Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang 8 tháng năm 2022 tiếp tục phát triển khá so với cùng kỳ, năm nay tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt nên các hoạt động sản xuất, thương mại diễn ra liên tục, hạ tầng giao thông được quan tâm đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, góp phần thúc đẩy các chỉ tiêu kinh tế trong 8 tháng năm 2022 có mức tăng trưởng cao hơn so với cùng kỳ như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 14,82%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 24,29%, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tăng 12,29%, doanh thu vận tải, kho bãi tăng 17,50%. Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong tháng, ngành Nông nghiệp tiếp tục theo dõi tình hình sản xuất và thu hoạch vụ lúa Hè thu 2022 theo kế hoạch đề ra. Chỉ đạo xuống giống vụ Thu đông 2022 đảm bảo đạt hiệu quả, đối với một số vùng có tập quán xuống giống lúa Thu đông trễ so với khung thời vụ của tỉnh, cần kết thúc việc gieo sạ trước ngày 31/8/2021. Tiếp tục vận động nông dân tăng cường xuống giống rau màu, đặc biệt trên các diện tích không xuống giống vụ Thu đông đảm bảo thực hiện có hiệu quả kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất rau màu các tháng cuối năm trên địa bàn tỉnh. Thường xuyên thăm đồng và nắm tình hình sinh vật gây hại, kịp thời hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật kịp thời trên tất cả các loại cây trồng khác ở các huyện, thị xã, thành phố. Tiếp tục theo dõi tình hình mưa bão; Chủ động phối hợp với các đơn vị chuyên môn và địa phương để có biện pháp chỉ đạo kịp thời, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. Cụ thể từng lĩnh vực như sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
- Lúa Hè thu 2022: Hiện nay đã xuống giống dứt điểm được 76.368,8 ha, đạt 101,15% kế hoạch tỉnh (75.500 ha), giảm 0,32% (bằng 247,2 ha) so với cùng kỳ. Các giống lúa sử dụng chủ yếu là 03 giống thuộc nhóm giống chất lượng cao như: OM5451, OM18, Đài Thơm 8, cụ thể: OM18 chiếm 69%, OM5451 chiếm 20%, Đài Thơm 8 chiếm 7%, còn lại là các giống khác như RVT, IR50404,… chiếm 4%. Hiện đã thu hoạch được 63.085,4 ha, đạt 82,61% diện tích xuống giống.
- Lúa Thu đông 2022: Hiện nay đã xuống giống được 28.211 ha, đạt 80,6% kế hoạch tỉnh (35.000 ha), diện tích xuống giống tập trung nhiều ở các huyện Vị Thủy, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Vị Thanh. Lúa đang giai đoạn mạ đến làm đòng, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống lúa sử dụng chủ yếu là: OM18, OM5451, Đài thơm 8,…
- Mía niên vụ 2021-2022: Hiện nay đã xuống giống dứt điểm được 3.842,2 ha, đạt 96,06% kế hoạch tỉnh (4.000 ha), giảm 23,3% (bằng 1.167,5 ha) so với cùng kỳ, diện tích mía toàn tỉnh tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Đến nay, đã thu hoạch được 858 ha giá bán 1.800-2.000 đồng/kg (bán mía nước). Mía còn lại ở giai đoạn phân lóng đến sắp thu hoạch, đang sinh trưởng và phát triển tốt. Trong tháng có 45 ha nhiễm sinh vật gây hại (giảm 14 ha so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp, sâu đục thân, rầy đầu vàng, rỉ sắt và đốm vòng,... đa số là gây hại nhẹ.
- Cây ngô: Diện tích gieo trồng 1.843,9 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 7,26% (bằng 144,3 ha); năng suất đạt 60,43 tạ/ha, giảm 0,4% (bằng 0,24 tạ/ha); sản lượng được 9.976,48 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 9,46% (bằng 1.042,26 tấn). Diện tích gieo trồng giảm do thay đổi mùa vụ.
- Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng 22.197,7 ha, so với năm trước tăng 13,13% (bằng 2.576,7 ha). Ước sản lượng được 229.199,07 tấn, tăng 9,15% (bằng 19.210,34 tấn). Thực hiện theo Kế hoạch số 63 của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày 01/7/2022 về việc mở rộng diện tích sản xuất rau màu, thủy sản nuôi trên ruộng lúa 6 tháng cuối năm 2022 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Do đó, người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch tăng mạnh so với cùng kỳ.
- Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu:
+ Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có ước được 3.059,37 ha, đạt 101,98% so kế hoạch năm (3.000 ha) và tăng 7,50% (bằng 213,37 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 8 tháng ước được 21.114,50 tấn, đạt 46,92% so kế hoạch năm (45.000 tấn) và tăng 8,74% (bằng 1.696,64 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Đây là sản phẩm chủ lực của tỉnh.
+ Cây bưởi: Diện tích hiện có ước được 1.609,18 ha, đạt 99,33% so kế hoạch năm (1.620 ha) và tăng 1,25% (bằng 19,89 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 8 tháng ước được 7.468,11 tấn, đạt 49,79% so kế hoạch năm (15.000 tấn) và tăng 6,45% (bằng 452,31 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
+ Cây mít: Diện tích hiện có ước được 9.381,65 ha, đạt 97,12% so kế hoạch năm (9.660 ha) và tăng 15,25% (bằng 1.241,65 ha) so với cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu ở các huyện như: Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Sản lượng ước 8 tháng được 56.370,24 tấn, đạt 62,63% so kế hoạch năm (90.000 tấn) và tăng 28,23% (bằng 12.409,54 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng khá.
+ Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có ước được 2.822,48 ha, đạt 113,81% so kế hoạch năm (2.480 ha) và tăng 11,25% (bằng 285,48 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 8 tháng được 13.727,32 tấn, đạt 41,72% so kế hoạch năm (32.900 tấn) và tăng 29,14% (bằng 3.097,12 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất đạt cao.
+ Cây mãng cầu: Diện tích hiện có ước được 708,11 ha, đạt 94,41% so kế hoạch năm (750 ha) và tăng 1,38% (bằng 9,64 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 8 tháng ước được 4.051,35 tấn, đạt 47,66% so kế hoạch năm (8.500 tấn) và tăng 9,05% (bằng 336,05 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
1.1.2. Chăn nuôi
Ước tính tháng 8/2022, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.427 con, đạt 94,5% kế hoạch năm (1.510 con), giảm 1,65%[1] (bằng 24 con) so với cùng kỳ; Đàn bò ước được 3.677 con, đạt 101,3% kế hoạch năm (3.630 con), tăng 2,91% (bằng 104 con) so với cùng kỳ.
+ Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 143.512 con, đạt 106,31% kế hoạch năm (135.000 con), tăng 11,61% (bằng 14.928 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 101.207 con, tăng 8,62% (bằng 8.031 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Bên cạnh đó, Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.264,96 nghìn con, đạt 95,84% kế hoạch năm (4.450 nghìn con), tăng 2,81% (bằng 116,59 nghìn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà được 1.504,48 nghìn con, tăng 6,35% (bằng 89,83 nghìn con) so với cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
Công tác phòng chống dịch bệnh: Trong tháng lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt…Thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác bảo vệ rừng, thẩm định, giám sát, kiểm tra, khai thác rừng đảm bảo đúng quy định, công tác phòng chống cháy rừng đã quán triệt và làm tốt nên từ đầu năm đến nay không xảy ra vụ cháy rừng nào trên địa bàn tỉnh.
Ước tính 8 tháng năm 2022, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.298,71 nghìn cây, so với cùng kỳ tăng 1,39% (bằng 17,76 nghìn cây). Sản lượng gỗ khai thác được 7.554 m3, tăng 1,38% (bằng 103 m3). Sản lượng củi khai thác được 57.648 ste, tăng 1,02% (bằng 582 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Ước tính tháng 8/2022, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 543,14 ha, tăng 6,80%[2] (bằng 34,60 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2022, diện tích nuôi thủy sản (không tính diện tích nuôi lồng bè, bể bồn) ước tính được 8.282,28 ha, đạt 95,75% so kế hoạch năm (8.650 ha) và tăng 5,91% (bằng 461,80 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 8.105,53 ha[3], tăng 5,89% (bằng 450,61 ha); diện tích nuôi tôm được 108,50 ha[4], tăng 10,58% (bằng 10,38 ha); diện tích nuôi thủy sản khác được 68,25 ha, tăng 1,20% (bằng 0,81 ha) so với cùng kỳ.
Ước tính tháng 8/2022, tổng sản lượng thủy sản được 9.169,30 tấn, tăng 3,96% (bằng 349,56 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 8 tháng năm 2022, ước được 40.872,56 tấn, đạt 49,24% so kế hoạch năm (83.000 tấn) và tăng 3,23%[5] (bằng 1.277,28 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác 8 tháng được 1.954,79 tấn, đạt 72,40% so kế hoạch năm (2.700 tấn) và giảm 1,34% (bằng 26,51 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 8 tháng được 38.917,77 tấn, đạt 48,47% so kế hoạch năm (80.300 tấn) và tăng 3,47% (bằng 1.303,79 tấn) so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá thát lát thu hoạch được 2.318,07 tấn, tăng 15,76% (bằng 315,57 tấn) so cùng kỳ, sản lượng lươn thu hoạch được 405,74 tấn, tăng 7,39% (bằng 27,94 tấn) so với cùng kỳ.
2. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 8 năm 2022: Tính theo giá so sánh 2010, được 3.129,64 tỷ đồng, tăng 1,21% so với tháng trước và tăng 34,92% so với cùng kỳ năm trước; tính theo giá hiện hành, được 4.767,13 tỷ đồng, tăng 3,23% so với tháng trước và tăng 41,04% so với cùng kỳ năm trước[6].
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện 8 tháng năm 2022:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 22.782,46 tỷ đồng, tăng 17,92% so với cùng kỳ năm trước và đạt 67,08% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 34.458,31 tỷ đồng, tăng 24,10% so với cùng kỳ năm trước và đạt 67,20% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 02 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 2.534,07 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 7,35% trong toàn ngành và tăng rất cao so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 225 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 23.557,82 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 68,37% trong toàn ngành và tăng 15,87% so với cùng kỳ;
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 8.366,39 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,28% trong toàn ngành và tăng 14,25% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do doanh nghiệp hoạt động ổn định sau khi đại dịch Covid-19 được kiểm soát tốt và một số doanh nghiệp mới đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động như: Công ty TNHH MTV Vật liệu xây dựng Xanh Hamaco, sản xuất xi măng các loại; Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu I, sản xuất nhiệt điện than; Công ty TNHH MTV Nhựa Sinh Học Hậu Giang… các doanh nghiệp trên đã đóng góp trên 2.536,11 tỷ đồng (theo giá hiện hành) vào giá trị sản xuất chung của toàn ngành công nghiệp. Vì vậy, giá trị sản xuất ước 8 tháng đầu năm tăng so với cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh trong 8 tháng năm 2022:
- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 26.614 tấn, tăng 25,38% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 7.254,71 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 51,20% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 21,05% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có 03 doanh nghiệp hoạt động trong ngành này, sau khi dịch covid-19 được kiểm soát tốt doanh nghiệp nhận được nhiều hợp đồng lớn, nên tuyển thêm lao động để tăng sản lượng sản xuất (chỉ số sử dụng lao động ngành chế biến thuỷ sản tăng 26,83% so với cùng kỳ). Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 8 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 211.349 tấn, tăng 18,44% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 1.813,37 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,55% ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 5,26% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất để phục vụ nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.
- Sản lượng sản xuất bia đóng chay được 67,57 triệu lít,tăng 18,73% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 193,94 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 6,13% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 0,56% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan Brewery Hậu Giang với sản phẩm chính là bia các loại, sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, doanh nghiệp đã đầu tư cải tiến máy móc, đa dạng hóa sản phẩm nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ. Vì vậy, doanh nghiệp tăng sản lượng sản xuất để đáp ứng nhu cầu các cơ sở dịch vụ ăn uống, du lịch đang hoạt động ổn định trở lại.
- Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 135,37 triệu lít, tăng 32,88% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 1.954,84 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 61,80% trong ngành sản xuất đồ uống và 5,67% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do Công ty TNHH MTV Masan HG, mới đầu tư hoàn thành dây chuyền sản xuất, nước uống tăng lực vị cà phê Wake up 247 từ những tháng cuối năm 2021 đến nay, với sản lượng sản xuất trên 7,6 triệu lít/tháng và Công ty TNHH Number One Hậu Giang tăng sản lượng đột biến từ tháng 3/2022 đến nay, nên đã làm tăng giá trị sản xuất 8 tháng năm 2022 ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất giày dép các loại được 11.565 ngàn đôi, tăng 17,17% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 3.341,67 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 84,29% trong ngành sản xuất giày dép các loại và 9,69% trong toàn ngành. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản phẩm chính là giày thành phẩm. Nguyên nhân tăng cao so với cùng kỳ là do doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn so với cùng kỳ (tháng 7 và tháng 8 năm 2021 doanh nghiệp bị bùng phát ổ dịch covid-19, nên doanh nghiệp phải thực hiện sản xuất theo phương châm 3 tại chổ và với quy mô khoảng 30%-50% lao động). Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 8 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ.
- Điện sản xuất được 1.255 triệu kwh, tăng rất cao so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.386,11 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 88,76% trong ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí và 6,92% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, hoạt động hết công suất trong tháng 7 và tháng 8 năm 2022 (sản lượng điện sản xuất trong tháng 7 tăng 77,66% so với tháng trước), nên dự tính chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2022 tăng đột biến so với cùng kỳ.
- Ở chiều ngược lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19, từ đầu năm đến nay và giá xăng dầu tăng so với cùng kỳ, nên một số doanh nghiệp chưa phục hồi trở lại như trước dịch, làm một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất giấy và bìa giấy các loại được 311,64 nghìn tấn, giảm 1,17% so với cùng kỳ; sản lượng phi lê cá và các loại thịt cá khác được 74 tấn, giảm 77,02% so với cùng kỳ; sản lượng thuốc trừ côn trùng được 240 tấn, giảm 27,93% so với cùng kỳ; sản lượng thuốc diệt nấm được 233 tấn, giảm 51,66% so với cùng kỳ; sản lượng thuốc diệt cỏ, Thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hoà sinh trưởng cây trồng được 132 tấn, giảm 5,65% so với cùng kỳ… các sản phẩm trên có giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) trên 4.776,21 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,86% trong toàn ngành và giảm 6,76% về giá trị so với cùng kỳ.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 8 tháng năm 2022 trên địa bàn tỉnh tăng trưởng khá cao, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động tăng giảm khó lường so với cùng kỳ. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy Công ty TNHH Sunpro Capital Group Limited, đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong những tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 8/2022, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 2,99% so với tháng trước và tăng 31,80% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,01% so với tháng trước và tăng 26,79% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do cùng thời điểm này năm trước, dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh, nên một số doanh nghiệp phải tạm ngưng hoạt động hoặc giảm quy mô sản xuất để đảm bảo công tác phòng chống dịch tại doanh nghiệp. Vì vậy, dự tính tháng 8/2022 doanh nghiệp hoạt động ổn định hơn cùng kỳ và một số ngành tăng đột biến so với cùng kỳ như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 3,81% so với tháng trước và tăng 53,87% so với cùng kỳ; chế biến và bảo quản rau quả, tăng 1,11% so với tháng trước và tăng 52,07% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản, tăng 1,43% so với tháng trước và tăng 21,02% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất đồ uống, tăng 4,30% so với tháng trước và tăng 53,74% so với cùng kỳ năm trước; sản xuất trang phục, tăng 5,34% so với tháng trước và tăng 135,76% so với cùng kỳ; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan, giảm 2,89% so với tháng trước và tăng 180,92% so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,19% so với tháng trước và tăng 1.328,44% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty điện lực Hậu Giang đã cung cấp đủ điện, an toàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội, hạn chế tối đa không để tình trạng mất điện, đảm bảo nhu cầu sử dụng cho người dân và các doanh nghiệp được hoạt động liên tục. Ngoài ra, tăng một phần là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I đã chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế, nên dự tính sản lượng điện sản xuất đạt trên 275,37 triệu kwh/tháng, tăng 9,63% so với tháng trước và tăng rất cao so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số ngành này so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,14% so với tháng trước và tăng 4,43% so với cùng kỳ. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 05 doanh nghiệp đang hoạt động ổn định trong ngành này. Nguyên nhân là do hiện nay đang bước vào mùa mưa, nên người dân dự trữ nước mưa để sự dụng trong sinh hoạt, nên chỉ số tháng này giảm so với tháng trước. Bên canh đó, Công ty Cổ phần cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang đi vào hoạt động ổn định từ năm 2021 đến nay, với sản lượng trên 790 ngàn M3/tháng. Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước.
Dự tính 8 tháng năm 2022, IIP tăng 14,82% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 2,36% của 8 tháng năm 2021 so với cùng kỳ). Trong đó, Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm tỷ trong trên 91,64% trong toàn ngành) tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp với mức tăng 12,13%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 748,82%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,80%.
Một số ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh, duy trì sản xuất ổn định và có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 26,53%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 18,44%; sản xuất đồ uống tăng 28,57%; sản xuất trang phục tăng 295,94%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,90%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 10,68%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 30,92%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 788,12%… Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số sản xuất giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 1,75%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 32,66%... Nguyên nhân là do chi phí nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào tăng cao. Trong đó, giá xăng dầu trong tháng có điều chỉnh giảm nhưng phí vận chuyển, nguyên liệu nhập khẩu đầu vào vẫn ở mức cao hơn so với cùng kỳ, nên một số doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng đã ký, không để hàng tồn kho nhiều ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, IIP 8 tháng năm 2022 một số ngành vẫn chưa phục hồi trở lại sau đại dịch.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Tính từ ngày 20/7/2022 – 20/8/2022, có 69 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 488,89 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng gấp 4,6 lần về số doanh nghiệp và tăng gấp 2,1 lần về số vốn). Lũy kế từ đầu năm có 629 doanh nghiệp đăng ký thành lập, với tổng số vốn 4.034,46 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 62% về số doanh nghiệp và tăng 154% về vốn); có 8 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn 4,5 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng gấp 8 lần về số doanh nghiệp, tháng 8/2021 không có doanh nghiệp giải thể). Lũy kế từ đầu năm có 106 doanh nghiệp đăng ký thủ tục giải thể, với tổng số vốn 113,52 tỷ đồng (So với cùng kỳ tăng 92,7% về số doanh nghiệp, tăng 125,3% về vốn); có 4 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn 3 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 3,3% về số doanh nghiệp, tăng 57,9% về vốn). Lũy kế từ đầu năm có 181 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, với tổng vốn 1.046,47 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 84% về số doanh nghiệp và tăng 126% về vốn). Nguyên nhân do kinh doanh không hiệu quả. Trong tháng có 17 doanh nghiệp hoạt động trở lại.
