Trong 9 tháng năm 2022,tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát tốt, các hoạt động sản xuất, thương mại được diễn ra liên tục, để khôi phục và phát triển kinh tế Tỉnh cũng đã tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư. Vì vậy, mà các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh trong 9 tháng năm 2022 tăng trưởng hơn so với cùng kỳ. Cụ thể kết quả đạt được từng lĩnh vực như sau:
1. Tài chính, tín dụng
1.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 9/2022 được 704,07 tỷ đồng, luỹ kế được 10.146,34 tỷ đồng, đạt 116,03% dự toán Trung ương, đạt 88,61% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được 389,81 tỷ đồng, luỹ kế được 4.670,02 tỷ đồng, đạt 102,82% dự toán Trung ương, đạt 97,29% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa được 330 tỷ đồng, luỹ kế được 4.131,76 tỷ đồng, đạt 102,22% dự toán Trung ương và đạt 96,09% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu được 59,81 tỷ đồng, luỹ kế được 538,27 tỷ đồng, đạt 107,65% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp được 314,26 tỷ đồng, luỹ kế được 3.134,21 tỷ đồng, đạt 74,58% dự toán Trung ương, đạt 72,11% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 9/2022 được 692,81 tỷ đồng, luỹ kế được 6.329,14 tỷ đồng, đạt 81,97% dự toán Trung ương giao, đạt 60,84% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản được 357,23 tỷ đồng, luỹ kế được 3.215,04 tỷ đồng, đạt 99,45% dự toán Trung ương giao, đạt 66,62% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên được 335,58 tỷ đồng, luỹ kế được 3.020,23 tỷ đồng, đạt 69,21% dự toán Trung ương giao, đạt 57,44% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
1.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31/8/2022, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 18.716 tỷ đồng, tăng trưởng 9,88% so với cuối năm 2021. Vốn huy động đáp ứng được 56,47% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 9.544 tỷ đồng (chiếm 50,99% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.172 tỷ đồng (chiếm 49,01% tổng huy động). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,2%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng ở mức 3,0-5,2%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng ở mức 3,7-6,9%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên ở mức 4,9-7,5%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2022, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt18.755 tỷ đồng, tăng trưởng 10,11% so với cuối năm 2021.
Đến ngày 31/8/2022, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 33.141 tỷ đồng, tăng trưởng 12,12% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 16.464 tỷ đồng (chiếm 49,68% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 16.677 tỷ đồng (chiếm 50,32% tổng dư nợ). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,5%/năm; cho vay trung, dài hạn ở mức 8,8 -12,4%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn từ 9,0-9,5%/năm; trung, dài hạn từ 10,5 - 13%/năm.Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2022, dư nợ đạt 33.260 tỷ đồng, tăng trưởng 12,52% so với cuối năm 2021.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 8/2022 là 797 tỷ đồng, chiếm 2,41%/tổng dư nợ; nợ xấu là 463 tỷ đồng, chiếm 1,40%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 334 tỷ đồng, chiếm 41,91%/tổng nợ quá hạn. Ước thực hiện đến cuối tháng 9/2022, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra (thấp hơn 3%/tổng dư nợ).
2. Đầu tư và xây dựng
2.1. Vốn đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2022 là 18.928,03 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước 3.277,43 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 850,60 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 14.800 tỷ đồng.
Ước tính tháng 9/2022, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 1.718,59 tỷ đồng, tăng 3,48%[1] so với tháng trước và tăng 36,59% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 350,45 tỷ đồng, bằng 105,13% so với tháng trước và bằng 175,09% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 65,35 tỷ đồng, bằng 108,46% so với tháng trước và bằng 72,16% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.302,79 tỷ đồng, bằng 102,80% so với tháng trước và bằng 134,65% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 9 tháng năm 2022, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 15.075,79 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 113,86% và đạt 79,65% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 2.226,02 tỷ đồng, bằng 142,68% so với cùng kỳ năm trước và đạt 67,92% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 682,55 tỷ đồng, bằng 77,77% so với cùng kỳ năm trước và đạt 80,24% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện được 12.167,22 tỷ đồng, bằng 112,63% so với cùng kỳ năm trước và đạt 82,21% so với kế hoạch năm.
2.2. Xây dựng
Giá trị sản xuất ngành xây dựng ước quý III/2022: Tính theo giá so sánh 2010 được 1.498,19 tỷ đồng, tăng 2,28% so với quý trước và tăng 6,88% so với cùng kỳ năm trước; Tính theo giá hiện hành được 2.523,78 tỷ đồng, tăng 3,62% so với quý trước và tăng 17,88% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng cao so với cùng kỳ năm trước là do quý III/2022 các doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn so với cùng kỳ (cùng thời điểm năm 2021 các doanh nghiệp bị ảnh hưởng dịch Covid-19 nên các doanh nghiệp xây dựng hoạt động không liên tục). Vì vậy, quý III/2022 giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng cao so với cùng kỳ. Trong đó:
- Công trình nhà ở thực hiện được 1.514,89 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,02% trong toàn ngành, tăng 4,54% so quý trước và tăng 19,35% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng so cùng kỳ docác công trình xây dựng nhà để ở của hộ dân cư, là loại công trình có thời gian khởi công và hoàn thành ngắn, thủ tục thanh toán hợp đồng đơn giản và chịu sự giám sát của chủ hộ, nên các dự án công trình xây dựng nhà đều hoàn thành và thanh lý hợp đồng đúng tiến độ, do đó giá trị sản xuất tăng so với cùng kỳ.
- Công trình nhà không để ở thực hiện được 433,54 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 17,18% trong toàn ngành, tăng 5,86% so với quý trước và giảm 0,80% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định trong tình hình mới, nên một số doanh nghiệp đã đầu tư khởi công một số công trình lớn như: sửa chữa trụ sở làm việc cơ quan, trường học; xây mới nhà văn hóa xã, … Vì vậy, giá trị sản xuất ngành xây dựng nhà không để ở tăng so với quý trước và giảm nhẹ so với cùng kỳ năm trước là do một số dự án nhà kho, nhà xưởng của các công ty lớn tại các khu, cụm công nghiệp đã hoàn thành trong những quý vừa qua nên danh mục các công trình loại này giảm so với cùng kỳ.
- Công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 499,31 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,78% trong toàn ngành, tăng 1,04% so với quý trước và tăng 34,99% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do hiện nay đang vào thời điểm thực hiện các công trình xây mới, dặm vá sửa chữa các tuyến đường nông thôn để thực hiện việc xây dựng mục tiêu nông thôn mới, nên các công ty đã và đang đẩy nhanh tiến độ các gói thầu, để hoàn thành và bàn giao trong thời gian sớm nhất, nên giá trị sản xuất các công trình kỹ thuật dân dụng tăng so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 76,04 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,01% trong toàn ngành,giảm 8,15% so với quý trước và tăng 17,41% so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng ước 9 tháng năm 2022: Tính theo giá so sánh 2010 được 4.360,06 tỷ đồng, tăng 6,83% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành được 7.170,84 tỷ đồng, tăng 17,98% so với cùng kỳ năm trước.Trong đó:
- Công trình nhà ở thực hiện được 4.173,38 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,20% trong toàn ngành và tăng 15,57% so với cùng kỳ năm trước.
- Công trình nhà không để ở thực hiện được 1.395,08 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,45% trong toàn ngành và tăng 9,82% so với cùng kỳ.
- Công trình kỹ thuật dân dụng thực hiện được 1.389,48 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 19,38% trong toàn ngành và tăng 39,93% so với cùng kỳ năm trước.
- Hoạt động xây dựng chuyên dụng thực hiện được 212,88 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,01% trong toàn ngành vàtăng 4,62% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, giá trị sản xuất ngành xây dựng ước thực hiện 9 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ năm trước là do dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt hơn so với cùng thời điểm năm 2021. Vì vậy, các doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn so với cùng kỳ. Ngoài ra, tăng một phần là do hiện nay những dự án khởi công mới được khẩn trương triển khai thực hiện và tiến độ xây dựng đạt kế hoạch đã đề ra, để có được kết quả trên, các ngành chức năng có liên quan phối hợp chặt chẽ đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác đấu thầu; các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, góp phần làm tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng so với cùng kỳ năm trước.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Tính từ ngày 20/8/2022 đến 20/9/2022, toàn tỉnh có 79 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng số vốn đăng ký là 341,30 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng gấp 426% về số doanh nghiệp và tăng gấp 124% về số vốn doanh nghiệp); có 01 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, với số vốn 3,9 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 6,7% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 96,9%). Trong tháng có 14 doanh nghiệp hoạt động lạitrở lại và không có doanh nghiệp đăng ký giải thể.
Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh có 708 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 4.375,76 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 75% về số doanh nghiệp và tăng 151% về vốn); có 106 doanh nghiệp đăng ký thủ tục giải thể, với tổng số vốn 113,52 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 92,7% về số doanh nghiệp, tăng 125,3% về vốn); có 182 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, với tổng vốn 1.050,37 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 78% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 125%). Nguyên nhân do kinh doanh không hiệu quả.
Xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Hiện nay trên địa bàn tỉnh có trên 212 doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó, có trên 71,79% doanh nghiệp đánh giá tình sản xuất quý tiếp theo tăng hơn so với quý hiện tại, có trên 15,38% doanh nghiệp đánh giá quý tiếp theo không có biến động nhiều so với quý hiện tại và còn lại 12,82% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất quý tiếp theo gặp khó khăn, sản lượng không tăng so với quý hiện tại. Vì vậy, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hậu Giang vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định và bền vững so với cùng kỳ.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
4.1. Nông nghiệp
4.1.1. Trồng trọt
Lúa Đông xuân 2021-2022: Toàn tỉnh đã xuống giốngđược 76.626,1 ha, đạt 100,56% kế hoạch tỉnh (76.200 ha), giảm 0,51% (bằng 395,6 ha) so với cùng kỳ. Các giống lúa sử dụng chủ yếu là: OM18 chiếm 36,7%, Đài thơm 8 chiếm 32,9%, RVT chiếm 14,3%, OM5451 chiếm 9,1%, ST24 chiếm 2,6%, IR50404 chiếm 2,37%, còn lại 2,03% các giống khác như: ST25, Jasmine 85, OM6976, … Chính thức năng suất đạt 77,81 tạ/ha, giảm 0,47% (bằng 0,37 tạ/ha). Sản lượng đạt 596.228 tấn, giảm 0,98% (bằng 5.928,28 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân năng suất giảm do một số huyện trên địa bàn tỉnh trong thời gian thu hoạch xảy ra mưa lớn kéo dài gây đổ ngã diện tích lúa trong giai đoạn trổ chín đến thu hoạch.
Lúa Hè thu 2022: Xuống giống được 76.368,8 ha, đạt 101,15% kế hoạch tỉnh (75.500 ha), giảm 0,32% (bằng 247,2 ha) so với cùng kỳ. Các giống lúa sử dụng chủ yếu là03 giống thuộc nhóm giống chất lượng cao như: OM5451, OM18, Đài Thơm 8, cụ thể: OM18 chiếm 69%, OM5451 chiếm 20%, Đài Thơm 8 chiếm 7%, còn lại là các giống khác như RVT, IR50404,… chiếm 4%.Năng suất đạt 61,05 tạ/ha, giảm 2,29% (bằng 1,43 tạ/ha). Sản lượng đạt 466.232 tấn, giảm 2,6% (bằng 12.465 tấn). Một số huyện, thị xã thu hoạch muộn nên chịu ảnh hưởng của mưa bão làm cho năng suất giảm mạnh so với cùng kỳ như: thị xã Long Mỹ năng suất đạt 60,74 tạ/ha, giảm 3,22% (bằng 2,02 tạ/ha); huyện Phụng Hiệp năng suất đạt 60,36 tạ/ha, giảm 3,13% (bằng 1,95 tạ/ha); huyện Long Mỹ năng suất đạt 61,26 tạ/ha, giảm 2,34% (bằng 1,47 tạ/ha) so với cùng kỳ.
Lúa Thu đông 2022: Hiện nay đã xuống giống được 35.361,8 ha, đạt 101,03% kế hoạch tỉnh (35.000 ha), diện tích xuống giống tập trung nhiều tại các huyện Vị Thủy, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Vị Thanh. Lúa đang giai đoạn mạ đến trổ chín, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống lúa sử dụng chủ yếu là 03 giống thuộc nhóm giống chất lượng cao như: OM5451, OM18, Đài Thơm 8, cụ thể: OM18 chiếm 54,55%, OM5451 chiếm 41,35%, Đài Thơm 8 chiếm 2,72%, còn lại các giống khác như RVT, IR50404, OM6976,… chiếm 1,38%.
Mía niên vụ 2021-2022: Hiện nay đã xuống giống dứt điểmđược 3.842,2 ha, đạt 96,06% kế hoạch tỉnh (4.000 ha), giảm 23,3% (bằng 1.167,5 ha) so với cùng kỳ, diện tích mía toàn tỉnh tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy.Đến nay, đã thu hoạch được 1.559 ha, giá bán 1.800-2.000 đồng/kg (bán mía nước). Mía còn lại ở giai đoạn phân lóng đến sắp thu hoạch, đang sinh trưởng và phát triển tốt. Trong tháng, có 47 ha nhiễm sinh vật gây hại (tăng 2 ha so với tháng trước) gồm: chuột, rệp sáp, sâu đục thân, rầy đầu vàng, rỉ sắt và đốm vòng,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng 2.053 ha, so cùng kỳ năm trước giảm12,75% (bằng 300,11 ha). Năng suất đạt 60,69 tạ/ha, giảm0,34% (bằng 0,21 tạ/ha). Sản lượng được 10.705,64 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm9,01% (bằng 1.060,26 tấn).Diện tích gieo trồng giảm do thay đổi mùa vụ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng 22.197,7 ha, so với năm trước tăng 13,13% (bằng 2.576,7 ha). Ước sản lượng được 229.199,07 tấn, tăng 9,15% (bằng 19.210,34 tấn). Diện tích gieo trồng và thu hoạch tăng mạnh so với cùng kỳ do người nông dân tích cực xuống giống rau màu theo kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất rau màucủa ngành chức năng.
Hiện tại ngành Nông nghiệp tiếp tục chỉ đạo theo dõi tình hình sản xuất vụ Thu đông năm 2022 đảm bảo đạt hiệu quả. Thường xuyên thăm đồng và nắm tình hình sinh vật gây hại, kịp thời hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật kịp thời trên tất cả các loại cây trồng khác ở các huyện, thị xã, thành phố. Tiếp tục theo dõi tình hình mưa bão, chủ động phối hợp với các đơn vị chuyên môn và địa phương để có biện pháp chỉ đạo kịp thời, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai.
- Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu:
+ Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có ước được 3.087,15 ha, đạt 102,91% so kế hoạch năm (3.000 ha) và tăng 6,15% (bằng 178,90 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 9 tháng ước được 24.015,43 tấn, đạt 53,37% so kế hoạch năm (45.000 tấn) và tăng 9,94% (bằng 2.170,33 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Đây là sản phẩm chủ lực của tỉnh.
+ Cây bưởi: Diện tích hiện có ước được 1.664,14 ha, đạt 102,72% so kế hoạch năm (1.620 ha) và tăng 4,96% (bằng 78,70 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 9 tháng ước được 10.590,55 tấn, đạt 70,60% so kế hoạch năm (15.000 tấn) và tăng 6,62% (bằng 657,55 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
+ Cây mít: Diện tích hiện có ước được 9.491,24 ha, đạt 98,25% so kế hoạch năm (9.660 ha) và tăng 14,68% (bằng 1.215,19 ha) so với cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu ở các huyện như: Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Sản lượng ước 9 tháng được 60.875,20 tấn, đạt 67,64% so kế hoạch năm (90.000 tấn) và tăng 30,64% (bằng 14.278,20 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng khá.
+ Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.803,20 ha, đạt 113,03% so kế hoạch năm (2.480 ha) và tăng 2,42% (bằng 66,25 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 9 tháng được 22.233,16 tấn, đạt 67,58% so kế hoạch năm (32.900 tấn) và tăng 6,27% (bằng 1.312,16 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch và năng suất tăng.
+ Cây mãng cầu: Diện tích hiện có ước 719,11 ha, đạt 95,88% so kế hoạch năm (750 ha) và tăng 4,19% (bằng 28,89 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 9 tháng ước được 5.743,21 tấn, đạt 67,57% so kế hoạch năm (8.500 tấn) và tăng 17,21% (bằng 843,21 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
4.1.2. Chăn nuôi
Ngành chức năng tiếp tục duy trì công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt,…; thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính đếntháng 9/2022, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.435 con, đạt 95,03% kế hoạch năm (1.510 con), tăng 1,85% (bằng 26 con) so với cùng kỳ. Đàn bò ước được 3.673 con, đạt 101,19% kế hoạch năm (3.630 con), tăng3,93% (bằng 139 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 143.406con, đạt 106,23% kế hoạch năm (135.000 con), tăng 8,67% (bằng 11.446con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 101.164con, tăng 7,3% (bằng 6.885con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.139,51 ngàn con, đạt 93,02% kế hoạch năm (4.450 ngàn con), tăng 3,3% (bằng 132,21 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: đàn gà 1.479,16 ngàn con, tăng 6,09% (bằng 84,85 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
Về tình hình dịch bệnh: Ngày 14/8/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 ổ dịch tại hộ ông Tô Văn Sơn thuộc ấp Tân Quới Kinh, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp. Tổng số heo chết và tiêu hủy do dịch bệnh là 47 con heo thịt, với tổng trọng lượng 933 kg. Đến nay, dịch tả lợn Châu Phi đãđược khống chế. Tính từ ngày tiêu hủy cuối cùng (20/8/2022) đến nay đã qua hơn 21 ngày trên địa bàn tỉnh không có heo chết và tiêu hủy do bệnh.
4.2. Lâm nghiệp
Ước tính 9 tháng năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung được 183,75 ha, tăng 1,35% so với cùng kỳ. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.415,18 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 2,22% (bằng 30,72 ngàn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 11.434,55 m3, tăng 2,40% (bằng 268,19 m3). Sản lượng củi khai thác được 60.559,27 ste, tăng 1,07% (bằng 641,62 ste) so với cùng kỳ.
Công tác phòng cháy chữa cháy rừng: Từ đầu năm đến nay được đảm bảo, không xảy ra vụ cháy rừng nào trên địa bàn tỉnh.
Công tác bảo vệ rừng: Công tác thẩm định, giám sát, kiểm tra, khai thác rừng đảm bảo đúng quy định, công tác phòng chống cháy rừng đã quán triệt và làm tốt nên diện tích rừng được bảo vệ an toàn.
4.3. Thủy sản
Trong tháng 9/2022, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 377,99 ha, tăng 372,07% (bằng 297,92 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tăng mạnh chủ yếu do hộ nuôi trên ruộng lúa vụ Thu đông có hiệu quả hơn. Tính chung 9 tháng năm 2022, diện tích nuôi thủy sản (không tính diện tích nuôi lồng bè, bể bồn) ước tính nuôi được 8.660,27 ha, đạt 100,12% so kế hoạch năm (8.650 ha) và tăng 9,62% (bằng 759,72 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 8.479,74 ha[2], tăng 9,68% (bằng 748,48 ha); diện tích nuôi tôm 108,50 ha[3], tăng 10,58% (bằng 10,38 ha); diện tích nuôi thủy sản khác là 72,03 ha, tăng 1,21% (bằng 0,86 ha) so với cùng kỳ.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 9/2022 ước được 10.379,44 tấn, tăng 5% (bằng 494,43 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng ước được 51.158,21 tấn, đạt 61,64% so kế hoạch năm (83.000 tấn) và tăng 3,62%[4] (bằng 1.787,47 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác 9 tháng được 2.053,24 tấn, đạt 76,05% so kế hoạch năm (2.700 tấn) và giảm 1,26% (bằng 26,25 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng ước được 49.104,97 tấn, đạt 61,15% so kế hoạch năm (80.300 tấn) và tăng 3,84% (bằng 1.813,73 tấn) so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá thát lát thu hoạch được 3.079,85 tấn, tăng 14,99% (bằng 401,49 tấn) so cùng kỳ, sản lượng lươn thu hoạch được 529,91 tấn, tăng 8,16% (bằng 39,99 tấn) so với cùng kỳ.
5. Tình hình sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 9/2022: Tính theo giá so sánh 2010, được 2.979,73 tỷ đồng, tăng 2,09% so với tháng trước và tăng 44,12% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá hiện hành, được 4.612,09 tỷ đồng, tăng 2,44% so với tháng trước và tăng 51,29% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do trong tháng 9/2022 các doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn so với cùng kỳ (cùng thời điểm năm 2021 các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp phòng, chóng dịch Covid-19, nên một số doanh nghiệp giảm sản lượng sản xuất hoặc tạm ngừng hoạt động). Ngoài ra, tăng một phần là dosau khi dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã ký thêm được nhiều hợp đồng có giá trị cao, với một số thị trường mới như: Trung Quốc; Hong kong; Philippines; Thái Lan và một số nước thành viên EU,… nên một số ngành có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 62,70%; sản xuất đồ uống tăng 108,05%; sản xuất trang phục tăng 163,65% so với cùng kỳ,... Bên cạnh đó, nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đầu tư hoàn thành và đi vào hoạt động chính thức sau thời gian chạy thử, từ ngày 01/6/2022. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất tháng này tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện 9 tháng năm 2022:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 25.119,44 tỷ đồng, tăng 20,56% so với cùng kỳ năm trước và đạt 73,96% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 38.074,68 tỷ đồng, tăng 26,54% so với cùng kỳ năm trước và đạt 74,25% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 3.211,13 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 8,43% trong toàn ngành và tăng rất cao so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 225 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 25.968,15 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 68,20% trong toàn ngành và tăng 18,62% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 8.895,39 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 23,36% trong toàn ngành và tăng 10,34% so với cùng kỳ.
Ước thực hiện 9 tháng tăng so với cùng kỳ là do từ đầu năm đến nay một số doanh nghiệp đầu tư hoàn thành, đi vào hoạt động ổn định như: Công ty TNHH MTV Vật liệu xây dựng Xanh Hamaco, sản xuất xi măng các loại; Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu I, sản xuất nhiệt điện than; Công ty TNHH MTV Nhựa Sinh Học Hậu Giang,… các doanh nghiệp trên đã đóng góp trên 3.361 tỷ đồng (theo giá hiện hành), vào giá trị sản xuất chung của ngành công nghiệp. Vì vậy, giá trị sản xuất ước 9 tháng đầu năm tăng rất cao so với cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh ước9 thángnăm 2022 so với cùng kỳ:
- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 31.201,92 tấn, đạt 86,05% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và tăng 27,92% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 8.505,22 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 54,24% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 22,34% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty CP thủy sản Minh Phú Hậu Giang, từ đầu năm đến nay nhận được nhiều hợp đồng lớn nên tuyển thêm lao động để tăng sản lượng sản xuất (lao động doanh nghiệp tăng 36,52% và sản lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng 27,87% so với cùng kỳ). Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 9 tháng tăng rất cao so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 255.826,09tấn, đạt 109,39% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và tăng 27,03% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.194,98 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 14,02% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 5,78% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.
- Sản lượng sản xuất bia đóng chai được 74triệu lít, đạt 64,35% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và tăng 12,10% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 212,4 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 6,01% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 0,56% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan Brewery Hậu Giang với sản phẩm chính là bia các loại, sau khi các cơ sở dịch vụ ăn uống hoạt động trở lại, công ty cũng tăng sản lượng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong khu vực, nên giá trị sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 150,48 triệu lít, tăng 34,84% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.173,09 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,35% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 5,71% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do Công ty TNHH MTV Masan HG, đầu tư hoàn thành dây chuyền sản xuất, nước uống tăng lực vị cà phê Wake up 247 từ những tháng cuối năm 2021 đến nay, với sản lượng sản xuất trên 6 triệu lít/tháng và Công ty TNHH Number One Hậu Giang tăng sản lượng đột biến vào tháng 3/2022 đến nay (sản lượng ước 9 tháng năm của doanh nghiệp tăng 34,84% so với cùng kỳ),nên đã làm tăng giá trị sản xuất9 tháng năm 2022 ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất giày dép các loại được 12.915,81 ngàn đôi, đạt 87,04% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng đầu năm của tỉnh và tăng 22,28% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 3.732,14 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 91,41% trong ngành sản xuất giày dép các loại và chiếm tỷ trọng 9,8% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là dohiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này, trong những tháng đầu nămdoanh nghiệp nhận được nhiều hợp đồng lớn và yêu cầu chất lượng cao, nên doanh nghiệp tăng sản lượng trên 19,57% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 9tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ.
- Ở chiều ngược lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19, từ giữa năm 2021 đến nay và giá xăng dầu biến động tăng, giảm bất thường trong những tháng gần đây, làm chi phí vận tải, phí dịch vụ xuất, nhập khẩu tăng, nên một số doanh nghiệp chưa phục hồi trở lại như trước dịch, làm sản lượng sản xuất giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất giấy và bìa giấy các loại được 340.916 tấn, đạt 32,22% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và giảm 4,58% so với cùng kỳ; sản lượng phi lê cá và các loại thịt cá khác được 74 tấn, đạt 14,04% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và giảm 77,58% so với cùng kỳ; sản lượng thuốc trừ côn trùng được 261,88 tấn, đạt 40,98% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và giảm 31,97% so với cùng kỳ; sản lượng thuốc diệt nấm được 203,9 tấn, đạt 19% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và giảm 64,93% so với cùng kỳ; sản lượng thuốc diệt cỏ, Thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hoà sinh trưởng cây trồng được 140,99 tấn, đạt 58,02% so với kịch bản tăng trưởng 9 tháng của tỉnh và giảm 7,58% so với cùng kỳ,… các sản phẩm trên có giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được5.113,65 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,43% trong toàn ngành và giảm 11,08% về giá trị so với cùng kỳ. Riêng, ngành sản xuất giấy và bìa giấy tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 4.483 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 87,06% trong ngành sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy, chiếm tỷ trọng 11,17% trong toàn ngành, giảm 9,61% về giá trị so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của Tỉnh.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 9 tháng năm 2022 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu tăng cao trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy Công ty TNHH Sunpro Capital Group Limited, đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 9/2022, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 2,39% so với tháng trước và tăng 27,71% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,27% so với tháng trước và tăng 22,68% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 4,97% so với tháng trước và tăng rất cao so với cùng kỳ (Nguyên nhân do ngày 01/6/2022, các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế, nên dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 9 đạt 295 triệu kwh, tăng 4,98% so với tháng trước); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,31% so với tháng trước và tăng 5,61% so với cùng kỳ năm trước.
Dự tính 9 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 16,21% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn rất nhiều mức tăng 2,77% của 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo là ngành chiếm tỷ trọng lớn trên 88,85% trong toàn ngành và tăng 13,26% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 2,72% của 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 826,12% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn rất nhiều so với mức tăng 6,79% của 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,08% so với cùng kỳ năm trước, nên làm chỉ số sản xuất công nghiệp chung của toàn tỉnh tăng cao so với cùng kỳ.
Một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh:
- Ngành sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 21,53% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số ngành tăng cao như; Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 70,22% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 29,32% so với cùng kỳ (Nguyên nhân là do Công ty cổ phần thủy sản Minh Phú Hậu Giang, sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, doanh nghiệp tuyển thêm lao động, tăng sản lượng sản xuất và ký được nhiều hợp đồng mới từ các nước như: Mỹ, EU, Nhật,… nên làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ); chế biến và bảo quản rau quả tăng 14,81%; Sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 27,03% so với cùng kỳ năm trước,... Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước.
- Sản xuất đồ uống tăng 28,15% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan HG với sản phẩm chính là nước uống có hương vị cà phê (Wake up 247), đi vào hoạt động ổn định từ giữa năm 2021 đến nay, sản lượng sản xuất 9 tháng năm 2022 được 47,04 triệu lít, tăng 57,20% so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,57% so với cùng kỳ năm trước. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 03 doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong ngành này, đóng góp trên 3.732 tỷ theo giá hiện hành trong 9 tháng năm 2022, trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được những hợp đồng sản xuất giày thể thao có chất lượng cao, đã làm giá trị tăng từ 25 đến 30% so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 826,12% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng rất cao so với cùng kỳ là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I chạy thử từ tháng 01 đến tháng 5 năm 2022 và chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế của thị trường từ tháng 6 năm 2022 đến nay, nên dự tính sản lượng điện sản xuất 9 tháng đạt 1,54 tỷ kwh. Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số ngành này so với cùng kỳ năm trước.
6. Hoạt động thương mại, dịch vụ
6.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ
Thị trường hoạt động bán lẻ, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ tiêu dùng trong tháng có mức tăng trưởng nhẹ do trong tháng diễn ra Tết trung thu và hoạt động khai giảng năm học mới của các trường trên địa bàn tỉnh, nên hầu như các hoạt động thương mại và dịch vụ nói chung diễn ra khá sôi động, hoạt động mua bán hàng hóa diễn ra nhộn nhịp, các dịch vụ giáo dục phục vụ năm học mới tăng trưởng khá.
Vì vậy, ước tính tháng 9/2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 4.183,79 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,50% và so với cùng kỳ năm trước bằng 140,39%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.125,36 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,15% và so với cùng kỳ năm trước bằng 122,30%[5]. Trong tháng thị trường bán lẻ hàng hóa trên địa bàn diễn ra khá sôi động, nguồn cung các mặt hàng, nhất là các hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, giá cả không có biến động lớn. Một số mặt hàng nông sản, thực phẩm giá có xu hướng giảm nhẹ nhưng vẫn ở mức cao như: trứng gia cầm, thịt gà,…, riêng giá thịt lợn sau khi giảm thì bất ngờ có xu hướng tăng trở lại; giá của các mặt hàng nhóm nhiên liệu xăng dầu, khí đốt tiếp tục được điều chỉnh giảm; các mặt hàng vật liệu xây dựng, nhất là giá thép vẫn đang giảm mạnh; giá của các nhóm hàng khác tương đối ổn định. Vì vậy, dự đoán tháng 9/2022 doanh thu bán lẻ có thể sẽ tiếp tục tăng trưởng do giá các nhóm hàng thiết yếu hầu hết đã hạ nhiệt theo giá xăng dầu nên nhu cầu tiêu dùng của người dân ở các nhóm hàng này sẽ tăng lên.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 607,59 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,14% và so với cùng kỳ năm trước bằng 170,07%[6]. Tết Trung thu diễn ra trong tháng nên nhiều hoạt động cộng đồng văn hóa được các cấp, các ngành quan tâm tổ chức để chăm lo, đảm bảo cho các em thiếu nhi có mùa Tết trung thu đầm ấm, theo đó nhu cầu tham dự lễ hội, nhu cầu ăn uống vì thế cũng tăng đáng kể. Chia ra:
+ Doanh thu dịch vụ lưu trú được 7,91 tỷ đồng, so tháng trước bằng 104,37%, so cùng kỳ bằng 141,88%. Hoạt động dịch vụ lưu trú đang từng bước hồi phục sau đại dịch nhưng vẫn với tốc độ chậm. Hiện tỉnh đang thực hiện chủ trương thu hút đầu tư, xúc tiến phát triển du lịch địa phương. Do đó, tin rằng trong thời gian tới khi được đầu tư đúng mức, dịch vụ du lịch phát triển sẽ khiến loại hình dịch vụ lưu trú hồi phục nhanh và phát triển mạnh hơn.
+ Doanh thu dịch vụ ăn uống được 599,68 tỷ đồng, so tháng trước bằng 105,15%, so cùng kỳ bằng 170,52%. Hoạt động ăn uống với số lượng cơ sở ngày một gia tăng là điều kiện thuận lợi giúp hoạt động dịch vụ ngành ăn uống tiếp tục phục hồi và đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của toàn tỉnh.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 450,84 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 0,73% và so với cùng kỳ năm trước tăng đột biến rất cao. Nguyên nhân chủ yếu do nhóm dịch vụ vui chơi, giải trí (ngành R) tác động, cùng kỳ năm 2021 bùng phát mạnh dịch Covid-19 các hoạt động xổ số, karaoke, các khu vui chơi phải tạm ngừng hoạt động hoàn toàn để phòng chống dịch.
Ước tính 9 tháng năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng và hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 38.592,53 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước bằng 125,57% và so với kế hoạch năm đạt 89,75%. Bán lẻ vẫn là ngành hàng chủ yếu đóng góp cho sự tăng trưởng chung của hoạt động thương mại và dịch vụ, chiếm tỷ trọng hơn 76% tổng doanh thu. Các loại hình dịch vụ tiêu dùng khác (hành chính hỗ trợ, giáo dục, y tế,....) có mức đóng thấp nhất chỉ khoảng 13,31%. Nhìn chung 9 tháng năm 2022, hầu hết các hoạt động kinh doanh của các nhóm ngành đều có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước.Cụ thể:
-Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 29.347,16 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 21,75%. Các nhóm hàng đóng góp chính vào mức tăng chung cao chủ yếu vẫn là lương thực, thực phẩm tăng 22,49%; xăng dầu các loại tăng 102,59%; đá quý, kim loại quý tăng 7,95%; hàng may mặc tăng 7,34%; nhóm các sản phẩm hàng hóa khác tính chung tăng 18,83%. Các nhóm ngành hàng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Một số nhóm hàng có giá trị giảm (các vật phẩm văn hóa, giáo dục, phương tiện,…) nhưng giá trị không lớn, chiếm tỷ trọng không cao trong tổng doanh thu bán lẻ, mặc dù có giảm nhiều nhưng không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng chung.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 5.338,15 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 122,75%.Chia ra:Doanh thu dịch vụ lưu trú được 70,14 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 89,45%; Doanh thu dịch vụ ăn uống được 5.268,01 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 123,36%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 3.907,22 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 71,33%. Nhìn chung, trong 9 tháng hầu hết các hoạt động dịch vụ tiêu dùng phục vụ cá nhân đã hồi phục mạnh mẽ và đều có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ vui chơi giải trí, hành chính hỗ trợ, y tế, là những loại hình dịch vụ đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung, có mức tăng lần lượt là 87,65%, 33,06%, 64,92%.
6.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Ước tính tháng 9/2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 94,69 triệu USD, so với tháng trước bằng 92,96% và so với cùng kỳ năm trước bằng 126,74%.Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 71,87 triệu USD, so với tháng trước bằng 96,87% và so với cùng kỳ năm trước bằng 212,97%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 22,82 triệu USD, so với tháng trước bằng 82,46% và so với cùng kỳ năm trước bằng55,71%.
Ước tính 9 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 825,30 triệu USDso với cùng kỳ năm trước bằng 117,51%, so với kế hoạch năm đạt 78,01%. Chia ra:
- Xuất khẩu thực hiện được 527,36 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 129,70% và so với kế hoạch năm đạt 73,55%.
- Nhập khẩu thực hiện được 266,30 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 101,68% và so với kế hoạch năm đạt 91,83%.
- Uỷ thác xuất khẩu thực hiện được 0,84 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 216,71% và so với kế hoạch năm đạt 84,30%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 30,80 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 91,90% và so với kế hoạch năm đạt 61,59%.
Nhìn chung, tình hình hoạt động xuất, nhập khẩu ước thực hiện 9 tháng năm 2022, có sự tăng trưởng khá ổn định. Sự tăng trưởng trong hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn chủ yếu đến từcác doanh nghiệp ngoài nhà nước và các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hai khu vực này có tỷ trọng đóng góp gần tương đương nhau trong tổng kim ngạch chung (ngoài nhà nước chiếm 51,96%, khu vực FDI chiếm khoảng 48,04%).
Về thị trường, trong 9 tháng năm 2022,các doanh nghiệp đã xuất hàng hóa đi được khoảng 72 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cơ cấu các thị trường xuất khẩu không có sự thay đổi nhiều, các thị trường xuất khẩu lớn vẫn là các nước khối liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ca-na-đa, Hàn Quốcvà các nước trong khu vực Đông Nam Á, các thị trường khác còn lại chỉ có giá trị tương đốihoặc không đáng kể. Giá trị xuất, nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn xuất đi sang hai thị trường Hoa Kỳ,Trung Quốc là lớn nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong đó, giá trị xuất đi sang thị trường Hoa Kỳ có giá trị cao nhất,chiếm tỷ trọng 17,61%; Trung Quốc đứng thứ 2,chiếm 13,78%. Các mặt hàng xuất sang hai thị trường này chủ yếu là thủy sản, giày thể thao, riêng thị trường Trung Quốc có thêm các mặt hàng nông sản, giấy và các mặt hàng thức ăn chăn nuôi khác.
Về cơ cấu nhóm hàng, trong 9 tháng năm 2022, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vẫn là ba nhóm hàng: Thủy hải sản chế biến, chiếm tỷ trọng khoảng 32,45% tổng giá trị xuất khẩu chung; giày thể thao chiếm 31,24%; giấy thành phẩm chiếm 13,15% và các nhóm hàng khác còn lại chỉ chiếm 23,16%. So với cùng kỳ năm 2021, cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu trên địa bàn không có sự biến động lớn. Về nhập khẩu, cơ cấu các nhóm hàng cũng không có sự thay đổi đáng kể so với cùng kỳ năm 2021. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là các nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị, phụ tùng phục vụ cho sản xuất, xăng dầu các loại, hóa chất và một số loại hàng hóa phụ khác.
Tình hình dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát chặt chẽ, các doanh nghiệp đã phục hồi và hoạt động sản xuất đã trở lại bình thường;Hiệp định Thương mại tự do EVFTA có hiệu lực thực thi trong thời gian qua được xem là điểm sáng trong hoạt động xuất, nhập khẩu; Hiệp định đã mang lại nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Hậu Giang nói riêng có thêm động lực để phát triển và hòa nhập sâu rộng vào thị trường thế giới, phát triển thêm các chuỗi giá trị cung ứng bền vững, tìm kiếm sự hợp tác đầu tư thương mại để mở rộng thêm thị trường xuất khẩu. Hiệp định RCEP có hiệu lực từ tháng 01/2022 sẽ góp phần đa phương hóa các Hiệp định thương mại tự do mà ASEAN đã ký kết với từng nước đối tác trước đây, hài hòa các cam kết, quy định trong các hiệp định này, tối đa hóa các lợi ích kinh tế, đặc biệt là quy tắc xuất xứ và tạo thuận lợi cho thương mại, góp phần củng cố các chuỗi cung ứng khu vực và phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19, bù đắp tổn thất kinh tế toàn cầu do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc gây ra.Trong số 5 đối tác của hiệp định RCEP thì có 3 đối tác là thị trường xuất khẩu lớn của Hậu Giang (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) điều này là thuận lợi đáng kể cho các doanh nghiệp tỉnh nhà.Vì vậy, trong thời gian tới các ngành chức năng cần có các chính sách phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp phát triển sản xuấtvà đưa hoạt động xuất nhập khẩu phục hồi tăng trưởng trở lại.
6.3. Vận tải hàng hóa và hành khách
Hoạt động vận tải, kho bãi trong tháng 9 tiếp tục có mức tăng trưởng. So với cùng kỳ năm trước hầu hết các hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa đều tăng cao.
Ước tính tháng 9/2022, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 128,43 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,48% và so với cùng kỳ năm trước bằng 205,62%. Chia ra:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 79,44 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,44% và so với cùng kỳ năm trước bằng 277,30%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 30,34 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 103,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 255,35%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 18,65 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,52% và so với cùng kỳ năm trước bằng 85,04%.
Ước tính 9 tháng năm 2022, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 1.027,99 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 124,16%. Chia ra:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 616,96 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 169,60%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 243,22 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 105,70%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 167,81 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 71,69%.Nguyên nhân giảm nhiều so với cùng kỳ là do có doanh nghiệp lớn hoạt động cho thuê kho bãi và kho đông lạnh trong khu công nghiệp trên địa bàn Huyện Châu Thành sau dịch bệnh đã giải thể, hiện không còn hoạt động.
Nhìn chung, hoạt động vận tải đường bộ vẫn đóng vai trò chủ chốt trong sự tăng trưởng chung của ngành vận tải. Hoạt động vận tải hàng hóa đường bộ không ngừng tăng lên về quy mô hoạt động vận chuyển mà giá trị doanh thu cũng đã tăng đáng kể so với các năm trước, giá trị doanh thu bình quân tháng đã đạt giá trị khoảng 35,3 tỷ/tháng, tăng gấp hơn 4 lần. Hoạt động vận tải đường thủy cũng giữ vai trò quan trọng đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng ngành vận tải. Mặc dù có sự phục hồi chậm sau đại dịch do quy mô cơ sở nhỏ, không có nhiều doanh nghiệp tham gia vào ngành nhưng nhìn chung đến tháng 9 đã có dấu hiện khởi sắc, có mức tăng trở lại. Riêng, ngành dịch vụ vận tải vẫn đang từng bước phục hồi, tốc độ tăng trưởng qua các tháng gần nhất đã có dấu hiệu tăng nhanh hơn các tháng đầu năm khi vừa mới kết thúc đại dịch, với khoảng 5,2%/tháng.
6.3.1. Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa
Hạ tầng giao thông khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung và trên địa bàn nói riêng đang được quan tâm đầu tư mạnh. Các tuyến đường kết nối với các tỉnh thành xung quanh đang được khẩn trương hoàn thành đưa vào sử dụng để tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện cho các cơ sở vận tải kinh doanh hiệu quả.
Ước thực hiện tháng 9/2022, toàn tỉnh vận chuyển được 590,85 nghìn tấn hàng hóa các loại (57.560,17 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,58% (100,24%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 309,85% (410,94%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 158,53 nghìn tấn (16.420,53 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 99,13% (96,22%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 285,09% (310,81%).
- Đường sông thực hiện được 432,32 nghìn tấn (41.139,64 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,52% (101,95%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 320,05% (471,58%).
Ước thực hiện 9 tháng, toàn tỉnh vận chuyển được 4.771,02 nghìn tấn hàng hóa các loại (450.117,48 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 123,29% (139,89%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 1.436,91 nghìn tấn (132.155,08 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 185,75% (170,94%).
- Đường sông thực hiện được 3.334,11 nghìn tấn (317.962,40 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 107,68% (130,07%).
6.3.2. Vận chuyển, luân chuyển hành khách
Ước tính tháng 9/2022, toàn tỉnh thực hiện được 2.955,96 nghìn lượt hành khách (50.982,18 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 105,06% (107,23%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 275,59% (271,00%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 824,35 nghìn lượt hành khách (43.331,06 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 103,67% (107,60%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 334,39% (287,78%).
- Đường sông vận chuyển được 2.131,62 nghìn lượt hành khách (7.651,12 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng105,61% (105,20%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 258,04% (203,73%).
Ước tính 9 tháng, toàn tỉnh thực hiện được 24.350,49 nghìn lượt hành khách (458.029,21 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 110,86% (131,42%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 7.783,51 nghìn lượt hành khách (390.311,42 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 152,02% (146,60%).
- Đường sông vận chuyển được 16.566,98 nghìn lượt hành khách (67.717,79 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 98,35% (82,29%).
7. Các vấn đề về xã hội
7.1. Giáo dục
Tình hình tổ chức tựu trường và khai giảng năm học 2022-2023:Để chuẩn bị mọi điều kiện cho năm học 2022 - 2023, Ngày 31 tháng 8 năm 2022 UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 05/CT-UBND về việc thực hiện nhiệm vụ năm học 2022-2023 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang; ngày 12/8/2022 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1404/QĐ-UBND về Ban hành khung kế hoạch thời gian năm học 2022-2023 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh. Ngày 5/9 Tất cả các trường trên địa bàn tỉnh đồng loạt khai giảng năm học 2022-2023.
Chất lượng giáo dục các cấp cuối năm học 2021-2022:
- Cấp tiểu học:Kết quả môn Tiếng việt và Toán so với năm học 2020-2021:
+ Môn tiếng việt: tỷ lệ hoàn thành trở lên giảm 0,76%; tỷ lệ chưa hoàn hoàn thành tăng 0,76%.
+ Môn toán: tỷ lệ hoàn thành trở lên giảm 0,50%; tỷ lệ chưa hoàn hoàn thành tăng 0,50%.
- Xếp loại học lực cấp Trung học cơ sở: Giỏi: tăng 0,95%; Khá: tăng 0,73%; Trung bình: giảm 0,19%; Yếu: giảm 1,06%; Kém: giảm 0,67%.
- Xếp loại học lực cấp Trung học phổ thông: Giỏi: giảm 0,02%; Khá: tăng 0,65%; Trung bình: giảm 0,34%; Yếu: giảm 0,44%; Kém: giảm 0,03%.
- Xếp loại học lực ngành giáo dục thường xuyên: Giỏi: tăng 0,05%; Khá: tăng 0,01%; Trung bình: giảm 0,30%; Yếu: giảm 0,04%; Kém: giảm 0,01%.
Trong tháng 9/2022, Sở Giáo dục và Đào tạo tập trung vào hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
- Giáo dục tiểu học - mầm non: Tổng hợp kết quả trẻ đến trường hàng ngày đầu năm học 2022-2023; Kiểm tra hoạt động đầu năm các cơ sở giáo dục tiểu học, giáo dục mầm non trên địa bàn tỉnh.
- Giáo dục trung học - Giáo dục thường xuyên:Phối hợp tổ chức Kỳ thi chọn Đội tuyển học sinh giỏi cấp quốc gia năm học 2022-2023; Triển khai Kế hoạch bảo đảm An toàn giao thông cho học sinh các cấp trên địa bàn tỉnh; Tổ chức Hội nghị tổng kết và triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023 đối với giáo dục trung học; giáo dục thường xuyên; giáo dục chính trị tư tưởng và công tác học sinh, sinh viên; giáo dục dân tộc; giáo dục thể chất; Triển khai tập huấn trực tiếp chương trình giáo dục ONLUYEN.VN.
7.2. Tình hình văn hóa, thể thao
Trong tháng, toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, các công tác trọng tâm của địa phương theo chỉ đạo như: kỷ niệm 77 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945-02/9/2022),…Kết quả:Thay mới nội dung trên hệ thống pa nô cố định do tỉnh quản lý (QL61C, Tầm Vu, Cầu Móng, 2 ngàn, Vị Thủy, Hùng Vương), 01 cụm tam giác pa nô tại vòng xoay Mương Lộ, 02 pa nô tại cầu vượt Mương Lộ và 04 panô đường Ngô Quyền, tổng số 1.310,8m2; In, lắp mới 2.020 m2 pa nô,treo 4.950 cờ các loại, 210 băng rôn.
Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, tổ chức phục vụ nhân dân với 66 buổi biểu diễn, phục vụ 47.200 lượt người xem, tổ chức 63 buổi phóng thanh.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm 2.500 quyển sách kỷ niệm 77 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các chuyên đề: Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chuyên đề về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Di chúc của Người, cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; sách thiếu nhi, sách mới các lĩnh vực… từ ngày 30/8 đến 02/9/2022 tại 02 điểm: Khu Di tích lịch sử Đền thờ Bác Hồ, thu hút trên 3.000 lượt người xem và Khu Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Chiến thắng Chương Thiện, thu hút hơn trên 1.800 lượt người xem.
Hoạt động bảo tồn - bảo tàng và phát huy giá trị di sản văn hóa: Triển lãm 06 cuộc phục vụ các sự kiện: Lễ tuyên dương khen thưởng Nhà nước, họp mặt người có công với cách mạng, kỷ niệm 75 năm Ngày thương binh Liệt sĩ (27/7/1947-27/7/2022); Đại hội đại biểu hội đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Hậu Giang lần thứ III, nhiệm kỳ 20022-2027;….Tiếp21đoàn khách tham quan tại các di tích Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ Tiểu đoàn Tây Đô ...
Sự nghiệp thể dục thể thao: Tham dự các giải vô địch trẻ Karate quốc gia năm 2022 tại Quảng Nam, kết quả đạt 01 Huy chương vàng, 01 Huy chương bạc, 01 Huy chương đồng; vô địch trẻ Bóng rổ 3x3 (U16 và U18) quốc gia năm 2022 tại Bà Rịa – Vũng Tàu, kết quả đạt 01 Huy chương bạc U16; vô địch Đua Thuyền trẻ toàn quốc năm 2022 tại Hà Nội, kết quả đạt 01 Huy chương đồng.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
7.3.1. Về tình hình đời sống dân cư và giải quyết việc làm
Nhìn chung, trong 9 tháng năm 2022 nhờ được sự quan tâm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương và sự nổ lực vươn lên của bản thân mỗi người dân, nên đời sống của hầu hết các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra tình trạng thiếu đói. Cụ thể:
- Đời sống cán bộ, công nhân viên chức, người lao động hưởng lương:
+ Hiện nay cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong khối hành chính sự nghiệp mức thu nhập bình quân hàng tháng vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2021. Ước bình quân mức thu nhập người/tháng của mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,82 triệu đồng, thu nhập mỗi lao động trong khu vực nhà nước do trung ương quản lý là 7,50 triệu đồng.
+ Đối với người lao động thuộc khối doanh nghiệp: Ước thu nhập bình quân người/tháng của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,45 triệu đồng và trung ương quản lý là 6,48 triệu đồng.
+ Đối với lao động ngoài nhà nước, hiện nay thu nhập vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2021. Ước tính thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 4,86 triệu đồng/người/tháng. Đối với lao động thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thu nhập bình quân 6,95 triệu đồng/người/tháng.
Hiện nay, với mức thu nhập từ tiền lương, tiền thưởng của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động như thế chỉ có thể đáp ứng cơ bản được nhu cầu cho tiêu dùng trong thời điểm hiện nay do giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như: xăng, dầu, gas, điện, nước,… vẫn ở mức khá cao.
- Đời sống dân cư nông thôn:Do đặc thù kinh tế Hậu Giang là tỉnh nông nghiệp, dân số phần đông sống ở vùng nông thôn và hoạt động nông nghiệp với nguồn thu nhập chính từ trồng trọt, chăn nuôi và thủy sản, điều này cũng đồng nghĩa với việc chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh, khí hậu... nói chung là các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, trong đó bao gồm cả yếu tố giá cả thị trường như giá phân bón, thuốc trừ sâu, giá thức ăn cho chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, giá giống, giá bán của các mặt hàng nông sản, thủy sản... ở một khía cạnh nào đó có thể nói các yếu tố kể trên có tính chất quyết định đến chất lượng cuộc sống người dân nói chung và của dân cư nông thôn nói riêng.
Kết quả công tác giải quyết và tạo việc làm trong 9 tháng năm 2022 như sau:
- Giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho13.446/15.000 lao động, đạt 89,64% kế hoạch năm.
- Công tác hỗ trợ người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng: Đã hỗ trợ đưa 265/346 lao động (trong đó, có 153 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc), đạt 76,59% kế hoạch năm.
- Công tác hỗ trợ tuyển dụng lao động cho doanh nghiệp: Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tư vấn đã hỗ trợ giới thiệu, cung ứng được 6.119 lao động.
- Công tác giáo dục nghề nghiệp: Các Trường, cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo nghề được 4.303/6.500 người, đạt 66,2% kế hoạch năm. Trong đó, Cao đẳng 80 người, Trung cấp 229 người, sơ cấp và dưới 3 tháng 3.994 người.
7.3.2. An sinh xã hội
Công tác thực hiện chính sách Người có công luôn được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ đạo sâu sát, nhất là việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định mới về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Kết quả thực hiện trong 9 tháng năm 2022 như sau:
- Tiếp nhận mới 1.556 hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 1.522 hồ sơ. Trong đó, đạt 1.414 hồ sơ, không đạt 108 hồ sơ. Còn 34 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết.
- Tổ chức tham mưu UBND tỉnh tổ chức các hoạt động kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2022), cụ thể: Toàn tỉnh có 22.767 người có công với cách mạng được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của Tỉnh với số tiền là 7.233 triệu đồng; Tổ chức Lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh; “Thắp nến tri ân” tại các Nghĩa trang liệt sĩ, các nhà bia ghi tên liệt sĩ trên địa bàn tỉnh. Tỉnh cũng đã tổ chức thăm và tặng quà cho các đối tượng ưu đãi là người có công, thân nhân người có công với cách mạng với tổng số tiền là 28.153,55 triệu đồng, trong đó thăm và tặng quà nhân dịp Tết nguyên đán Nhâm Dần 2022 là 27.448,55 triệu đồng.
Công tác bảo trợ xã hội và việc thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với các đối tượng khác đạt kết quả như sau:
- Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 317.980 lượt đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 184.066,045 triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 1.928 trường hợp với số tiền 13.881,6 triệu đồng; hỗ trợ khẩn cấp cho 243 trường hợp với số tiền 4.932 triệu đồng.
- Tổ chức thăm, tặng quà cho 250 người bị nhiễm chất độc da cam/dioxin trên địa bàn tỉnh với số tiền 100 triệu đồng nhân Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8).
- Ngành Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Tỉnh đoàn, Đài Phát Thanh và Truyền hình Hậu Giang, UBND thành phố Ngã Bảy tổ chức 02 điểm Tết Trung thu năm 2022 cho 280 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh với số tiền 158 triệu đồng. Nhân dịp tết Trung thu năm 2022, toàn tỉnh đã tổ chức 168 điểm họp mặt (cấp tỉnh: 02 điểm; cấp huyện 11 điểm; cấp xã 155 điểm) với 31.784 trẻ em tham dự, qua đó có 29.815 trẻ em được tặng quà với số tiền là 3.715,4 triệu đồng, có 826 trẻ em được nhận học bổng với số tiền 253,8 triệu đồng.
- Tổ chức trao 495 suất học bổng cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn vượt khó học giỏi nhân dịp khai giảng năm học 2022 - 2023 với số tiền là 382,5 triệu đồng.
- Phối hợp với tổ chức SEAOF hỗ trợ gạo cho 32 hộ gia đình trẻ em mồ côi với số tiền 446,785 triệu đồng.
- Ngành Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh và các đơn vị có liên quan triển khai hoạt động nhận đỡ đầu cho 99 trẻ em mồ côi, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn tỉnh (trong đó có 16 trẻ em mồ côi do dịch bệnh Covid-19); phối hợp với Tỉnh đoàn thực hiện Chương trình “Nối vòng tay yêu thương” nhằm hỗ trợ dài hạn trẻ em mồ côi cha mẹ do dịch bệnh Covid-19 đến năm 18 tuổi, đến nay đã hỗ trợ được 12 trường hợp (mỗi định suất hỗ trợ 02 triệu đồng/tháng/em).
7.4. Y tế
Trong tháng, có199ca mắc mớibệnh sốt xuất huyết, cộng dồn là555 ca, tăng 501 ca so với cùng kỳ;bệnh tay chân miệngcó 60 ca mắc mới,cộng dồn là466 ca, tăng 60 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi,bệnh dịch lạ, bệnh viêm gan do virút, quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn tỉnh.
Tình hình dịch Covid-19:
- Số nhiễm trong tháng (tính đến ngày 12/9/2022) là 220người (tăng 167 người so với tháng trước), số tử vong trong tháng là 00 người. Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7/2021)đến 18 giờ ngày 12/9/2022 tỉnh Hậu Giang có 52.840 người mắc, điều trị khỏi 52.483, chuyển viện 02, số người tử vong 311 người, hiện đang điều trị là 44 người (điều trị tại nhà 29 người). Hiện tại các Bệnh viện/Trung tâm Y tế đang triển khai khoa điều trị người nhiễm Covid-19.
- Tính đến ngày 12/9/2022 tổng số liều vắc xin đã được tiêm vắc xin 2.133.136 liều. Trong đó 534.316 người người từ 18 tuổi trở tiêm mũi 1(đạt tỷ lệ 100%) trên tổng dân số tỉnh Hậu Giang từ 18 tuổi trở lên nằm trong độ tuổi tiêm chủng, 520.380 người người từ 18 tuổi trở đã tiêm đủ 2 mũi (đạt 97,51%), 156.572liều tiêm bổ sung, 401.436 liều tiêm nhắc lần 1 (trên 18 tuổi) đạt 74,87%và164.223 liều tiêm nhắc lần 2(trên 18 tuổi) đạt 62,16%; 73.991 trẻ em từ 12-17 tuổi tiêm vắc xin mũi 1 (đạt 105%),72.811 trẻ em từ 12-17 tuổi được tiêm mũi 2 (đạt 98,41%), 54.273 trẻ tiêm nhắc lần 1 (đạt 77,07%); 85.572 trẻ em từ 05-11 tuổi tiêm vắc xin mũi 1 (đạt 96,83%), 69.562 trẻ em từ 05-11 tuổi tiêm vắc xin mũi 2 (đạt 78,71%).
Chương trình tiêm chủng mở rộng:Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 869 trẻ, cộng dồn là 7.820 trẻ,đạt 72,2%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 1.083 trẻ, cộng dồn là 8.694 trẻ, đạt 76,4%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 937 thai phụ, cộng dồn là 8.088 thai phụ, đạt 74,6%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS:Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 16 ca, cộng dồn là33ca (giảm 25ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.903 ca; số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là00 ca (giảm 08 caso với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là00ca (giảm10 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là59 người,tổng số bệnh nhân điều trị ARV là956 người.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 9/2022: Tổng số lần khám151.602 lượt, cộng dồn là 967.772 lượt, đạt 80,21% kế hoạch,giảm 19,94% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là9.599 lượt, cộng dồn là63.538lượt, đạt 47,25%kế hoạch, giảm 13,59% so với cùng kỳ.Số ngày điều trị trung bình là 6,56ngày, tăng0,63 ngày so với cùng kỳ.Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 3.708 trường hợp, giảm 623 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông
Trong tháng 9/2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 04 người (tập trung ở đường bộ).So với tháng trước, số vụ giảm 02 vụ, số người chếtgiảm 01 người và số người bị thương giảm 01 người. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ tăng 03 vụ, số người chết tăng 03 người và số người bị thương tương đương, nguyên nhân do không chú ý quan sát 01 vụ; chuyển hướng không đúng quy định 01 vụ; lỗi khác 01 vụ; lỗi hỗn hợp 01 vụ.
Trong 9 tháng đầu năm (từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/9/2022), toàn tỉnh xảy ra 48 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 47 người, bị thương 07 người. So cùng kỳ 2021, số vụ tăng10 vụ, số người chết tăng 13 người và số người bị thương giảm02 người.
7.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng, chống cháy, nổ
Tính từ đầu năm đến nay, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 47 vụ, xử lý 45 vụ với số tiền xử phạt là 591 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về an toàn thực phẩm, xả nước thải, khí thải vượt chuẩn cho phép và vi phạm quy định về vệ sinh thú y;vi phạm về thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ vi phạm tăng 06 vụ, xửlý tăng 04 vụ, số tiền xử phạt giảm 127 triệu đồng (năm 2021, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 41 vụ, xử lý 41 vụ, xử phạt 718 triệu đồng). Ngành chức năng tiếp tục giám sát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân để kịp thời xử lý theo quy định.
Tình hình sạt lỡ: Trong tháng, không xảy ra sạt lỡ. Lũy kế từ đầu năm đến nay, xảy ra 17 trường hợp sạt lỡ, không có trường hợp nhà bị cuốn trôi, diện tích mất đất 2.834m2, ước tổng thiệt hại 2.062 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021, giảm 13 vụ (diện tích mất đất giảm 1.623m2 và ước giá trị thiệt hại giảm 392 triệu đồng).
Mưa lớn, dông lốc: Trong tháng, có 2 vụ dông lốc làm tốc mái 02 căn nhà, ước thiệt hại 40 triệu đồng. Cùng kỳ năm 2021, không xảy ra giống lốc. Lũy kế từ đầu năm đến nay: sập 15 căn nhà, tốc mái 63 căn nhà và 02 phòng của Ban giám hiệu, ngã 01 trụ viễn thông, tốc mái 01 trụ sở UBND xã, ước thiệt hại 1.934 triệu đồng. Cùng kỳ năm 2021, xảy ra 04 vụ làm sập 14 căn nhà, tốc mái 63 căn nhà và 01 nhà kho, ước giá trị thiệt hại 3.014,50 triệu đồng.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 04 vụ cháy, không thiệt hại về người, ước tổng tài sản thiệt hại khoảng 1.400 triệu đồng./.
[1] Ước tính vốn đầu tư thực hiện tăng so với tháng trước là do thời tiết khá thuận lợi cho việc thi công; các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Đồng thời được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
[2] Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 70,51 ha, tăng 3,31% (bằng 2,26 ha) so cùng kỳ.
[3] Trong đó, diện tích nuôi tôm sú được 96,5 ha, tập trung ở huyện Long Mỹ (Nuôi trong ruộng lúa).
[4] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, nuôi cá tra công nghiệp được hộ nuôi đầu tư mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân.
[5] Cụ thể một số nhóm hàng tăng so với cùng kỳ: Lương thực, thực phẩm tăng 22,24% do lễ hội Tết trung thu nhu cầu mua tiêu dùng các loại bánh trung thu, bánh pía,… tăng cao; hàng may mặc tăng 16,64% do khai giảng năm học mới các học sinh trở lại trường nhu cầu tiêu dùng quần áo, giày dép để đến trường tăng lên; xăng dầu tăng 113,91% mặc dù giá xăng dầu đã hạ nhiệt, giá bán được điều chỉnh giảm nhiều lần liên tiếp nhưng giá vẫn ở mức cao so với cùng kỳ năm trước; đá quý, kim loại quý tăng 13,42% giá vàng trong nước liên tục biến động những ngày qua nhưng biên độ không lớn vẫn ở mức tương đối ổn định, không giảm nhiều theo mức giảm của giá vàng thế giới; một số loại hàng hóa khác tính chung tăng 18,80%.
[6] Nguyên nhân tăng cao do cùng kỳ năm 2021 các cơ sở lưu trú phải ngừng hoạt động kinh doanh, các cơ sở ăn uống phải tạm ngừng kinh doanh một phần (chỉ được phép bán mang đi) hoặc ngừng hoàn toàn để phòng chống dịch.
File đính kèm: Bao_cao_KTXH_thang_9_va_Quy_III.2022.docxso_lieu_KTXH_thang_9-2022.xlsx
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang