy, sự điều hành quyết liệt, chủ động, sáng tạo của UBND tỉnh, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và Nhân dân trong tỉnh, dịch bệnh được kiểm soát tốt, sản xuất kinh doanh được phục hồi, tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh tiếp tục có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 13,94%, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 15,22%, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 19,95%, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 26,30%. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Năm 2022, tình hình kinh tế của tỉnh có bước phát triển vượt bậc so với năm trước, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 13,94%, xếp thứ nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long và thứ tư cả nước. Các khu vực kinh tế đều có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ. Cụ thể: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,82%[1], đóng góp 1,06 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng rất cao với mức tăng 36,55%[2], đóng góp 8,77 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 8,84%[3], đóng góp 3,38 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 7,33%, đóng góp 0,74 điểm phần trăm.
Quy mô nền kinh tế ước đạt 48.062,50 tỷ đồng (theo giá hiện hành). Về cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực giữa các khu vực kinh tế so với cùng kỳ: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 24,06%, có mức chuyển dịch giảm 3%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng 29,95%, có mức chuyển dịch tăng 6,63%; khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 36,86%, có mức chuyển dịch giảm 2,97%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm tỷ trọng 9,14% và có mức chuyển dịch giảm 0,65%. (Năm 2021 cơ cấu kinh tế lần lượt là: 27,06%; 23,32%; 39,83%; 9,79%).
GRDP bình quân đầu người cả năm 2022 ước đạt 65,89 triệu đồng/người/năm, tăng 11,63 triệu đồng/người so với năm 2021.
2. Tài chính, tín dụng
2.1. Tài chính
Ước tổng thu ngân sách địa phương năm 2022 được 12.973,57 tỷ đồng, đạt 148,37% dự toán Trung ương, đạt 110,18% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh. Trong đó:
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được 5.976 tỷ đồng, đạt 131,57% dự toán Trung ương, đạt 124,50% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh, bao gồm: Thu nội địa là 5.300 tỷ đồng, đạt 131,12% dự toán Trung ương, đạt 123,26% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu là 676 tỷ đồng, đạt 135,20% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh.
- Thu ngân sách Trung ương trợ cấp được 4.349,76 tỷ đồng, đạt 103,51% dự toán Trung ương, đạt 100% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh.
Ước tổng chi ngân sách địa phương năm 2022 được 11.759,24 tỷ đồng, đạt 152,31% dự toán Trung ương, đạt 109,63% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản được 5.371,27 tỷ đồng, đạt 166,16% dự toán Trung ương giao, đạt 110,89% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên được 5.583,53 tỷ đồng, đạt 127,96% dự toán Trung ương giao, đạt 100,35% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
2.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 30/11/2022, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 19.469 tỷ đồng, tăng trưởng 14,30% so với cuối năm 2021. Vốn huy động đáp ứng được 56,73% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 9.680 tỷ đồng (chiếm 49,72% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.789 tỷ đồng (chiếm 50,28% tổng huy động). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,5-1,0%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 5,5-6,0%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 6,0-7,4%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 6,4-8,2%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 12/2022, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 19.612 tỷ đồng, tăng trưởng 15,14% so với cuối năm 2021.
Đến ngày 30/11/2022, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 34.316 tỷ đồng, tăng trưởng 16,09% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 17.691 tỷ đồng (chiếm 51,55% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 16.625 tỷ đồng (chiếm 48,45% tổng dư nợ). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 5,5%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 9,0 - 12,5%/năm; trung, dài hạn từ 11,5 - 16%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 12/2022, dư nợ đạt 34.053 tỷ đồng, tăng trưởng 15,20% so với cuối năm 2021.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 11/2022 gần 835 tỷ đồng, chiếm 2,43%/tổng dư nợ; nợ xấu là 407 tỷ đồng, chiếm 1,19%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 428 tỷ đồng, chiếm 51,14%/tổng nợ quá hạn. Ước thực hiện đến cuối tháng 12/2022, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra (thấp hơn 3%/tổng dư nợ).
Dư nợ các Đề án, Chương trình, Chính sách tín dụng trọng điểm theo Chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chính quyền địa phương đạt được kết quả sau:
- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 2.343 tỷ đồng, tăng trưởng 5,97% so với cuối năm 2021.
- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 3.789 tỷ đồng, tăng trưởng 2,91% so với cuối năm 2021, với 1.557 hộ dân và 10 doanh nghiệp còn dư nợ; nợ xấu 17 tỷ đồng, chiếm 0,45%.
- Cho vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo Quyết định 68/QĐ-TTg dư nợ 13,77 tỷ đồng, giảm 37,04% so với cuối năm 2021.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết số 02/NQ-CP dư nợ 26,26 tỷ đồng, giảm 26,32% so với cuối năm 2021, với 210 cá nhân còn dư nợ.
- Chương trình cho vay thực hiện chính sách nhà ở xã hội theo Thông tư số 25/2015/TT-NHNN dư nợ 148 tỷ đồng, với 371 khách hàng được hỗ trợ.
- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 3.355 tỷ đồng, tăng trưởng 13,73% với cuối năm 2021.
- Cho vay lĩnh vực kinh tế tập thể dư nợ 255 tỷ đồng, tăng trưởng 47,40% so với cuối năm 2021, với 39 hợp tác xã và 506 tổ hợp tác còn dư nợ.
- Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp có doanh số cho vay đạt 14.092 tỷ đồng, dư nợ đạt 9.055 tỷ đồng, tăng trưởng 19,65% so với cuối năm 2021, với 428 doanh nghiệp được tiếp cận vốn.
- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 21.322 tỷ đồng, tăng trưởng 6,39% so với cuối năm 2021, chiếm 65,39%/tổng dư nợ.
- Cho vay xây dựng nông thôn mới toàn địa bàn dư nợ 12.289 tỷ đồng, tăng trưởng 9,93% so với cuối năm 2021, với 154.680 hộ dân, 158 doanh nghiệp và 23 Hợp tác xã còn dư nợ.
- Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: Lũy kế từ 23/01/2020 đến nay, toàn ngành Ngân hàng trên địa bàn đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ: nợ gốc 2.742 tỷ đồng, nợ lãi 51,43 tỷ đồng, số khách hàng là 1.148 khách hàng; tổng giá trị nợ được miễn, giảm lãi 172 tỷ đồng, 301 khách hàng, số tiền lãi được miễn, giảm là 0,78 tỷ đồng; doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến nay là 10.115 tỷ đồng.
3. Đầu tư và xây dựng
3.1. Vốn đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2022 là 20.286,62 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước 3.302,09 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.184,53 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 14.800 tỷ đồng.
Ước tính tháng 12/2022, vốn đầu tư thực hiện được 1.974 tỷ đồng, bằng 111,18%[4] so với tháng trước và bằng 140,10% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 305,22 tỷ đồng, bằng 104,10% so với tháng trước và bằng 80,22% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 596,10 tỷ đồng, bằng 112,14% so với tháng trước và bằng 693,95% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.072,68 tỷ đồng, bằng 112,83% so với tháng trước và bằng 113,80% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính năm 2022, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 20.130,83 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước (17.330,55 tỷ đồng) bằng 116,16% và đạt 99,23% so với kế hoạch năm (mới điều chỉnh 20.286,62 tỷ đồng). Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 3.180,38 tỷ đồng, bằng 123,71% so với cùng kỳ năm trước và đạt 96,31% so với kế hoạch năm; chiếm tỷ trọng 15,80% vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 2.160,56 tỷ đồng, bằng 188,54% so với cùng kỳ năm trước và đạt 98,90% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 14.789,89 tỷ đồng, bằng 108,64% so với cùng kỳ năm trước và đạt 99,93% so với kế hoạch năm.
3.2. Xây dựng
Ước quý IV/2022, giá trị sản xuất ngành xây dựng tính theo giá so sánh 2010 được 1.862,25 tỷ đồng, tăng 18,38% so với quý trước và tăng 9,41% so với cùng kỳ năm trước, tính theo giá hiện hành được 3.080,23 tỷ đồng, tăng 16,20% so với quý trước và tăng 16,17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Công trình nhà ở được 1.774,95 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 57,62% trong toàn ngành, tăng 18,46% so quý trước và tăng 10,56% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu là do các công trình xây dựng nhà để ở của các hộ dân cư có thời gian khởi công và hoàn thành ngắn, quá trình nghiệm thu và thanh toán hợp đồng đơn giản và chịu sự giám sát của chủ hộ, nên các dự án công trình xây dựng nhà đều hoàn thành và thanh lý hợp đồng đúng tiến độ, do đó giá trị sản xuất tăng so với cùng kỳ.
- Công trình nhà không để ở được 558,93 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,15% trong toàn ngành, tăng 20,17% so với quý trước và tăng 61,86% so với cùng kỳ. Do các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định trong tình hình mới, một số doanh nghiệp bắt đầu khởi công một số công trình lớn như: sửa chữa trụ sở làm việc cơ quan, trường học,…. Vì vậy, giá trị sản xuất ngành xây dựng nhà không để ở tăng so với quý trước.
- Công trình kỹ thuật dân dụng được 660,64 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,45% trong toàn ngành, tăng 6,99% so với quý trước và tăng 11,24% so với cùng kỳ năm trước. Các công trình xây dựng dặm vá sửa chữa các tuyến đường nông thôn để thực hiện việc xây dựng mục tiêu nông thôn mới, nên các công ty đã và đang đẩy nhanh tiến độ các gói thầu, để hoàn thành và bàn giao trong thời gian sớm nhất, nên giá trị sản xuất các công trình kỹ thuật dân dụng tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 85,71 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,78% trong toàn ngành, tăng 22,57% so với quý trước và giảm 19,72% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính năm 2022, giá trị sản xuất ngành xây dựng tính theo giá so sánh 2010 được 6.259,73 tỷ đồng, tăng 8,23% so với cùng kỳ năm trước, tính theo giá hiện hành được 10.328,13 tỷ đồng, tăng 18,31% so với cùng kỳ năm trước[5]. Trong đó:
- Công trình nhà ở được 5.881,76 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56,95% trong toàn ngành và tăng 12,75% so với cùng kỳ năm trước.
- Công trình nhà không để ở được 1.985,57 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,22% trong toàn ngành và tăng 22,90% so với cùng kỳ.
- Công trình kỹ thuật dân dụng được 2.168,33 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 20,99% trong toàn ngành và tăng 36,64% so với cùng kỳ năm trước.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 292,48 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 2,84% trong toàn ngành và tăng 4,62% so với cùng kỳ năm trước.
4. Tình hình hoạt động của Doanh nghiệp
Trong tháng (tính từ ngày 20/11/2022-20/12/2022), toàn tỉnh có 53 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng số vốn đăng ký là 374,45 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 8% về số doanh nghiệp và tăng 13% về vốn); có 11 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 21,8 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 54%); có 10 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng, tổng vốn là 106 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 233% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 341%). Trong tháng có 15 doanh nghiệp hoạt động trở lại.
Tính từ đầu năm đến nay, có 896 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 5.490,834 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 65% về số doanh nghiệp và tăng 61% về vốn); có 130 doanh nghiệp đăng ký thủ tục giải thể, với tổng số vốn là 166,32 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 44% về số doanh nghiệp, tăng 203% về vốn); có 208 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, với tổng vốn là 1.255,27 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 74% số doanh nghiệp, về vốn tăng 162%). Nguyên nhân chủ yếu các doanh nghiệp tạm ngưng hoạt động và giải thể là do kinh doanh không hiệu quả.
Xu hướng sản xuất kinh doanh: Hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 212 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, có trên 51,28% doanh nghiệp đánh giá tình sản xuất quý tiếp theo tăng hơn so với quý hiện tại, có trên 28,21% doanh nghiệp đánh giá quý tiếp theo không có biến động nhiều so với quý hiện tại và còn lại 20,51% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất quý tiếp theo gặp khó khăn, sản lượng không tăng so với quý hiện tại. Vì vậy, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định và bền vững so với cùng kỳ.
5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
5.1. Nông nghiệp
Diện tích, sản lượng rau màu tăng cao, cơ cấu lúa có giá trị cao tiếp tục tăng; sản lượng cây ăn quả tăng cùng với sự tăng trưởng tốt của đàn heo và gia cầm làm cho lĩnh vực nông nghiệp có mức tăng trưởng khá. Cụ thể:
Năm 2022, tổng diện tích gieo trồng lúa toàn tỉnh được 188.357 ha, so với cùng kỳ giảm 0,34% (bằng 644 ha). Các giống lúa được sử dụng phổ biến là các giống chất lượng cao như: OM5451, OM18, Đài thơm 8,…. Năng suất ước đạt 66,57 tạ/ha, giảm 1,28% so với năm 2021. Sản lượng cả năm ước đạt 1.253.944 tấn, giảm 1,61% (bằng 20.486 tấn) so với năm 2021. Chia ra từng vụ như sau:
- Lúa Đông xuân 2021-2022: Toàn tỉnh đã xuống giống được 76.626,1 ha, đạt 100,56% kế hoạch tỉnh (76.200 ha), giảm 0,51% (bằng 395,6 ha) so với cùng kỳ. Chính thức năng suất đạt 77,81 tạ/ha, giảm 0,47% (bằng 0,37 tạ/ha), sản lượng đạt 596.228 tấn, giảm 0,98% (bằng 5.928,28 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân năng suất giảm do trên địa bàn tỉnh Hậu Giang một số huyện trong những tháng thu hoạch xảy ra mưa lớn kéo dài nhiều ngày gây đổ ngã diện tích lúa Đông xuân trong giai đoạn trổ chín đến thu hoạch.
- Lúa Hè thu 2022: Xuống giống được 76.368,8 ha, đạt 101,15% kế hoạch tỉnh (75.500 ha), giảm 0,32% (bằng 247,2 ha) so với cùng kỳ. Năng suất đạt 61,05 tạ/ha, giảm 2,29% (bằng 1,43 tạ/ha). Sản lượng đạt 466.232 tấn, giảm 2,6% (bằng 12.465 tấn). Một số huyện, thị xã thu hoạch muộn nên chịu ảnh hưởng của mưa bão làm cho năng suất giảm mạnh so với cùng kỳ như: thị xã Long Mỹ năng suất đạt 60,74 tạ/ha, giảm 3,22% (bằng 2,02 tạ/ha); huyện Phụng Hiệp năng suất đạt 60,36 tạ/ha, giảm 3,13% (bằng 1,95 tạ/ha); huyện Long Mỹ năng suất đạt 61,26 tạ/ha, giảm 2,34% (bằng 1,47 tạ/ha) so với cùng kỳ.
- Lúa Thu đông 2022: Xuống giống được 35.361,8 ha, đạt 101,03% kế hoạch tỉnh (35.000 ha). Hiện đã thu hoạch dứt điểm. Năng suất đạt 54,15 tạ/ha, giảm 1,08% (bằng 0,59 tạ/ha). Sản lượng đạt 191.484 tấn, giảm 1,08% (bằng 2.093 tấn). Giá lúa tươi tại ruộng như sau: Giống OM5451 có giá dao động từ 5.600-5.800 đồng/kg, giống OM18 có giá dao động từ 5.700-6.000 đồng/kg (giá hiện tại tương đương so với cùng kỳ). Trong vụ toàn tỉnh ghi nhận 1.450 ha diện tích được ký kết hợp đồng bao tiêu, chiếm khoảng 4,1% tổng diện tích gieo sạ, cùng kỳ năm 2021 có 7.649 ha được ký hợp đồng bao tiêu.
Mía niên vụ 2021-2022: Xuống giống được 3.842,2 ha, đạt 96,06% kế hoạch tỉnh (4.000 ha), giảm 23,76% (bằng 1.197,5 ha) so với cùng kỳ, diện tích mía toàn tỉnh tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Năng suất đạt 1.000,24 tạ/ha, giảm 0,002% (bằng 0,02 tạ/ha). Sản lượng đạt 384.311 tấn, giảm 23,76% (bằng 119.789 tấn) so với cùng kỳ. Giá bán 2.000-2.500 đồng/kg (bán mía nước), giá bán cho nhà máy đường 800-1.200 đồng/kg.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước được 2.555,59 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 13,59% (bằng 402,07 ha. Năng suất ước đạt 62,65 tạ/ha, tăng 0,08% (bằng 0,05 tạ/ha). Sản lượng thu hoạch được 16.010,68 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 13,52% (bằng 2.503,16 tấn). Diện tích gieo trồng giảm do thay đổi mùa vụ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng ước được 22.875,91 ha, so với năm trước tăng 8,73% (bằng 1.836,24 ha). Ước sản lượng được 287.772,84 tấn, tăng 18,78% (bằng 45.509,05 tấn). Nguyên nhân tăng mạnh do thực hiện theo kế hoạch của ngành chức năng, người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch tăng so với cùng kỳ.
Tình hình gieo trồng và thu hoạch một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.114,55 ha, đạt 103,82% so kế hoạch năm (3.000 ha) và tăng 7,08% (bằng 206 ha). Sản lượng sơ bộ năm 2022 được 42.844,13 tấn, đạt 95,21% so kế hoạch năm (45.000 tấn) và tăng 10,78% (bằng 4.170,01 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Đây là sản phẩm chủ lực của tỉnh.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.669,84 ha, đạt 103,08% so kế hoạch năm (1.620 ha) và tăng 5,32% (bằng 84,40 ha). Sản lượng sơ bộ được 18.433,82 tấn, đạt 122,89% so kế hoạch năm (15.000 tấn) và tăng 7,22% (bằng 1.241,54 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.938,60 ha, đạt 102,88% so kế hoạch năm (9.660 ha) và tăng 14,49% (bằng 1.257,93 ha), diện tích tăng chủ yếu ở các huyện như: Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp, thành phố Ngã Bảy. Sản lượng được 98.252,32 tấn, đạt 109,17% so kế hoạch năm (90.000 tấn) và tăng 31,21% (bằng 23.373,09 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.820,09 ha, đạt 113,71% so kế hoạch năm (2.480 ha) và tăng 3,04% (bằng 83,14 ha). Sản lượng được 27.356,68 tấn, đạt 83,15% so kế hoạch năm (32.900 tấn) và tăng 6,72% (bằng 1.722,61 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 720,04 ha, đạt 96,01% so kế hoạch năm (750 ha) và tăng 4,32% (bằng 14,22 ha). Sản lượng được 7.819,05 tấn, đạt 91,99% so kế hoạch năm (8.500 tấn) và tăng 9,02% (bằng 646,81 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện.
5.2. Chăn nuôi
Dịch bệnh được kiểm soát tốt, chăn nuôi phát triển ổn định, đàn gia súc, gia cầm được hộ dân phát triển tái đàn. Ước tính đến tháng 12/2022, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.427 con, đạt 94,5% kế hoạch năm (1.510 con), tăng 2,15% (bằng 30 con) so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước được 153 tấn, giảm 4,68% so với cùng kỳ. Đàn bò ước được 3.627 con, đạt 99,92% kế hoạch năm (3.630 con), tăng 2,84% (bằng 100 con) so với cùng kỳ, sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước được 211 tấn, giảm 0,32% so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 143.943 con, đạt 106,62% kế hoạch năm (135.000 con), tăng 1,90%[6] (bằng 2.678 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 101.572 con, tăng 0,3% (bằng 304 con). Sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 20.955 tấn, tăng 4,28% so với cùng kỳ.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.373,17 ngàn con, đạt 98,27% kế hoạch năm (4.450 ngàn con), tăng 4,14% (bằng 173,87 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: đàn gà 1.778,46 ngàn con, tăng 0,58% (bằng 10,24 ngàn con) so với cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 14.692 tấn, tăng 8,03% so với cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm ước được 154.909 nghìn quả, tăng 4,65% so với cùng kỳ.
5.3. Lâm nghiệp
Trong năm 2022 thời tiết thuận lợi cho công tác trồng cây tập trung trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố. Đến thời điểm hiện tại, diện tích rừng trồng mới tập trung sơ bộ được 441,06 ha, tăng 2,44% (bằng 10,52 ha) so với cùng kỳ. Sơ bộ thực hiện năm 2022, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.595,88 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 2,41% (bằng 37,48 ngàn cây); sản lượng gỗ khai thác sơ bộ khoảng 15.023 m3, tăng 2,64% (bằng 387 m3); sản lượng củi khai thác được 69.428 ste, tăng 1,04% (bằng 714 ste) so với cùng kỳ.
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
5.4. Thủy sản
Trong năm 2022, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước được 8.825,48 ha, đạt 102,03% so kế hoạch năm (8.650 ha) và tăng 8,44% (bằng 686,98 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 8.633,87 ha[7], tăng 8,49% (bằng 675,59 ha); diện tích nuôi tôm được 108,50 ha[8], tăng 10,58% (bằng 10,38 ha); diện tích nuôi thủy sản khác được 83,11 ha, tăng 1,23% (bằng 1,01 ha).
Tổng sản lượng thủy sản sơ bộ năm 2022 được 79.108,46 tấn, đạt 95,31% so kế hoạch năm (83.000 tấn) và tăng 5,17%[9] (bằng 3.892,16 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác sơ bộ được 2.511,40 tấn, đạt 93,01% so kế hoạch năm (2.700 tấn) và giảm 1,28% (bằng 32,56 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng sơ bộ được 76.597,06 tấn, đạt 95,39% so kế hoạch năm (80.300 tấn) và tăng 5,40% (bằng 3.924,72 tấn) so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá thát lát thu hoạch được 4.102,07 tấn, tăng 20,57% (bằng 699,81 tấn) so cùng kỳ, sản lượng lươn thu hoạch được 762,92 tấn, tăng 7,10% (bằng 50,60 tấn) so với cùng kỳ.
6. Tình hình sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong năm có mức tăng trưởng rất cao, chủ yếu do hầu hết các ngành đều khôi phục mạnh sau dịch Covid-19, bên cạnh đó có dự án lớn mới đưa vào hoạt động trong năm.
Ước thực hiện tháng 12/2022, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.239,55 tỷ đồng, tăng 3,55% so với tháng trước và tăng 36,45% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành, được 5.534,13 tỷ đồng, tăng 6,27% so với tháng trước và tăng 44,47% so với cùng kỳ năm trước.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 76,41% trong tổng giá trị toàn ngành và phát triển bền vững trong thời gian vừa qua là do các chính sách ưu đãi thuế, chính sách giải quyết các thủ tục hành chính tinh gọn của các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền, cộng thêm gói vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19 của Chính Phủ và quan trọng nhất là dự án các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh Hậu Giang đang trong giai đoạn đầu tư - xây dựng, nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp lớn đến đầu tư. Nhất là các ngành công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như: Ngành sản xuất bao bì bằng giấy; ngành sản xuất nguyên liệu thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản; sản xuất, gia công một số bộ phận giày dép, quần áo; sơn tỉnh điện; kỹ nghệ hàng; … Vì vậy, ngành công nghiệp tỉnh Hậu Giang có xu hướng phát triển mạnh trong những tháng tiếp theo.
Ước thực hiện năm 2022, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 34.578,03 tỷ đồng, tăng 22,65% so với cùng kỳ năm trước và đạt 101,81% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 54.012,78 tỷ đồng, tăng 30,87%[10] so với cùng kỳ năm trước và đạt 105,33% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 6.880,55 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12,74% trong toàn ngành và tăng rất cao so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 225 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể sản xuất công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 35.729,29 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 66,15% trong toàn ngành và tăng 18,00% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 11.402,93 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,11% trong toàn ngành và tăng 5,78% so với cùng kỳ.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 12 tháng năm 2022 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững, nhất là các điều khoản ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng dài hạn, trong bối cảnh chuỗi cung ứng nguyên vật liệu đầu vào của thị trường chưa ổn định như hiện nay. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư, sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng và phát triển ổn định trong những năm tới.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 12/2022, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 3,08% so với tháng trước và tăng 17,81% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,72% so với tháng trước và tăng 11,83% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 10,10% so với tháng trước và tăng rất cao so với cùng kỳ (Nguyên nhân do đến thời điểm hiện tại 02 tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã hoạt động ổn định, nên dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 12 đạt 448 triệu kwh, tăng 10,62% so với tháng trước); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,49% so với tháng trước và tăng 12,90% so với cùng kỳ năm trước.
Dự tính năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiêp tăng 15,22% so với cùng kỳ (cao hơn rất nhiều mức tăng 4,82% của chính thức năm 2021 so với cùng kỳ). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo là ngành chủ lực của tỉnh và chiếm tỷ trọng lớn trên 86,25% trong toàn ngành và tăng 11,63% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 4,78% của chính thức năm 2021 so với cùng kỳ); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 1.071,74% so với cùng kỳ (cao hơn rất nhiều so với mức tăng 5,62% của chính thức năm 2021 so với cùng kỳ); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,21% so với cùng kỳ năm trước, nên làm chỉ số sản xuất công nghiệp chung của toàn tỉnh tăng cao so với cùng kỳ.
Một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh:
- Ngành sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 19,16% so với cùng kỳ. Trong đó một số ngành tăng cao như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 63,72% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 22,81% so với cùng kỳ. nguyên nhân là do các doanh nghiệp chế biến tôm đông lạnh, đóng góp giá trị sản xuất lớn nhất trong ngành chế biến thực phẩm, trong thời gian vừa qua các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này đã cải tiến máy móc, thiết bị và thực hiện tốt các yêu cầu của đối tác trong chế biến như: Xây dựng các vùng nguyên liệu đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu, để cung ứng cho nhà máy hoạt động ổn định và liên tục, ghi nhật ký nuôi trồng thủy sản, nhật ký chế biến, nhập kho, xuất kho,… theo quy định của Bộ thương mại Hoa Kỳ (DOC), nên sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp đáp ứng được các rào cản chất lượng khắc khe của các nước nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp đã duy trì hoạt động ổn định trong thời gian vừa qua, nên chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
- Sản xuất đồ uống tăng 30,24% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan HG với sản phẩm chính là nước uống có hương vị cà phê (Wake up 247), đã hoạt động ổn định từ giữa năm 2021 đến nay, sản lượng sản xuất ước thực hiện năm 2022 được 67,74 triệu lít, tăng 12,95% so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất trang phục tăng 62,02% so với cùng kỳ. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 13 doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong ngành này, trong đó, Công ty TNHH UNIPAX Vị Thanh là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), giá trị sản xuất của doanh nghiệp này chiếm trên 11,97% giá trị ngành may mặc, đi vào hoạt động ổn định cuối năm 2021 đến nay. Vì vậy, đã làm tăng đột biến ngành này so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 27,28% so với cùng kỳ năm trước. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 03 doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong ngành này, với sản lượng sản xuất giày thành phẩm được 16.723,83 ngàn đôi, tăng 28,38% so với cùng kỳ và gia công các bộ phận của giày, dép được 9.352,45 ngàn đôi, tăng 8,31% so với cùng kỳ, trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được những hợp đồng sản xuất giày thể thao có chất lượng cao, đã làm đơn giá bình quân/sản phẩm tăng từ 25 đến 30% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành này tăng cao so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 1.133,89% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng rất cao so với cùng kỳ là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I chạy thử từ tháng 01 đến tháng 5 năm 2022 và chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế của thị trường từ tháng 6 năm 2022 đến nay, nên dự tính sản lượng điện sản xuất 12 tháng đạt 2,70 tỷ kwh. Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số sản xuất ngành này so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo: Tính đến thời điểm tháng 12/2022, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 36,30% so với tháng trước và tăng 45,01% so với cùng kỳ. Tính chung 12 tháng năm 2022, tăng 14,32% so với cùng kỳ. Trong đó, tăng chủ yếu ở các nhóm hàng như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 30,97%; tôm đông lạnh tăng 30,72%; bột mịn, bột thô và bột viên từ cá hay động vật giáp xác tăng 57,41%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 29,37%; sản xuất trang phục tăng 27,56%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 22,62%...Vì vậy, đã làm chỉ số tiêu thụ toàn ngành tăng so với cùng kỳ năm trước.
Tình hình tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Ước tính tại thời điểm 31/12/2022, chỉ số tồn kho tăng 3,11% so với cùng cùng kỳ năm trước, trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung của toàn ngành như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 26,62%; cá khác và các bộ phận của cá đóng hộp tăng 134,25%; tôm đông lạnh tăng 51,79%; sản xuất đồ uống tăng 30,79%,... Ở chiều ngược lại một số ngành có chỉ số tồn kho giảm như: Sản xuất đường giảm 33,89%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 64,20%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 79,50%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 14,21%,... Vì vậy đã làm chỉ số tồn kho toàn ngành tăng nhẹ so với cùng kỳ. Như vậy, chỉ số sản xuất tăng cao, tình hình tiêu thụ tăng cao, chỉ số tồn kho tăng nhẹ cho thấy các doanh nghiệp có dấu hiệu phục hồi, mạnh dạn đầu tư sản xuất hàng hóa lưu kho, chuẩn bị xuất khẩu phục vụ thị trường dịp Noel và Tết dương lịch sắp đến.
Tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm 01/12/2022, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 0,56% so với tháng trước và tăng 12,87% so với cùng kỳ. Tính chung 12 tháng năm 2022, tăng 28,18% so với cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số sử dụng lao động tăng cao hơn mức tăng chung toàn ngành so với cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 37,15%; sản xuất đồ uống tăng 48,80%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 31,78%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 51,77%; sản xuất và phân phối điện tăng 62,75%, .... Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động chung của toàn tỉnh trong 12 tháng năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ.
7. Hoạt động thương mại, dịch vụ
Hoạt động thương mại dịch vụ trong năm đã hồi phục và phát triển mạnh so cùng kỳ ở hầu hết các ngành, đặc biệt là ngành thương mại, dịch vụ lưu trú và ăn uống.
7.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Những tháng cuối năm tình hình kinh doanh bắt đầu nhộn nhịp, nền kinh tế đã phục hồi mạnh sau đại dịch, hoạt động kinh doanh của ngành bán lẻ, các ngành dịch vụ bao gồm ăn uống, lưu trú và các ngành dịch vụ tiêu dùng cũng bật tăng tốt. Ước thực hiện tháng 12/2022, tiếp tục ghi nhận doanh thu bán lẻ hàng hóa có mức tăng trưởng 4,69%. Vào dịp cuối năm diễn ra nhiều lễ hội, sự kiện, các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh bán lẻ có nhiều chương trình khuyến mãi để kích thích tiêu dùng, cùng với thu nhập tăng nhu cầu mua sắm của người dân tăng mạnh dịp cuối năm là những nguyên nhân chủ yếu làm tăng giá trị doanh thu thương mại và dịch vụ. Ước tính tháng 12/2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú, ăn uống và doanh thu các loại hình dịch vụ khác thực hiện được 4.261,25 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 5% và so với cùng kỳ năm trước tăng 5,51%. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.175,73 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 4,69% và so với cùng kỳ tăng 1,38%. Thị trường hoạt động bán lẻ hàng hóa trong tháng 12 được dự đoán sẽ diễn ra sôi động và nhộn nhịp hơn so với các tháng trước. Cuối năm nguồn cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, chủng loại mặt hàng đa dạng, các cơ sở kinh doanh đưa nhiều chương trình khuyến mãi để thanh lý hàng tồn kho và kích thích tiêu dùng, các sự kiện ngày hội mua sắm Black Friday, Giáng sinh, Tết Dương lịch,… sẽ tạo nên làn sóng mua sắm của người dân dịp cuối năm. Các nhóm ngành hàng lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, xăng dầu, vàng bạc và các kim loại quý là những nhóm hàng quan trọng đóng góp chính cho sự tăng trưởng của ngành bán lẻ. Các nhóm hàng này đều có mức tăng so với tháng trước. Trong đó, nhóm lương thực, thực phẩm tăng 9,33%; hàng may mặc tăng 1,51%; xăng, dầu tăng 0,95%, tăng nhẹ so với tháng trước do giá xăng được điều chỉnh giảm; vàng và các kim loại quý khác tăng 4,17%. Các nhóm hàng khác còn lại vẫn có doanh thu ổn định so với tháng trước.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 585,76 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 103,06% và so với cùng kỳ năm trước bằng 101,20%. Trong đó:
+ Ngành lưu trú ước tính được 9,23 tỷ đồng, so tháng trước bằng 107,91% và so cùng kỳ bằng 86,43%, hoạt động lưu trú cũng đã có bước phục hồi đáng kể khi lượt khách đến địa bàn đã có mức tăng so với các tháng trước.
+ Ngành ăn uống ước tính được 576,53 tỷ đồng, so tháng trước bằng 102,99% và so cùng kỳ bằng 101,48%. Tháng 12 diễn ra lễ hội Noel cùng với một số sự kiện mừng năm mới có thể cũng sẽ được tổ chức như thường niên sẽ là điều kiện thuận lợi để các cơ sở ăn uống kinh doanh hiệu quả, đạt được giá trị doanh thu cao và lợi nhuận đáng kể trong tháng cuối cùng của năm.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 499,76 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 9,48% và so với cùng kỳ năm trước tăng 52,61%. Do là tháng cuối năm nên nhiều khả năng các sự kiện lễ hội, chương trình ca nhạc, văn hóa thể thao được tổ chức rầm rộ, nhộn nhịp cùng với việc tăng số kỳ mở thưởng của hoạt động xổ số trong tháng 12 sẽ làm tăng đáng kể doanh thu các loại hình dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí (ngành chiếm tỷ trọng chủ yếu, chiếm 66%).
Ước tính năm 2022, tổng doanh thu hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng thực hiện được 50.748,24 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 19,95% và so với kế hoạch năm đạt 118,02%. Trong đó, hoạt động bán lẻ là ngành hàng chiếm tỷ trọng cao (chiếm hơn 75%) đóng góp chủ yếu vào sự tăng trưởng chung của cả ngành thương mại và dịch vụ. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 38.321,93 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 15,66%. Các mặt hàng chủ lực có mức tăng cao bao gồm: xăng dầu; lương thực, thực phẩm; may mặc; vàng có mức tăng lần lượt 85,18%; 18,19%; 6,18%; 8,03% so với cùng kỳ năm 2021, vẫn là những mặt hàng chính đóng góp vào sự tăng trưởng chung của hoạt động bán lẻ. Tổng quan, doanh thu bán lẻ tính chung cả năm 2022 đã có sự tăng trưởng mạnh. Trong đó, tốc độ doanh thu của quý III/2022 có mức tăng cao đột biến ở mức 30,23% và tốc độ tăng quý IV/2022 có phần chậm lại đạt 1,02%. Có thể nói 6 tháng cuối năm là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao ấn tượng, góp phần quan trọng chủ yếu đến tốc độ tăng trưởng của cả năm 2022.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống thực hiện được 7.051,66 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 16,80%. Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 96,80 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 87,73%; Ngành ăn uống, ước tính được 6.954,86 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 117,34%. Hoạt động chung của cả ngành lưu trú, ăn uống mặc dù 6 tháng đầu năm do còn ảnh hưởng của dịch bệnh có phần phục hồi chậm nhưng trong 6 tháng cuối năm đã có tốc độ hồi phục mạnh và tăng cao đột biến, đặc biệt là trong quý III/2022 tăng đến 87,09%, quý IV/2022 có phần tăng chậm lại ở mức 2,52%. Vì vậy, tính chung cả năm 2022 ngành lưu trú, ăn uống vẫn có tốc độ tăng trưởng dương và ở mức tương đối cao tăng 16,80%, cao hơn nhiều so với năm 2020 giảm 5,71% và năm 2019 tăng 8,73%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 5.374,65 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 71,37%. Nhìn chung cả năm 2022, hầu hết doanh thu các ngành dịch vụ đều có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, dịch vụ nghệ thuật vui chơi và giải trí có mức tăng cao nhất, tăng 85,88%, thấp nhất là các dịch vụ sữa chữa đồ dùng, dịch vụ phục vụ cá nhân và gia đình, hoạt động các ngành này mang tính nhỏ lẻ nên có sự hồi phục chậm và so với cùng kỳ có mức tăng chưa cao, chỉ tăng 12,66%.
Nhìn chung trong năm 2022, tình hình hoạt động thương mại dịch vụ có nhiều biến động. Lạm phát tăng, giá cả hàng hóa tăng, chuỗi cung ứng một số ngành hàng bị đứt gãy gây ảnh hưởng đến sản xuất và nguồn cung trên thị trường, các hoạt động ăn uống, lưu trú và các loại hình dịch vụ tiêu dùng khác trong những tháng đầu năm còn phục hồi chậm do còn ảnh hưởng của dịch bệnh là những tác nhân chính phần nào làm ảnh hưởng đến giá trị doanh thu chung của ngành thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, dần về những quý cuối năm tốc độ tăng trưởng thương mại dịch vụ trở nên tăng nhanh hơn và đặc biệt có sự đột biến trong quý III/2022 đã góp phần làm giá trị doanh thu cả năm 2022 tăng 19,95% so cùng kỳ, đây là mức tăng trưởng cao nhất từ năm 2019 đến nay. Năm 2020 chỉ đạt tốc độ tăng 6,04% và trước đại dịch năm 2019 tăng 8,84%.
7.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước thực hiện tháng 12/2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 81,67 triệu USD so với tháng trước bằng 114,34% và so với cùng kỳ năm trước bằng 86,99%. Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 61,63 triệu USD, so với tháng trước bằng 126,18% và so với cùng kỳ năm trước bằng 130,42%. Dịp cuối năm là thời điểm ở các thị trường nhập khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp diễn ra nhiều hoạt động lễ hội lớn (lễ giáng sinh). Nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng thực phẩm thủy hải sản, nông sản và các mặt hàng dệt may, da giày của người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu sẽ tăng nhiều. Do đó, ước tính trong tháng 12 giá trị xuất khẩu sẽ tăng. Dự báo nhóm hàng xuất khẩu giày dép các loại được kỳ vọng sẽ tăng mạnh, do dịch bệnh đã được kiểm soát chặt chẽ, các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định và phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trong các tháng cuối năm.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 20,03 triệu USD, so với tháng trước bằng 88,72% và so với cùng kỳ năm trước bằng 42,97%. Trong tháng 11/2022 doanh nghiệp nhập khẩu hàng máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng 38,75% tổng giá trị nhập khẩu đã nhập (dây chuyền sản xuất sữa của công ty TNHH MTV Masan HG) với giá trị lớn nên dự đoán tháng 12/2022 giá trị nhập khẩu sẽ giảm trở lại.
Ước tính năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện được 1.204,08 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 124,68% và so với kế hoạch năm vượt 13,81%. Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 808,42 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 146,17% và so với kế hoạch năm vượt 12,75%. Khu vực kinh tế trong nước được 495,70 triệu USD (chiếm tỷ trọng 61,32%), khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được 312,72 triệu USD (chiếm 38,68%). Cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu vẫn ổn định. Nhóm hàng thủy sản, dệt may da giày, sản phẩm giấy các loại là những mặt hàng chủ lực. Về thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất đi được 73 quốc gia và vùng lãnh thổ, Hoa kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất đạt 157,01 triệu USD, tăng 17% so với cùng kỳ. Tiếp đến là Trung Quốc được 91,09 triệu USD, giảm 9,90% so với cùng kỳ. Các nước khối EU được 107,70 triệu USD, tăng 234,64%. Nhật Bản được 79,05 triệu USD, tăng 36%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 353,22 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 95,96% và so với kế hoạch năm vượt 21,80%. Khu vực kinh tế trong nước được 185,23 triệu USD (chiếm tỷ trọng 52,44%), khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được 167,99 triệu USD (chiếm 47,56%). Cơ cấu các nhóm hàng nhập khẩu vẫn ổn định. Bao bì giấy thành phẩm, hóa chất, xăng dầu, hàng hóa khác là những nhóm hàng được nhập khẩu nhiều. Tổng thị trường nhập khẩu trong năm 2022 của các doanh nghiệp là hơn 45 quốc gia và vùng lãnh thổ, Hoa kỳ là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch 102,13 triệu USD, tăng 20,34% so với cùng kỳ. Tiếp đến là thị trường Hàn Quốc với 46,59 triệu USD, tăng 80,58%. Indonexia đạt 38,17 triệu USD, tăng 3,99%. Trung Quốc đạt 34,80 triệu USD, tăng 0,80%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,90 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 159,50% và so với kế hoạch năm đạt 89,80%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 41,54 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 93,51% và so với kế hoạch năm đạt 83,07%.
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội năm 2022 đã ổn định và có bước phát triển vượt bậc sau dịch Covid-19, các lĩnh vực kinh tế đều có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ; giá trị xuất nhập khẩu cũng tăng mạnh. Các doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh hoạt động sản xuất hàng hóa để có thể đảm bảo cung ứng cho các đơn hàng vào các tháng cuối năm. Tính chung năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa xuất nhập khẩu trực tiếp xuất siêu được hơn 455 triệu USD. Trong đó, khu vực các doanh nghiệp trong nước xuất siêu gần 311 triệu USD, khu vực FDI xuất siêu hơn 144 triệu USD.
7.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Hoạt động dịch vụ vận tải, kho bãi của các cơ sở kinh doanh trên địa bàn trong tháng cuối năm tiếp tục tăng trưởng ở mức 4,63%. Động lực tăng trưởng chính đến từ các doanh nghiệp vận tải hàng hóa đường bộ và các cơ sở vận chuyển hành khách liên tỉnh, các loại hình chạy xe dịch vụ, hợp đồng. Giá xăng, dầu trên thị trường được giữ ổn định không đột biến, nguồn cung được đảm bảo ít khan hiếm hơn các tháng trước đã tạo thuận lợi hơn cho các cơ sở kinh doanh hiệu quả và tăng giá trị doanh thu. Riêng về các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kho bãi và logistic giá trị doanh thu tạo ra trong những tháng cuối năm đã dần ổn định và có giá trị cao, các doanh nghiệp đã từng bước phục hồi nhanh do ảnh hưởng của dịch bệnh và đang phát triển mạnh trong thời gian tới.
Ước tính tháng 12/2022, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện trong được 141,69 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 4,63% và so với cùng kỳ năm trước tăng 25,19%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 89,77 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,02% và so với cùng kỳ năm trước bằng 155,50%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 30,78 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 106,22% và so với cùng kỳ năm trước bằng 107,77%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 21,14 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,80% và so với cùng kỳ năm trước bằng 78,62%.
Ước tính năm 2022, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 1.433,82 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 126,30%. Trong đó: Doanh thu đường bộ thực hiện được 873,69 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 168,19%; doanh thu đường thủy thực hiện được 330,13 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 110,69%; doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 230,01 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 72,43%.
Nhìn chung, hoạt động của ngành vận tải trong năm 2022 không có nhiều biến động, mặc dù trong những tháng đầu năm có tốc độ tăng trưởng chậm so với cùng kỳ nhưng dần về cuối năm đã lấy lại được đà tăng trưởng và bứt phá, góp phần làm tăng giá trị tăng trưởng chung của cả năm 2022 lên mức 26,30%. Đóng góp và mức tăng chung đó chủ yếu đến từ các hoạt động vận chuyển hàng hóa, hành khách đường bộ. Hoạt động ngành đường thủy tuy có tăng nhưng không ở mức cao chỉ đạt mức 10,69% so với mức 68,19% của đường bộ.
7.3.1. Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 12/2022, toàn tỉnh vận chuyển được 614,30 nghìn tấn hàng hóa các loại (57.869,12 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 105,23% (104,83%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 126,92% (131,80%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 173,80 nghìn tấn (20.098,54 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 104,87% (105,54%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 170,86% (204,61%).
- Đường sông thực hiện được 440,50 nghìn tấn (37.770,58 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 105,37% (104,46%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 115,22% (110,81%).
Ước thực hiện năm 2022, toàn tỉnh vận chuyển được 6.520,42 nghìn tấn hàng hóa các loại (611.147,16 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 129,59% (142,17%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 1.928,16 nghìn tấn (188.801,81 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 187,34% (184,13%).
- Đường sông thực hiện được 4.592,26 nghìn tấn (422.345,35 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 114,73% (129,02%).
7.3.2. Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 12/2022, toàn tỉnh thực hiện được 3.144,82 nghìn lượt hành khách (48.872,76 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 104,88% (105,94%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 110,98% (102,82%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 849,13 nghìn lượt hành khách (41.417,46 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 103,90% (105,40%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 110,22% (108,28%).
- Đường sông vận chuyển được 2.295,70 nghìn lượt hành khách (7.455,31 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 105,25% (109,08%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 111,27% (80,30%).
Ước thực hiện năm 2022, toàn tỉnh thực hiện được 33.474,57 nghìn lượt hành khách (601.602,43 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 113,67% (125,33%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 10.253,79 nghìn lượt hành khách (512.770,92 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 140,40% (137,08%).
- Đường sông vận chuyển được 23.220,78 nghìn lượt hành khách (88.831,51 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 104,85% (83,83%).
8. Các vấn đề về xã hội
8.1. Dân số, lao động và an sinh xã hội
Dân số trung bình năm 2022 của tỉnh Hậu Giang ước đạt 729.467 người (trong đó, dân số nam chiếm 50,60%), giảm 421 người, tương đương giảm 0,06% so với năm 2021. Phân theo thành thị, nông thôn: dân số thành thị là 204.991 người, tăng 0,09% so với năm 2021, dân số nông thôn là 524.476 người, giảm 0,11% so với năm 2021.
Công tác giải quyết việc làm luôn được các cấp chính quyền quan tâm và thực hiện khá tốt, trong năm tạo và giải quyết việc làm mới cho 17.490 lao động, đạt 116,60% kế hoạch năm, cao gấp 4 lần so với cùng kỳ (năm 2021: 4.235 lao động), hỗ trợ đưa 397 lao động làm việc tại nước ngoài, đạt 114,73% kế hoạch năm, năm 2021 không có hỗ trợ đưa lao động làm việc tại nước ngoài.
Hiện nay cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong khối hành chính sự nghiệp mức thu nhập bình quân hàng tháng vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2021. Ước bình quân mức thu nhập người/tháng của mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,80 triệu đồng, thu nhập mỗi lao động trong khu vực nhà nước do trung ương quản lý là 7,45 triệu đồng.
Đối với người lao động thuộc khối doanh nghiệp: Ước thu nhập bình quân người/tháng của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,42 triệu đồng và trung ương quản lý là 6,43 triệu đồng.
Đối với lao động ngoài nhà nước, hiện nay thu nhập vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2021: Ước tính thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 4,85 triệu đồng/người/tháng. Đối với lao động thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thu nhập bình quân 6,90 triệu đồng/người/tháng.
Nhìn chung, với mức thu nhập từ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động như thế chỉ có thể đáp ứng cơ bản được nhu cầu cho tiêu dùng trong thời điểm hiện nay do giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như: xăng, dầu, gas, điện, nước,… vẫn ở mức khá cao.
Công tác giảm nghèo: Theo kết quả điều tra, rà soát cuối năm 2022, toàn tỉnh có 10.035 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 4,99%, biên độ giảm trong năm là 1,46%; có 7.271 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 3,61%, biên độ giảm trong năm là 0,28%.
Công tác bảo trợ xã hội: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 472.412 lượt đối tượng bảo trợ xã hội, với số tiền 223.009,27 triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 2.611 trường hợp, với số tiền 18.799,20 triệu đồng; hỗ trợ khẩn cấp cho 286 trường hợp với số tiền 5.592 triệu đồng.
Về công tác trẻ em: Ngành Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh đoàn, Đài Phát Thanh và Truyền hình Hậu Giang, UBND thành phố Ngã Bảy tổ chức 02 điểm tết Trung thu năm 2022 cho 280 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh với số tiền 158 triệu đồng. Nhân dịp tết Trung thu năm 2022, toàn tỉnh đã tổ chức 168 điểm họp mặt (cấp tỉnh: 02 điểm; cấp huyện 11 điểm; cấp xã 155 điểm) với 31.784 trẻ em tham dự, qua đó có 29.815 trẻ em được tặng quà với số tiền là 3.715,4 triệu đồng, có 826 trẻ em được nhận học bổng với số tiền 253,8 triệu đồng. Tổ chức trao 495 suất học bổng cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn vượt khó học giỏi nhân dịp khai giảng năm học 2022 - 2023 với số tiền là 382,5 triệu đồng, ....
Công tác thực hiện chính sách Người có công luôn được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ đạo sâu sát, uốn nắn kịp thời, nhất là việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định mới về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Trong năm, tiếp nhận mới 2.076 hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 2.066 hồ sơ. Trong đó, đạt 1.929 hồ sơ, không đạt 137 hồ sơ. Còn 10 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết; toàn tỉnh có 22.767 người có công với cách mạng được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của Tỉnh với số tiền là 7.233 triệu đồng; Tổ chức Lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh; “Thắp nến tri ân” tại các Nghĩa trang liệt sĩ, các nhà bia ghi tên liệt sĩ trên địa bàn tỉnh,…
8.2. Giáo dục
Chất lượng nguồn nhân lực ngành giáo dục ngày càng được nâng lên. Số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp học mầm non đạt chuẩn 1.567/1.623, tỷ lệ 96,55%; trên chuẩn 1.156/1.623, tỷ lệ 71,23%; Số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp tiểu học đạt chuẩn 2.906/3.531, tỷ lệ 82,30%; trên chuẩn 3/3.531, tỷ lệ 0,25%; Số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp trung học cơ sở đạt chuẩn 2.140/2.350, tỷ lệ 91,06%; trên chuẩn 23/2.350, tỷ lệ 0,98%; Số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp trung học phổ thông đạt chuẩn 1.121/1.121, tỷ lệ 100%; trên chuẩn 231/1.121, tỷ lệ 20,61%; Số lượng và tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh đạt chuẩn 15/15, tỷ lệ 100%; trên chuẩn 2/15, tỷ lệ 13,33%.
Năm học 2022 - 2023, toàn tỉnh huy động được 159.103 học sinh đến trường, đạt 100,33% kế hoạch. Toàn tỉnh có 318 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, giảm 02 trường so với cùng kỳ. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, đến nay đã có 263/318 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 82,7%.
Kỳ thi Trung học phổ thông năm 2022, toàn tỉnh có 6.305 thí sinh dự thi đăng ký xét công nhận tốt nghiệp, giảm 247 thí sinh so với cùng kỳ, số thí sinh được công nhận tốt nghiệp là 6.201 thí sinh, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 98,35%, thấp hơn 0,43% so với năm 2021.
8.3. Tình hình văn hóa, thể thao
Trong năm 2022, toàn Ngành thực hiện công tác tuyên truyền và tổ chức các hoạt động chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm của đất nước. Thực hiện maket, in và phát hành 1.500 tờ tin ảnh “Hậu Giang mừng Đảng quang vinh – mừng Xuân Nhâm Dần 2022”, Áp phích và Tranh cổ động: 04 mẫu, số lượng 1.000 tờ/mẫu đến các Sở, ban, ngành, các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh,...
Hoạt động Thư viện: Triển lãm 200 loại báo Xuân Nhâm Dần năm 2022 tại Thư viện tỉnh gồm: Báo Xuân của các báo Trung ương và ấn phẩm Xuân của 63 tỉnh thành; Tạp chí Xuân các lĩnh vực trong đời sống; Ấn phẩm Xuân tham gia Cuộc thi bình chọn ấn phẩm Xuân 2022 và 100 quyển sách về Đảng Cộng sản Việt Nam; tổ chức: Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2022 với chủ đề “Sách - Sứ mệnh phát triển văn hóa đọc” với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú, thu hút trên 2.000 lượt người tham gia, đọc sách; cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc năm 2022 với chủ đề “Khát vọng phát triển đất nước” thu hút 6.919 bài dự thi; tổ chức Triển lãm sách báo 92/92 lần (đạt 100%) nhân các ngày lễ, kỷ niệm của đất nước; triển lãm sách online 10 cuộc với 460 quyển sách.
Hoạt động Bảo tàng: Triển lãm ảnh thường xuyên và lưu động 63 cuộc phục vụ các ngày lễ, kỷ niệm và các sự kiện chính trị với các chuyên đề: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản Việt Nam – Những mốc son lịch sử; Lập kênh Youtube Bảo tàng tỉnh Hậu Giang thực hiện đăng Video 09 Di tích: Chiến thắng Chương Thiện thành phố Vị Thanh, Chiến thắng Chương Thiện - Long Mỹ, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Đền thờ Bác Hồ, Chiến thắng Cái Sình, Chiến thắng Tầm Vu, Ủy ban Liên hiệp Đình chiến Nam bộ nhằm giới thiệu, quảng bá về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đến với mọi người. Tiếp 149 đoàn khách tham quan tại các di tích cấp Quốc gia đặc biệt Chiến thắng Chương Thiện tại thành phố Vị Thanh, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Tiểu đoàn Tây Đô, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu...
Lĩnh vực thể thao:
- Tổ chức thành công giải Marathon quốc tế Vietcombank Mekong Delta - Hậu Giang 2022, với sự tham gia của 8.500 vận động viên trong và ngoài tỉnh, trong đó 47 vận động viên nước ngoài đến từ 18 quốc gia.
- Tổ chức thành công Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Hậu Giang lần thứ IX năm 2022, gồm 17 môn thi đấu: Billiards, Kéo co, Đẩy gậy, Đá cầu, Việt dã, Bóng bàn, Cầu lông, Cờ tướng, Cờ vua, Quần vợt, Taekwondo, Điền kinh, Bơi lội, Bóng đá, Bóng chuyền, Võ cổ truyền và Vovinam. Tham dự có gần 2.000 vận động viên đến từ 10 đơn vị.
- Đăng cai tổ chức thành công giải vô địch trẻ Judo quốc gia năm 2022. Tham gia có hơn 500 vận động viên đến từ 23 tỉnh, thành, ngành trên cả nước.
- Tổng số giải đã tham gia là 32 giải, đạt 130 Huy chương các loại (38 Huy chương Vàng, 30 Huy chương Bạc, 62 Huy chương Đồng), trong đó:
+ Thể thao quần chúng: Tham gia 1 giải, đạt: 07 Huy chương Vàng, 03 Huy chương Bạc, 05 Huy chương Đồng, tham gia Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch đồng bào Khmer Nam Bộ lần thứ VIII năm 2022 tại tỉnh Sóc Trăng.
+ Thể thao thành tích cao: Tham gia 31 giải đạt: 31 Huy chương Vàng, 27 Huy chương Bạc, 57 Huy chương Đồng. Trong đó, nổi bật có 07 vận động viên được triệu tập vào Đoàn thể thao Việt Nam tham dự SEA Games 31 được tổ chức tại Việt Nam, kết quả đạt: 03 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Bạc, cụ thể: 01 Huy chương Vàng nhảy cao môn Điền kinh, 01 Huy chương Vàng môn Bi sắt nội dung đôi nữ, 01 Huy chương Vàng môn Judo nội dung Katame No Kata, 01 Huy chương Bạc Bi sắt nội dung bộ ba nữ.
- Số đội tuyển tỉnh đang tập trung đào tạo là 13 đội gồm: Bóng chuyền, Bi sắt, Judo, Karate, Cử tạ, Điền kinh, Cờ vua, Bóng rổ, Bắn cung, Đua thuyền, Vovinam, Jujitsu và Kickboxing với tổng số vận động viên là 133 vận động viên. Có 02 trọng tài tham gia làm nhiệm vụ tại Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31) được tổ chức tại Việt Nam (Bắn cung: 01, Kickboxing: 01); 13 vận động viên đang được triệu tập vào đội tuyển và đội tuyển trẻ quốc gia (Đội tuyển: 01 vận động viên Đua thuyền, 01 vận động viên Judo, 03 vận động viên Điền kinh, 03 vận động viên Bi sắt, 01 vận động viên Bóng rổ, 01 vận động viên Boxing; Đội tuyển trẻ: 01 vận động viên Judo, 02 vận động viên Boxing).
8.4. Y tế
Trong tháng, có 193 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 51 ca so với tháng trước, cộng dồn là 1.178 ca, tăng 1.123 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 119 ca mắc mới, giảm 24 ca so với tháng trước, cộng dồn là 801 ca, tăng 413 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, bệnh viêm gan do vi rút, quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Tình hình dịch Covid-19:
- Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7/2021) đến 17 giờ ngày 21/12/2022 tỉnh Hậu Giang có 53.141 người mắc, điều trị khỏi 52.826, chuyển viện 02, số người tử vong 311, số người đang được cách ly điều trị là 02 người. Hiện tại các Bệnh viện/Trung tâm Y tế đang triển khai khoa điều trị người nhiễm Covid-19.
- Tính đến ngày 21/12/2022 tổng số liều vắc xin đã được tiêm là 2.201.929 liều (đạt 101,9% so với số vắc xin được cấp). Trong đó 534.385 người từ 18 tuổi trở tiêm mũi 1 (đạt tỷ lệ 107%), 520.903 người từ 18 tuổi trở đã tiêm đủ 2 mũi (đạt 104,3%), 156.572 liều tiêm bổ sung, 425.020 liều tiêm nhắc lần 1 (trên 18 tuổi) đạt 85,1% và 189.199 liều tiêm nhắc lần 2 (trên 18 tuổi) đạt 81,4%; 74.059 trẻ em từ 12-17 tuổi tiêm vắc xin mũi 1 (đạt 112,2%), 73.157 trẻ em từ 12-17 tuổi được tiêm mũi 2 (đạt 110,8%), 57.671 trẻ tiêm nhắc lần 1 (đạt 87,3%); 91.140 trẻ em từ 05-11 tuổi tiêm vắc xin mũi 1 (đạt 104,56%), 79.903 trẻ em từ 05-11 tuổi tiêm vắc xin mũi 2 (đạt 91,70%).
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 00 trẻ, cộng dồn là 7.158 trẻ, đạt 66%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 00 trẻ, cộng dồn là 9.688 trẻ, đạt 85,1%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 808 thai phụ, cộng dồn là 10.696 thai phụ, đạt 95,8%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 56 ca (giảm 11 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.926 ca; số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (giảm 08 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca. Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (giảm 10 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 58 người, tổng số bệnh nhân điều trị ARV là 961 người.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 12/2022: Tổng số lần khám là 126.865 lượt, cộng dồn là 1.371.050 lượt, đạt 113,64% kế hoạch, giảm 10,66% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 9.802 lượt, cộng dồn là 93.906 lượt, đạt 69,83% kế hoạch, tăng 3,7% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,40 ngày, tăng 0,56 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 5.679 trường hợp, tăng 3.373 trường hợp so với cùng kỳ.
8.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Trong tháng 12/2022 trên địa bàn tỉnh xảy ra 07 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 06 vụ, đường thủy 01 vụ), làm chết 06 người (đường bộ 05 người, đường thủy 01 người), bị thương 03 người (tập trung ở đường bộ). So với tháng 11/2022 số vụ tăng 03 vụ (đường bộ tăng 02 vụ, đường thủy tăng 01 vụ), số người chết tăng 03 người (đường bộ tăng 02 người, đường thủy tăng 01 người) và số người bị thương tăng 02 người (tập trung ở đường bộ). So với cùng kỳ năm 2021, số vụ giảm 18 (tập trung ở đường bộ), số người chết giảm 15 người (đường bộ giảm 16 người, đường thủy tăng 01 người) và số người bị thương giảm 06 người (tập trung ở đường bộ). Nguyên nhân do không chú ý quan sát là 04 vụ, đi không đúng phần đường 02 vụ, lỗi không đúng luồng: 01 vụ.
Tính chung 12 tháng năm 2022 (từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/12/2022), toàn tỉnh xảy ra 63 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 62 vụ, đường thủy 01 vụ), làm chết 59 người (đường bộ 58 người, đường thủy 01 người), bị thương 14 người (tập trung ở đường bộ). So cùng kỳ năm 2021, số vụ giảm 14 vụ (đường bộ giảm 13 vụ, đường thủy giảm 01 vụ), số người chết giảm 06 người và số người bị thương giảm 13 người (tập trung ở đường bộ).
8.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh phát hiện 01 vụ vi phạm môi trường về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường nhưng chỉ xử lý phạt cảnh cáo. So với cùng kỳ, số vụ vi phạm tăng 01 vụ, xử lý giảm 03 vụ, không có số tiền xử phạt (tháng 11 năm 2021, không phát hiện vi phạm môi trường, xử lý 04 vụ, không có số tiền xử phạt). Tích lũy từ đầu năm: Số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 51 vụ, xử lý 51 vụ với số tiền xử phạt là 591 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về an toàn thực phẩm, xả nước thải, khí thải vượt chuẩn cho phép và vi phạm quy định về vệ sinh thú y; vi phạm về thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ vi phạm không tăng, không giảm, số tiền xử phạt giảm 127 triệu đồng (năm 2021, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 51 vụ, xử lý 51 vụ, xử phạt 718 triệu đồng).
Tình hình thiên tai: Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 20.258,13 triệu đồng, tăng 8.826,31 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2021. Cụ thể:
- Sạt lở: Trong tháng xảy ra 01 vụ sạt lở với diện tích mất đất 24m2 (dài 8m, rộng 3m). So với tháng trước, không xảy ra sạt lở; So với cùng kỳ năm 2021, không xảy ra sạt lở. Lũy kế từ đầu năm đến nay xảy ra 18 trường hợp sạt lở, không có trường hợp nhà bị cuốn trôi, diện tích mất đất 2.858m2, ước tổng thiệt hại 2.070 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021, giảm 12 vụ (diện tích mất đất giảm 1.599m2 và ước giá trị thiệt hại giảm 384 triệu đồng).
- Lốc, sét, mưa đá: Trong tháng không xảy ra dông lốc. So với tháng trước, có 1 vụ dông lốc làm tốc mái 01 căn nhà ước thiệt hại 20 triệu đồng; So với cùng kỳ năm 2021, xảy ra 01 vụ dông lốc làm sập 01 căn nhà ước thiệt hại 20 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, sập 15 căn nhà, tốc mái 64 căn nhà và 02 phòng của Ban giám hiệu, ngã 01 trụ viễn thông, tốc mái 01 trụ sở UBND xã ước thiệt hại 1.954 triệu đồng. Cùng kỳ năm 2021, xảy ra 05 vụ làm sập 15 căn nhà, tốc mái 65 căn nhà và 01 nhà kho, ước giá trị thiệt hại 3.044,50 triệu đồng.
- Mưa lớn, lũ, ngập lụt: Do bị ảnh hưởng triều cường biển Đông và kết hợp mưa tại chỗ nhiều ngày gây ngập trên diện rộng địa bàn tỉnh Hậu Giang gây thiệt hại cụ thể như sau: Cây lúa thu Đông 256,50 ha; cây ăn trái 4.510 ha; hoa màu 475,58 ha; cây mía 488,61 ha; thủy sản 375,62 ha; gia súc, gia cầm là 28 con, ước giá trị thiệt hại 16.234,13 triệu đồng. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh có Tờ trình xin ý kiến thường trực UBND tỉnh hỗ trợ cho người dân bị thiệt hại ở các địa phương là 16.234,13 triệu đồng. Hiện nay, Ban chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh xin chủ trương Ủy ban nhân dân tỉnh hỗ trợ cho người dân bị thiệt hại.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 04 vụ cháy, không thiệt hại về người, ước tổng tài sản thiệt hại khoảng 1.400 triệu đồng./.
[1] Trong mức tăng 3,82% của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, đóng góp nhiều nhất là sản xuất nông nghiệp và thủy sản, trong đó: Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng 3,65%, đóng góp 0,91 điểm phần trăm; thủy sản tăng trưởng 5,73%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm.
[2] Trong đó ngành công nghiệp đóng góp cao nhất với mức tăng trưởng 43,86%, đóng góp 8,36 điểm phần trăm.
[3] Nhờ vào sự tăng trưởng mạnh của các ngành thương mại, dịch vụ ăn uống và một số dịch vụ khác, cụ thể: Ngành bán lẻ tăng 14,58%, đóng góp 0,65 điểm phần trăm; bán buôn tăng 17,75%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; lưu trú và ăn uống tăng 11,77%, đóng góp 0,62 điểm phần trăm; vận tải kho bãi tăng 8,14%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
[4] Ước tính vốn đầu tư thực hiện tăng so với tháng trước là do các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh; được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh trong việc giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn, vướng mắc, đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[5] Nguyên nhân là do dịch Covid-19 hiện đã được kiểm soát tốt, các doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, những dự án khởi công mới được khẩn trương triển khai thực hiện để hoàn thành kịp tiến độ kế hoạch đã đề ra. Các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, góp phần làm tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng so với cùng kỳ năm trước.
[6] Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng.
[7] Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 81,85 ha, tăng 4,76% (bằng 3,72 ha) so cùng kỳ.
[8] Trong đó, diện tích nuôi tôm sú 96,5 ha, tăng 11,32% so với cùng kỳ, tập trung ở huyện Long Mỹ (Nuôi trong ruộng lúa).
[9] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, nuôi cá tra công nghiệp được hộ nuôi đầu tư mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân.
[10] Hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có trên 237 doanh nghiệp, Trong đó, khoảng 6,32% doanh nghiệp có giá trị sản xuất trên 500 tỷ đồng/năm trở lên nhưng giá trị sản xuất công nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 69,80% trong toàn tỉnh, từ đầu năm đến nay, một số doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động sản xuất có hiệu quả, tăng sản lượng sản xuất so với cùng kỳ như: Công ty CP Thủy sản Minh Phú-Hậu Giang; Công ty hải sản Việt Hải; Công ty CP thức ăn chăn nuôi RICO Hậu Giang; Công ty TNHH Number One Hậu Giang; Công ty TNHH MTV Masan HG; Công ty TNHH Lạc Tỷ II; Công ty TNHH MTV Xi măng Cần Thơ - Hậu Giang; Công ty TNHH MTV bê tông HAMACO Hậu Giang và Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, (đầu tư hoàn thành và đi vào hoạt động chính thức sau thời gian chạy thử, từ ngày 01/6/2022 đến nay),… tổng giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trên đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp chung của toàn tỉnh trên 29.558,72 tỷ đồng theo giá hiện hành, tăng 83,53% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng trên 54,72% trong toàn ngành và đóng góp 32,59 điểm phần trăm vào mức tăng chung của tỉnh trong 12 tháng năm 2022. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
File đính kèm: Bao_cao_KTXH_thang_12.2022.docSo_lieu_KTXH_thang_12.2022.xlsx