4. Vốn đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2022 là 18.928,03 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước 3.277,43 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 850,60 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 14.800 tỷ đồng.
Ước tính tháng 8/2022, vốn đầu tư thực hiện được 1.824,60 tỷ đồng, tăng 2,76%[7] so với tháng trước và tăng 47,04% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 323,50 tỷ đồng, bằng 109,48% so với tháng trước và bằng 190,05% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 76,50 tỷ đồng, bằng 101,19% so với tháng trước và bằng 95,03% so với cùng kỳ năm trước.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.424,60 tỷ đồng, bằng 101,43% so với tháng trước và bằng 143,88% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2022, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 13.520,95 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,84% và đạt 71,43% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước được 1.865,72 tỷ đồng, bằng 137,18% so với cùng kỳ năm trước và đạt 56,93% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn được 633,45 tỷ đồng, bằng 80,48% so với cùng kỳ năm trước và đạt 74,47% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước được 11.021,78 tỷ đồng, bằng 112,06% so với cùng kỳ năm trước và đạt 74,47% so với kế hoạch năm.
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 8/2022 được 715,93 tỷ đồng, luỹ kế đuọc 9.259,20 tỷ đồng, đạt 105,89% dự toán Trung ương, đạt 80,86% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Trung ương trợ cấp được 314,26 tỷ đồng, luỹ kế được 2.817,19 tỷ đồng, đạt 67,04% dự toán Trung ương, đạt 64,81% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Thu nội địa được 360 tỷ đồng, luỹ kế được 3.640,81 tỷ đồng, đạt 90,07% dự toán Trung ương và đạt 84,67% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 8/2022 được 695,74 tỷ đồng, luỹ kế được 5.659,76 tỷ đồng, đạt 73,31% dự toán Trung ương giao, đạt 54,41% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản được 361,57 tỷ đồng, luỹ kế được 2.892,53 tỷ đồng, đạt 89,48% dự toán Trung ương, đạt 59,94% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên được 334,17 tỷ đồng, luỹ kế được 2.673,35 tỷ đồng, đạt 61,27% dự toán Trung ương, đạt 50,85% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31/7/2022, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 18.628 tỷ đồng, tăng trưởng 9,36% so với cuối năm 2021. Vốn huy động đáp ứng được 57,13% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 9.564 tỷ đồng (chiếm 51,34%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.064 tỷ đồng (chiếm 48,66%). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,2%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng từ mức 3,0-5,2%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng từ 3,7-6,9%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên từ 4,9-7,5%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 8/2022, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 18.680 tỷ đồng, tăng trưởng 9,67% so với cuối năm 2021.
Đến ngày 31/7/2022, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 32.605 tỷ đồng, tăng trưởng 10,30% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 16.300 tỷ đồng (chiếm 49,99%); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 16.305 tỷ đồng (chiếm 50,01%). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,5%/năm; cho vay trung, dài hạn ở mức 8,8 -12,4%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn từ 9,0 - 9,5%/năm; trung, dài hạn từ 10,5 - 13%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 8/2022, dư nợ đạt 32.647 tỷ đồng, tăng trưởng 10,44% so với cuối năm 2021.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 7/2022 là 892 tỷ đồng, chiếm 2,74%/tổng dư nợ; nợ xấu là 491 tỷ đồng, chiếm 1,51%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 401 tỷ đồng, chiếm 44,96%/tổng nợ quá hạn. Ước thực hiện đến cuối tháng 8/2022, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra (thấp hơn 3%/tổng dư nợ).
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Giá xăng dầu liên tiếp được nhiều lần điều chỉnh giảm, các mặt hàng thiết yếu quan trọng như sắt, thép và một số mặt hàng lương thực, thực phẩm tiêu dùng như thịt heo, dầu ăn,… cũng đã có phần hạ nhiệt trên thị trường. Dự ước trong thời gian tới, với sự vào cuộc quyết tâm của các ngành chức năng trong việc đẩy mạnh kiểm soát, ổn định giá các loại hàng hóa, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, găm hàng, đầu cơ, tăng giá bất hợp lý theo chủ trương của Chính phủ sau khi giá xăng dầu giảm (giảm phiên thứ 5 liên tiếp xuống mức hơn 24.660 đồng/lít) có thể sẽ làm giá một số mặt hàng giảm, do đó doanh thu chung thương mại và dịch vụ giảm so với tháng trước. Cụ thể:
- Ước tính tháng 8/2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 4.208,98 tỷ đồng, so với tháng trước giảm nhẹ bằng 97,34%, so với cùng kỳ năm trước bằng 172,66%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.117,05 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 96,02% và so với cùng kỳ năm trước bằng 142,17%. Doanh thu bán lẻ của một số nhóm hàng hóa thiết yếu có mức giảm nhiều so với tháng trước. Nguyên nhân chủ yếu do giá cả biến động giảm trên thị trường cùng nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm sâu ở một số loại hàng hóa có sự tăng giá. Các nhóm hàng có mức sụt giảm nhiều nhất bao gồm: Nhóm lương thực, thực phẩm có mức giảm hơn 8,5%, may mặc và đồ dùng trang thiết bị gia đình giảm khoảng 7%, còn lại một số nhóm hàng khác có mức giảm chung khoảng 6%. Các nhóm hàng khác còn lại, mặc dù có tăng nhưng nhìn chung không nhiều, đa số là những nhóm hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu bán lẻ nên không ảnh hưởng nhiều đến mức tăng chung.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 584,53 tỷ đồng[8], so với tháng trước bằng 100,70% và so với cùng kỳ năm trước bằng 281,67%. Hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống tiếp tục trên đà hồi phục tăng trưởng. Các cơ sở kinh doanh nhà hàng, quán nhậu, quán giải khát,… đều có doanh thu tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. Các cở sở lưu trú (nhà nghỉ, khách sạn) có phần hồi phục chậm sau đại dịch, giá trị doanh thu vẫn còn giảm so với cùng kỳ. Nguyên nhân do các cơ sở nhà nghỉ, nhà trọ từ đầu năm đến nay kinh doanh không hiệu quả, lợi nhuận ít một số cơ sở đã tạm ngừng hoạt động. Nguyên nhân tăng cao do cùng kỳ năm 2021 các cơ sở lưu trú phải ngừng hoạt động kinh doanh, các cơ sở ăn uống phải tạm ngừng kinh doanh một phần (chỉ được phép bán mang đi) hoặc ngừng hoàn toàn để phòng chống dịch.
- Doanh thu dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 507,39 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,07% và so với cùng kỳ năm trước tăng đột biến rất cao. Nguyên nhân chủ yếu do nhóm dịch vụ vui chơi, giải trí (ngành R) tác động, cùng kỳ năm 2021 bùng phát mạnh dịch Covid-19 các hoạt động xổ số, karaoke, các khu vui chơi phải tạm ngừng hoạt động hoàn toàn để phòng chống dịch.
Ước tính 8 tháng năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng và hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 34.495,78 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 124,29% và so với kế hoạch năm đạt 80,22%. Trong đó, doanh thu hoạt động bán lẻ vẫn là ngành hàng chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm hơn 76% tổng doanh thu), tiếp đến là nhóm lưu trú và ăn uống (chiếm khoảng 14%) và sau cùng là các ngành dịch vụ tiêu dùng (chiếm hơn 10%). Nhìn chung 8 tháng năm 2022, hầu hết các hoạt động kinh doanh bán buôn, bán lẻ, dịch vụ lưu trú, ăn uống và các loại hình dịch vụ tiêu dùng khác trên địa bàn đều có sự tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân, do cùng kỳ năm 2021 dịch Covid-19 bùng phát mạnh trên địa bàn, các cơ sở kinh doanh hàng hóa không thiết yếu đều phải tạm ngưng hoạt động. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 26.248,98 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 21,81%. Các nhóm hàng đóng góp vào mức tăng chung cao chủ yếu vẫn là lương thực, thực phẩm tăng 22,64%; xăng dầu các loại tăng 102,35%; đá quý, kim loại quý tăng 7,91%; hàng may mặc tăng 5,23%; nhóm các sản phẩm hàng hóa khác tính chung tăng 18,21%. Các nhóm hàng khác còn lại có mức tăng, giảm ít, không ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng chung của toàn ngành.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 4.737,18 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 118,68%. Trong đó: Dịch vụ lưu trú được 62,54 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 85,85%; dịch vụ ăn uống được 4.674,65 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 119,29%.
- Doanh thu dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 3.509,62 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 58,58%. Nhìn chung, trong 8 tháng hầu hết các hoạt động dịch vụ tiêu dùng phục vụ cá nhân đã hồi phục mạnh mẽ và đều có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ vui chơi giải trí, hành chính hỗ trợ, y tế, là những loại hình dịch vụ đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung, có mức tăng lần lượt là 70,45%, 24,08%, 62,09%.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 8/2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 75,72 triệu USD so với tháng trước bằng 89,77% và so với cùng kỳ năm trước bằng 161,13%[9]. Chia ra:
- Xuất khẩu thực hiện được 53,43 triệu USD, so với tháng trước bằng 95,38% và so với cùng kỳ năm trước bằng 160,97%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 22,29 triệu USD, so với tháng trước bằng 78,67% và so với cùng kỳ năm trước bằng 161,53%.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 701,67 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 112,29%, so với kế hoạch năm đạt 66,32%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 434,74 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 116,60%, so với kế hoạch năm đạt 60,63%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do cùng kỳ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên giá trị xuất khẩu giảm. Một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ như: Giày dép các loại tăng 22,46%, giấy và sản phẩm từ giấy tăng 33,96%; hàng hóa khác tăng 164,76%, …
- Nhập khẩu ước thực hiện được 238,10 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,77%, so với kế hoạch năm đạt 82,10%. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ năm trước là do ước giá trị nhập khẩu của các nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn tăng như: giấy các loại tăng 43,24%, hàng hóa khác tăng 60,73%,...
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,68 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 174,81%, so với kế hoạch năm đạt 68,00%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 28,15 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 91,40%, so với kế hoạch năm đạt 56,30%.
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động kinh doanh vận tải, kho bãi của các doanh nghiệp và cơ sở cá thể trên địa bàn tiếp tục có mức tăng nhẹ (tăng 3,58%) so với tháng trước. Hoạt động vận tải đường bộ vẫn là động lực phát triển, là xương sống của ngành vận tải trên địa bàn. Đặc biệt vận tải hàng hóa đường bộ sau đại dịch có sự bứt phá trong phát triển và có mức tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào doanh thu của toàn ngành vận tải.
Vì vậy, ước tính tháng 8/2022 tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 126,42 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 103,58% và so với cùng kỳ năm trước bằng 225,80%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 79,54 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,52% và so với cùng kỳ năm trước bằng 306,94%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 29,84 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,62% và so với cùng kỳ năm trước bằng 471,12%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 17,04 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,02% và so với cùng kỳ năm trước bằng 71,78%.
Ước tính 8 tháng năm 2022, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 899,42 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 117,50%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 537,97 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 160,53%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 213,44 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 97,81%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 148,01 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 69,77%. Nguyên nhân giảm nhiều so với cùng kỳ là do có doanh nghiệp lớn hoạt động cho thuê kho bãi và kho đông lạnh trong khu công nghiệp trên địa bàn Huyện Châu Thành sau dịch bệnh đã giải thể, hiện không còn hoạt động.
Nhìn chung, hoạt động vận tải 8 tháng năm 2022 có nhiều chuyển biến tích cực, khu vực vận tải đường bộ tăng trưởng nhanh và có mức cao so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp hoạt động trong loại hình vận chuyển này không ngừng mở rộng năng lực vận chuyển và có mức doanh thu tăng cao liên tục từ đầu năm đến nay. Các cơ sở cá thể cũng có bước tăng nhưng không quá lớn và có quy mô hoạt động nhỏ hơn nhiều so với các doanh nghiệp. Khu vực vận chuyển đường thủy có sự phục hồi khá chậm đang còn có mức giảm nhẹ so với cùng kỳ, giảm 2,19%.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Hạ tầng giao thông khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung và trên địa bàn nói riêng đang được quan tâm đầu tư mạnh. Các tuyến đường kết nối với các tỉnh thành xung quanh đang được khẩn trương hoàn thành đưa vào sử dụng để tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện cho các cơ sở vận tải kinh doanh hiệu quả. Dự báo trong tháng 8/2022 khi tuyến đường dần hoàn thành, hoạt động vận chuyển hàng hóa của các cơ sở kinh doanh trên địa bàn sẽ được nhanh chóng hơn và tần suất số chuyến vận chuyển cũng được cải thiện nâng lên, góp phần làm tăng sản lượng vận chuyển hàng hóa hơn.
Ước thực hiện tháng 8/2022, toàn tỉnh vận chuyển được 633,80 nghìn tấn hàng hóa các loại (61.273,67 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,73% (103,34%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 688,97% (674,18%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 169,92 nghìn tấn (17.453,55 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 106,51% (106,81%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 419% (342,53%).
- Đường sông thực hiện được 463,88 nghìn tấn (43.820,12 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 102,75% (102,02%) và so với cùng kỳ năm trước tăng rất cao.
Ước thực hiện 8 tháng năm 2022, toàn tỉnh vận chuyển được 4.232,34 nghìn tấn hàng hóa các loại (396.410,39 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 115,03% (128,81%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 1.288,37 nghìn tấn (116.122,07 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 179,45% (161,21%).
- Đường sông thực hiện được 2.943,97 nghìn tấn (280.288,32 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 99,42% (118,91%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Thời điểm mùa tựu trường năm học mới sắp đến nhu cầu đi lại của các học sinh, sinh viên sẽ tương đối lớn. Mặt khác, cơ sở vật chất hạ tầng giao thông được các cấp, các ngành quan tâm đầu tư nâng cấp kịp thời, đồng bộ đã tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các cơ sở vận tải hành khách.
Ước thực hiện tháng 8/2022, toàn tỉnh thực hiện được 2.631,07 nghìn lượt hành khách (52.150,41 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 100,97% (106,72%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 313,83% (282,54%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 832,25 nghìn lượt hành khách (44.549,94 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 103,37% (107,16%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 378,76% (297,78%).
- Đường sông vận chuyển được 1.798,82 nghìn lượt hành khách (7.600,47 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 99,90% (104,22%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 290,78% (217,34%).
Ước thực hiện 8 tháng năm 2022, toàn tỉnh thực hiện được 21.212,09 nghìn lượt hành khách (411.652,51 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 101,53% (124,85%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 6.996,24 nghìn lượt hành khách (351.257,98 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 143,55% (139,84%).
- Đường sông vận chuyển được 14.215,85 nghìn lượt hành khách (60.394,53 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 88,75% (76,90%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Trong tháng, ngành Giáo dục và Đào tạo tập trung chủ yếu vào hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
Giáo dục tiểu học - mầm non:
- Tổ chức Hội nghị tổng kết năm học 2021-2022 và triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023.
- Kiểm tra công tác hè 2022 và công tác tuyển sinh năm học 2022-2023 các đơn vị huyện, thị xã, thành phố.
- Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn năm học 2022-2023.
Giáo dục trung học - Giáo dục thường xuyên:
- Chỉ đạo bồi dưỡng Đội tuyển tham dự thi học sinh giỏi cấp quốc gia năm học 2022-2023.
- Tổ chức Hội nghị tổng kết và triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023 đối với giáo dục trung học; giáo dục thường xuyên; giáo dục chính trị tư tưởng và công tác học sinh sinh viên; giáo dục dân tộc; giáo dục thể chất.
- Triển khai tập huấn trực tiếp chương trình giáo dục ONLUYEN.VN.
- Tham gia công tác chấm phúc khảo Kỳ thi Tốt nghiệp THPT năm 2022.
7.2. Văn hóa, thể thao
Trong tháng, toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, các công tác trọng tâm của địa phương như: kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2022); kỷ niệm 77 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945-02/9/2022)… Kết quả: In mới và lắp đặt: 1.360 m2 pano trên các tuyến đường chính; treo hơn 3.900 cờ các loại, 195 băng rol. Lắp mới 30 pa nô (kích thước 2m x 3m) trên đường Hùng Vương, đường Võ Văn Kiệt, Đại lộ Võ Nguyên Giáp và các tuyến đường trong Khu hành chính UBND tỉnh, tổng số 1.800 m2. Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, tổ chức phục vụ nhân dân với 45 buổi biểu diễn, phục vụ 24.720 lượt người xem, tổ chức 44 buổi phóng thanh.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm 2.000 quyển sách viết về Hậu Giang, sách quý, sách hay, sách mới các lĩnh vực…; Tổ chức triển lãm 400 quyển sách về thể thao và sách mới các lĩnh vực phục vụ Giải vô địch trẻ Judo Quốc gia năm 2022 từ ngày 04/8 đến ngày 09/8/2022, thu hút trên 1.000 lượt người xem; Trưng bày 125 quyển sách tại Thư viện tỉnh: Sách kỷ niệm Ngày Thương binh liệt sĩ 27/7; sách chuyên đề về Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam 28/7; sách mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; sách chuyên đề về cải cách hành chính và Tủ sách Bác Hồ.
Hoạt động bảo tồn - bảo tàng và phát huy giá trị di sản văn hóa: Triển lãm ảnh 13 cuộc, tiếp tục sưu tầm tài liệu, hiện vật, hình ảnh hoàn chỉnh hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích lịch sử: Căn cứ Khu ủy, Quân khu ủy khu 9 và nơi ở thời niên thiếu của cố luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Hậu Giang.Tiếp 20 đoàn khách tham quan tại các di tích Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ Tiểu đoàn Tây Đô...
Sự nghiệp thể dục thể thao: Đăng cai tổ chức thành công giải vô địch trẻ Judo quốc gia năm 2022. Tham gia có hơn 500 vận động viên đến từ 23 tỉnh, thành, ngành trên cả nước gồm: Bắc Giang, Bắc Ninh, Lâm Đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Bộ Công an, thành phố Cần Thơ, Hải Phòng, Quân đội, Bến Tre, Sóc Trăng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Bình Dương, Đà Nẵng, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hà Nội, Bình Phước, Bạc Liêu, Thừa Thiên Huế, Trà Vinh và chủ nhà Hậu Giang. Giải phục vụ 5.000 lượt người xem. Tham gia 06 giải thể thao đạt 14 Huy chương vàng (HCV), 12 Huy chương bạc (HCB), 17 Huy chương đồng (HCĐ)[10].
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 1.034 (12.130)/15.000 lao động, đạt 80,87% kế hoạch năm.
Thực hiện Quyết định số 1062/QĐ-UBND ngày 03/6/2022 của UBND tỉnh về việc ủy quyền phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hậu Giang theo quy định tại Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Đến thời điểm hiện tại, UBND huyện Châu Thành và Châu Thành A đã phê duyệt hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trên địa bàn tỉnh Hậu Giang là 2.439 người, với số tiền 1.665 triệu đồng. Trong đó, hỗ trợ người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp là 2.305 người, với số tiền 1.515 triệu đồng; hỗ trợ người lao động quay lại thị trường lao động là 134 người với số 150 triệu đồng.
Công tác hỗ trợ tuyển dụng lao động cho doanh nghiệp: Thực hiện thỏa thuận và giao kết hợp đồng hỗ trợ tuyển dụng lao động đối với 01(25) lượt doanh nghiệp. Tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tư vấn đã hỗ trợ giới thiệu, cung ứng được 885 (5.696) lao động.
Công tác hỗ trợ người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng: Trong tháng, đã hỗ trợ đưa 89(259)/346 lao động (trong đó, có 153 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc), đạt 74,86% kế hoạch năm. Tổ chức hỗ trợ chi phí ban đầu không hoàn lại cho 82 (134) người lao động đi làm việc nước ngoài với số tiền 630 (1.067,5) triệu đồng.
Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp: Trong tháng, tuyển sinh đào tạo nghề được 391 (3.744)/6.500 người, đạt 57,6% kế hoạch năm. Trong đó, Cao đẳng 14(70) người, Trung cấp 06(229) người, sơ cấp và dưới 3 tháng 371(3.445) người.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 242 (1.337) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 235 (1.310) hồ sơ. Trong đó, đạt 210(1.212) hồ sơ, không đạt 25(98) hồ sơ. Còn 27 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết; Tổ chức đưa, đón 85 (256) người có công với cách mạng đi điều dưỡng tại miền Trung và tham quan tại Thủ đô Hà Nội, viếng Lăng Bác, gặp mặt các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; Phối hợp với các đơn vị có liên quan tham mưu UBND tỉnh tổ chức các hoạt động kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7/1947 - 27/7/2022), cụ thể: Toàn tỉnh có 22.767 người có công với cách mạng được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của Tỉnh với số tiền là 7.233 triệu đồng; Tổ chức Lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh; “Thắp nến tri ân” tại các Nghĩa trang liệt sĩ, các nhà bia ghi tên liệt sĩ,...
Lĩnh vực Bảo trợ xã hội và Giảm nghèo: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 35.681 (282.046 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 18.630,675 (146.448,575) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 211 (1.740) trường hợp với số tiền 1.519,2 (12.528) triệu đồng; hỗ trợ khẩn cấp cho 16 (223) trường hợp với số tiền 432(4.523) triệu đồng; Phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức thăm, tặng quà cho 250 người bị nhiễm chất độc da cam/dioxin trên địa bàn tỉnh với số tiền 100 triệu đồng nhân Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8).
Lĩnh vực Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới: Phối hợp với tổ chức SEAOF hỗ trợ gạo cho 32 hộ gia đình trẻ em mồ côi, xây dựng 04 căn nhà Mái ấm tình thương cho 04 hộ gia đình trẻ em mồ côi; thăm, tặng quà cho 03 trẻ em mồ côi trên địa bàn thị xã Long Mỹ và huyện Vị Thủy với số tiền 296,545 (435,02) triệu đồng.
Lĩnh vực Phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 100 (366) cuộc với 3.201 (12.490)l ượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 76 (352) cuộc với 473 (2.642) phút tuyên truyền. tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 1.768 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 106 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 215 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, cộng dồn là 356 ca, tăng 302 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 126 ca mắc mới, cộng dồn là 386 ca, tương đương với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, quai bị, bệnh viêm gan do virút và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn.
Tình hình dịch Covid-19: Số nhiễm trong tháng (tính đến ngày 14/8/2022) là 53 người, số tử vong trong tháng là 00 người. Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7/2021) đến 18 giờ ngày 13/7/2022 tỉnh Hậu Giang có 52.620 người mắc, điều trị khỏi 52.279, chuyển viện 02 người, số người tử vong 311, hiện đang điều trị là 23 người (điều trị tại nhà 20 người). Hiện tại các Bệnh viện, Trung tâm Y tế đang triển khai khoa điều trị người nhiễm Covid-19.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 840 trẻ, cộng dồn là 6.951 trẻ, đạt 64,1%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 989 trẻ, cộng dồn là 7.611 trẻ, đạt 66,9%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 917 thai phụ, cộng dồn là 7.131 thai phụ, đạt 69,1%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn: 17 ca (giảm 41 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.887 ca; số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (giảm 08 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (giảm 10 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 59 người, tổng số bệnh nhân điều trị ARV là 939 người.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 8/2022: Tổng số lần khám 145.019 lượt, cộng dồn là 815.273 lượt, đạt 67,57% kế hoạch, giảm 27,54% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 8.175 lượt, cộng dồn là 53.939 lượt, đạt 40,11% kế hoạch, giảm 22,45% so với cùng kỳ. Ngày điều trị trung bình là 6,62 ngày, tăng 0,69 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 3.093 trường hợp, giảm 1.121 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 8/2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 05 người, bị thương 01 người. So với tháng 7/2022 số vụ tương đương, số người chết tương đương và số người bị thương giảm 03 người. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ tăng 05, số người chết tăng 04 người và số người bị thương tăng 01 người. Nguyên nhân do không đi đúng phần đường 02 vụ, chuyển hướng không đúng quy định 02 vụ, vượt sai 01 vụ và lỗi hỗn hợp 01 vụ.
Tính chung 8 tháng năm 2022 (từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/8/2022), toàn tỉnh xảy ra 44 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 43 người, bị thương 07 người. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ tăng 07 vụ, số người chết tăng 10 người, số người bị thương giảm 02 người.
7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Tình hình sạt lỡ: Trong tháng không xảy ra sạt lỡ. Cùng kỳ năm 2021, xảy ra 01 vụ sạt lỡ, diện tích mất đất tăng 85m2, ước thiệt hại tăng 22 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay đã xảy ra 17 trường hợp sạt lỡ, không có trường hợp nhà bị cuốn trôi, diện tích mất đất 2.834m2, ước tổng thiệt hại 2.062 triệu đồng.
So với cùng kỳ năm 2021, giảm 12 vụ (diện tích mất đất giảm 1.593m2 và ước giá trị thiệt hại giảm 377 triệu đồng).
Mưa lớn, dông lốc: Trong tháng có 9 vụ dông lốc, làm sập 3 căn nhà, tốc mái 15 căn nhà và 01 trụ sở UBND xã, ước thiệt hại 267 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021, tăng 07 vụ, nhà sập giảm 3 căn, tốc mái giảm 32 căn, ước thiệt hại giảm 305,50 triệu đồng (Tháng 8 năm 2021, xảy ra 2 vụ dông lốc, làm sập 06 căn nhà, tốc mái 47 căn nhà, ước thiệt hại 770,50 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay, sập 15 căn nhà, tốc mái 61 căn nhà và 02 phòng của Ban giám hiệu, ngã 01 trụ viễn thông, tốc mái 01 trụ sở UBND xã, ước thiệt hại 1.894 triệu đồng. Cùng kỳ năm 2021, xảy ra 04 vụ làm sập 14 căn nhà, tốc mái 63 căn nhà và 01 nhà kho, ước giá trị thiệt hại 3.014,50 triệu đồng.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh, đã phát hiện và xử lý 05 vụ vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và vi phạm các điều kiện về đảm bảo an toàn thực phẩm với số tiền xử phạt là 10,50 triệu đồng. So với cùng kỳ, số vụ vi phạm tăng 04 vụ, xử lý tăng 03 vụ, số tiền xử phạt tăng 10,50 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 44 vụ, xử lý 41 vụ, với số tiền xử phạt là 575 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về an toàn thực phẩm, xả nước thải, khí thải vượt chuẩn cho phép và vi phạm quy định về vệ sinh thú y; vi phạm về thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ vi phạm tăng 03 vụ, xử lý tăng 01 vụ, số tiền xử phạt giảm 136 triệu đồng.Ngành chức năng tiếp tục giám sát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tiếp nhận thông tin phản ánh của người dân để kịp thời xử lý theo quy định.
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 04 vụ cháy, không thiệt hại về người, ước tổng tài sản thiệt hại khoảng 1.400 triệu đồng./.
[1] Nguyên nhân giảm là do điều kiện chăn thả ngày càng bị thu hẹp, hiệu quả kinh tế thấp nên người dân chuyển sang nuôi các vật nuôi khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
[2] Tăng chủ yếu do hộ nuôi trên ruộng lúa có hiệu quả.
[3] Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 64,53 ha, tăng 1,43% (bằng 0,91 ha) so cùng kỳ.
[4] Trong đó, diện tích nuôi tôm sú được 96,5 ha, tăng 11,32% so với cùng kỳ, tập trung ở huyện Long Mỹ (Nuôi trong ruộng lúa).
[5] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh ít xảy ra trên thủy sản, nuôi cá tra công nghiệp được hộ nuôi đầu tư mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân.
[6] Nguyên nhân là do tháng 8/2022 các doanh nghiệp hoạt động ổn định và hiệu quả hơn cùng kỳ năm trước (trong tháng 8/2021 một số doanh nghiệp bùng phát dịch Covid-19 hoặc doanh nghiệp không đủ điều kiện hoạt động theo phương án 3 tại chỗ, nên phải tạm ngưng hoạt động). Vì vậy, sản lượng sản xuất tháng 8/2022 một số sản phẩm tăng đột biến so với cùng kỳ như: Tôm đông lạnh sản lượng sản xuất được 3.854 tấn, tăng 44,18% so với cùng kỳ; thủy hải sản xay nhỏ hoặc dạng mắm đặc được 1.000 tấn, tăng 132,02%; bột mịn, bột thô và bột viên từ cá hay động vật giáp xác được 2.934 tấn, tăng 1.007,17%; thức ăn gia súc sản lượng sản xuất được 25.315 tấn, tăng 21,02% so với cùng kỳ; Nước có vị hoa quả (cam, táo,…) sản lượng sản xuất được 15,82 triệu lít, tăng 56,54% so với cùng kỳ; sản xuất giày, dép bằng da sản lượng sản xuất 1,41 triệu đôi, tăng 181% so với cùng kỳ… Ngoài ra, tăng một phần là do nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, trong tháng 8/2022 hoạt động hết công suất. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất tháng này tăng cao so với cùng kỳ năm trước.
[7] Nguyên nhân là do thời tiết thuận lợi hơn, đã hết mưa lớn kéo dài nên các công trình thi công không bị gián đoạn; các đơn vị thi công tập trung hoàn thành các công trình khánh thành để đăng ký chào mừng lễ Quốc khánh 2/9.
[8] Trong đó: Dịch vụ lưu trú được 7,88 tỷ đồng, so tháng trước bằng 95,06%, so cùng kỳ bằng 216,78%; dịch vụ ăn uống được 576,66 tỷ đồng, so tháng trước bằng 100,79%, so cùng kỳ bằng 282,82%.
[9] Nguyên nhân ước tháng 8 tăng so với cùng kỳ là do tháng 8/2021 bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên các doanh nghiệp hoạt động không liên tục làm cho giá trị xuất nhập khẩu trực tiếp đạt thấp, ước tháng 8/2022 các doanh nghiệp hoạt động bình thường và có các hợp đồng xuất nhập khẩu mới nên giá trị tăng cao so với cùng kỳ.
[10] Cụ thể: Giải vô địch Bắn cung trẻ quốc gia năm 2022 tại Hà Nội (01 HCV); giải vô địch Cờ vua trẻ xuất sắc quốc gia năm 2022 tranh cúp SHB tại Lâm Đồng (01 HCB, 02 HCĐ); giải vô địch các câu lạc bộ Karate quốc gia lần thứ XXII tại Phú Yên (01 HCĐ); giải vô địch Boxing trẻ toàn quốc năm 2022 tại Đắk Lắk (02 HCĐ); giải vô địch các Câu lạc bộ Triathlon quốc gia năm 2022 tại TPHCM (04 HCV, 01 HCĐ, xếp hạng Nhất toàn đoàn); giải vô địch trẻ Judo quốc gia năm 2022 tại Hậu Giang (09 HCV, 11 HCB, 11 HCĐ, xếp hạng 4/23 đoàn tham gia).
File đính kèm: Bao_cao_KTXH_thang_8-2022_tinh_Hau_Giang.docSo_lieu_KTXXH_thang_8-2022_tinh_Hau_Giang.xlsx
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang