Trong tháng, tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh tiếp tục được phục hồi và phát triển, khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát tốt, các hoạt động sản xuất, thương mại được diễn ra liên tục, để khôi phục và phát triển kinh tế Tỉnh cũng đã tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại. Vì vậy, các chỉ tiêu kinh tế của Tỉnh tháng 10/2022 tăng trưởng khá hơn so với cùng kỳ như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,45%, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng 11,65%, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 43,58%, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá tăng 18,60%. Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Lúa Thu đông 2022: Hiện đã xuống giống được 35.361,8 ha, đạt 101,03% kế hoạch tỉnh (35.000 ha) diện tích xuống giống tập trung nhiều tại các huyện Vị Thủy, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Vị Thanh. Lúa đang giai đoạn mạ đến trổ chín, sinh trưởng và phát triển tốt. Các giống lúa sử dụng chủ yếu thuộc 03 nhóm giống chất lượng cao như OM5451, OM18 và Đài Thơm 8, cụ thể: OM18 chiếm 54,55%, OM5451 chiếm 41,35%, Đài Thơm 8 chiếm 2,72%, còn lại các giống khác như RVT, IR50404, OM6976, … chiếm 1,38%.
Mía niên vụ 2021-2022: Xuống giống dứt điểm được 3.842,2 ha, đạt 96,06% kế hoạch tỉnh (4.000 ha), giảm 23,76% (bằng 1.197,5 ha) so với cùng kỳ, diện tích mía toàn tỉnh tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Đến nay, đã thu hoạch được 2.038 ha, giá bán từ 2.800-3.000 đồng/kg (bán mía nước), tăng 1.000 đồng so với tháng trước và tăng từ 1.300-1.600 đồng/kg so với cùng kỳ. Mía còn lại ở giai đoạn phân lóng đến sắp thu hoạch, đang sinh trưởng và phát triển tốt. Trong tháng có 48 ha nhiễm sinh vật gây hại (tăng 1 ha so với tháng trước) gồm: chuột, rệp sáp, sâu đục thân, rầy đầu vàng, rỉ sắt và đốm vòng,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng được 2.074 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 12,53% (bằng 297,11 ha). Năng suất đạt 61,06 tạ/ha, giảm 0,46% (bằng 0,28 tạ/ha) so cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch được 11.840,34 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 11,7% (bằng 1.568,18 tấn). Diện tích gieo trồng giảm do thay đổi mùa vụ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng được 22.740,37 ha, so với năm trước tăng 13,44% (bằng 2.694,06 ha). Ước sản lượng thu hoạch được 244.467,18 tấn, tăng 13,47% (bằng 29.019,48 tấn) so cùng kỳ. Thực hiện theo kế hoạch của ngành chức năng, người nông dân tích cực xuống giống rau màu nên diện tích gieo trồng và thu hoạch tăng mạnh so với cùng kỳ.
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có ước được 3.087,15 ha, đạt 102,91% so kế hoạch năm (3.000 ha) và tăng 6,14% (bằng 178,60 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 10 tháng ước được 30.122,41 tấn, đạt 66,94% so kế hoạch năm (45.000 tấn) và tăng 10,10% (bằng 2.763,86 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Đây là sản phẩm chủ lực của tỉnh.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có ước được 1.664,14 ha, đạt 102,72% so kế hoạch năm (1.620 ha) và tăng 4,96% (bằng 78,70 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 10 tháng ước được 13.327,28 tấn, đạt 88,85% so kế hoạch năm (15.000 tấn) và tăng 7,02% (bằng 874,52 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây mít: Diện tích hiện có ước được 9.951,78 ha, đạt 103,02% so kế hoạch năm (9.660 ha) và tăng 14,64% (bằng 1.271,11 ha) so với cùng kỳ, diện tích tăng chủ yếu ở các huyện như: Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Sản lượng ước 10 tháng được 79.952,83 tấn, đạt 88,84% so kế hoạch năm (90.000 tấn) và tăng 30,64% (bằng 18.752,83 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng khá.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có ước được 2.803,20 ha, đạt 113,03% so kế hoạch năm (2.480 ha) và tăng 2,42% (bằng 66,25 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 10 tháng được 26.129,35 tấn, đạt 79,42% so kế hoạch năm (32.900 tấn) và tăng 6,65% (bằng 1.629,35 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch và năng suất tăng.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có ước được 719,11 ha, đạt 95,88% so kế hoạch năm (750 ha) và tăng 4,19% (bằng 28,89 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 10 tháng ước được 6.573,67 tấn, đạt 77,34% so kế hoạch năm (8.500 tấn) và tăng 17,39% (bằng 973,67 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
Trong tháng, ngành Nông nghiệp tiếp tục chỉ đạo theo dõi tình hình sản xuất vụ Thu đông năm 2022 đảm bảo đạt hiệu quả. Thường xuyên thăm đồng và nắm tình hình sinh vật gây hại, kịp thời hướng dẫn người dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật kịp thời trên tất cả các loại cây trồng khác ở các huyện, thị xã, thành phố. Tiếp tục vận động nông dân tăng cường xuống giống rau màu, đặc biệt trên các diện tích không xuống giống vụ Thu đông đảm bảo thực hiện có hiệu quả kế hoạch mở rộng diện tích sản xuất rau màu các tháng cuối năm trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục theo dõi tình hình mưa bão, chủ động phối hợp với các đơn vị chuyên môn và địa phương để có biện pháp chỉ đạo kịp thời, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai.
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt,… Đồng thời thực hiện công tác tiêu độc, sát trùng trên các chuyến xe, tàu vận chuyển động vật, sản phẩm động vật; giám sát vệ sinh, tiêu độc, khử trùng tại các cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm, các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung trên địa bàn tỉnh. Ước tính đến tháng 10/2022, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.433 con, đạt 94,90% kế hoạch năm (1.510 con), tăng 2,21% (bằng 31 con) so với cùng kỳ. Đàn bò ước được 3.654 con, đạt 100,66% kế hoạch năm (3.630 con), tăng 3,48% (bằng 123 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 143.578 con, đạt 106,35% kế hoạch năm (135.000 con), tăng 6,69% (bằng 8.997 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt được 101.327 con, tăng 5,17% (bằng 4.984 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.217,4 ngàn con, đạt 94,77% kế hoạch năm (4.450 ngàn con), tăng 3,77% (bằng 153,04 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: Đàn gà được 1.578,93 ngàn con, tăng 3,95% (bằng 59,98 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
Về tình hình dịch bệnh: Ngày 14/8/2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 ổ dịch tại hộ ông Tô Văn Sơn thuộc ấp Tân Quới Kinh, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp. Tổng số heo chết và tiêu hủy do dịch bệnh là 47 con heo thịt, với tổng trọng lượng 933 kg. Đến nay, dịch tả heo Châu Phi đã được khống chế. Tính từ ngày tiêu hủy cuối cùng (20/8/2022) đến nay trên địa bàn tỉnh không có heo chết và tiêu hủy do bệnh.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác phòng cháy chữa cháy rừng: Từ đầu năm đến nay được đảm bảo, không xảy ra vụ cháy rừng nào trên địa bàn tỉnh.
Công tác bảo vệ rừng: Công tác thẩm định, giám sát, kiểm tra, khai thác rừng đảm bảo đúng quy định, công tác phòng chống cháy rừng đã quán triệt và làm tốt nên diện tích rừng được bảo vệ an toàn.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2022, số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.604,3 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 2,82% (bằng 44 ngàn cây). Sản lượng gỗ khai thác khoảng 14.596,73 m3, tăng 2,77% (bằng 393,67 m3). Sản lượng củi khai thác được 63.085,84 ste, tăng 1,05% (bằng 654,18 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Trong tháng 10/2022, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 52,32 ha, tăng 0,42% (bằng 0,22 ha) so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2022, diện tích nuôi thủy sản (không tính diện tích nuôi lồng bè, bể bồn) được 8.712,59 ha, đạt 100,72% so kế hoạch năm (8.650 ha) và tăng 9,56% (bằng 759,94 ha) so với cùng kỳ. Cụ thể, diện tích nuôi cá được 8.528,07 ha[1], tăng 9,62% (bằng 748,66 ha); diện tích nuôi tôm được 108,50 ha[2], tăng 10,58% (bằng 10,38 ha); diện tích nuôi thủy sản khác được 76,02 ha, tăng 1,20% (bằng 0,90 ha) so cùng kỳ.
Tổng sản lượng thủy sản tháng 10/2022, ước được 9.027,89 tấn, tăng 5,83% (bằng 497,39 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 10 tháng, ước được 60.186,10 tấn, đạt 72,51% so kế hoạch năm (83.000 tấn) và tăng 3,95%[3] (bằng 2.284,87 tấn) so với cùng kỳ. Chia ra:
- Sản lượng thủy sản khai thác 10 tháng được 2.222,22 tấn, đạt 82,30% so kế hoạch năm (2.700 tấn) và giảm 1,27% (bằng 28,63 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 10 tháng được 57.963,88 tấn, đạt 72,18% so kế hoạch năm (80.300 tấn) và tăng 4,16% (bằng 2.313,50 tấn) so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá thát lát thu hoạch được 3.831,17 tấn, tăng 26,05% (bằng 791,77 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 646,56 tấn, tăng 9,12% (bằng 54,02 tấn) so với cùng kỳ.
3. Sản xuất công nghiệp
Ước thực hiện tháng 10/2022, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 3.159,37 tỷ đồng, tăng 1,19% so với tháng trước và tăng 30,67% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành, được 5.045,22 tỷ đồng, tăng 1,35% so với tháng trước và tăng 32,40% so với cùng kỳ năm trước.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 76,02% trong tổng giá trị toàn ngành và phát triển bền vững trong thời gian vừa qua là do các chính sách ưu đãi thuế, chính sách giải quyết các thủ tục hành chính nhanh gọn của các cơ quan, ban ngành có thẩm quyền, cộng thêm gói vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19 của Chính Phủ và quan trọng nhất là dự án các tuyến cao tốc đi qua địa bàn tỉnh Hậu Giang đang trong giai đoạn đầu tư - xây dựng, nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp lớn đến đầu tư.
Ngoài ra, các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất ổn định cũng mạnh dạn đầu tư mở rộng nhà máy, nâng cao công suất trong thời gian vừa qua, góp phần làm tăng giá trị đột biến một số ngành như: Sản xuất chế biến thủy sản; sản xuất đồ uống; sản xuất giày, dép da; sản xuất sản phẩm quần áo may sẵn; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản, … Bên cạnh đó, tăng một phần là do chính sách nhà nước khuyến khích “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và chương trình đưa hàng Việt về nông thôn của các doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở cá thể công nghiệp và doanh nghiệp tăng sản lượng sản xuất các mặt hàng tiêu thụ nội địa, để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong các dịp lễ, Tết sắp đến.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2022, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 28.421,34 tỷ đồng, tăng 21,21% so với cùng kỳ và đạt 83,69% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 43.485,64 tỷ đồng, tăng 29,56%[4] so với cùng kỳ và đạt 84,80% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 4.856,34 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 11,17% trong toàn ngành và tăng rất cao so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế tư nhân, có 225 doanh nghiệp và trên 4.237 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 29.068,37 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 66,84% trong toàn ngành và tăng 19,31% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 10 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 9.560,92 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 21,99% trong toàn ngành và tăng 6,03% so với cùng kỳ.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 10 tháng năm 2022 so cùng kỳ:
- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 34.120 tấn, tăng 23,67% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 9.300,54 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 53,02% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 21,39% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do một số nước đối thủ cạnh tranh xuất khẩu thủy sản, ảnh hưởng dịch Covid-19 bùng phát trở lại, gặp khó khăn trong việc sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp trong nước nắm được cơ hội, ký được nhiều hợp đồng lớn, nên tuyển thêm lao động để tăng sản lượng sản xuất (lao động doanh nghiệp tăng 41,70% và sản lượng sản xuất của doanh nghiệp tăng 23,67% so với cùng kỳ). Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 10 tháng tăng rất cao so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 289.336 tấn, tăng 28,61% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.482,49 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 14,15% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 5,71% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang, Công ty TNHH Thanh Khôi, Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua, để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân tái đàn vật nuôi trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.
- Sản lượng sản xuất bia đóng chay được 79,51 triệu lít,tăng 3,06% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 228,20 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5,64% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 0,52% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan Brewery Hậu Giang với sản phẩm chính là bia các loại, sau khi các cơ sở dịch vụ ăn uống hoạt động ổn định trở lại, công ty cũng tăng sản lượng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong khu vực, nhất là trong các dịp lễ sắp đến, nên giá trị sản xuất ngành này tăng rất cao so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 185,31 triệu lít, tăng 52,41% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.676,59 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 66,21% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 6,16% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do Công ty TNHH MTV Masan HG đầu tư hoàn thành dây chuyền sản xuất, nước uống tăng lực vị cà phê Wake up 247 từ những tháng cuối năm 2021 đến nay, với sản lượng sản xuất trên 6 triệu lít/tháng và Công ty TNHH Number One Hậu Giang tăng sản lượng đột biến vào tháng 3/2022 đến nay (sản lượng ước 10 tháng năm 2022 của doanh nghiệp tăng 47,56% so với cùng kỳ), nên đã làm tăng giá trị sản xuất 10 tháng năm 2022 ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất giày dép các loại được 13.707 ngàn đôi, tăng 22,39% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 3.960,63 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 89,45% trong ngành sản xuất giày dép các loại và chiếm tỷ trọng 9,11% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp FDI và 01 doanh nghiệp trong nước hoạt động trong ngành này. Trong đó, Công ty TNHH Lạc Tỷ 2 với quy mô trên 10.000 lao động, sản xuất giày thành phẩm, nên tạo ra giá trị sản xuất rất lớn trong ngành này, trong những tháng đầu năm doanh nghiệp nhận được nhiều hợp đồng lớn và yêu cầu chất lượng cao, nên doanh nghiệp tăng sản lượng trên 22,39% so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm giá trị sản xuất 10 tháng năm 2022 tăng so với cùng kỳ.
- Sản lượng điện sản xuất được 1.833 triệu kwh, tăng rất cao so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 4.680,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 92,7% trong ngành sản xuất và phân phối điện, sản xuất nước đá trên địa bàn tỉnh và chiếm tỷ trọng 10,80% trong toàn ngành.
- Ở chiều ngược lại do ảnh hưởng của dịch Covid-19, từ giữa năm 2021 đến nay và giá xăng dầu biến động tăng, giảm bất thường trong những tháng gần đây, làm chi phí vận tải, phí dịch vụ xuất, nhập khẩu tăng, nên một số doanh nghiệp chưa phục hồi trở lại như trước dịch, làm sản lượng sản xuất một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: Sản lượng sản xuất giấy và bìa giấy các loại được 361.148 tấn, giảm 9,85%; sản lượng phi lê cá và các loại thịt cá khác được 74 tấn, giảm 78,97%; sản lượng thuốc trừ côn trùng được 349 tấn, giảm 20,22%; sản lượng thuốc diệt nấm được 213 tấn, giảm 69,71%; sản lượng thuốc diệt cỏ, thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hoà sinh trưởng cây trồng được 141 tấn, giảm 21,47%; … các sản phẩm trên có giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 5.394,94 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12,41% trong toàn ngành và giảm 16,89% về giá trị so với cùng kỳ.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước thực hiện 10 tháng năm 2022 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, giá xăng, dầu biến động khó lường trong những tháng vừa qua. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy Công ty TNHH Sunpro Capital Group Limited, đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra, để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 10/2022, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,18% so với tháng trước và tăng 10,45% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,38% so với tháng trước và tăng 6,40% so với cùng kỳ; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 1,26% so với tháng trước và tăng rất cao so với cùng kỳ (Nguyên nhân do ngày 01/6/2022, các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế, nên dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 10 đạt 293 triệu kwh, tăng 1,38% so với tháng trước); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 0,27% so với tháng trước và giảm 2,88% so với cùng kỳ năm trước.
Một số ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh, duy trì sản xuất ổn định và có chỉ số sản xuất tháng 10 tăng so với cùng kỳ năm trước như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 13,55%; sản xuất và bảo quản rau quả tăng 54,02%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 44,50%; sản xuất đồ uống tăng 72,73%; sản xuất trang phục tăng 87,18%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 74,97%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 129,47%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 49,30%; sản xuất và phân phối điện tăng 1.521,42%,… Ở chiều ngược lại, một số doanh nghiệp do ảnh hưởng giá xăng, dầu và nguyên liệu nhập khẩu đầu vào tăng giá, nên chỉ số sản xuất một số ngành giảm so với cùng kỳ như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 28,15%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 43,51%,... nhưng các ngành trên chiếm tỷ trọng không nhiều trong toàn ngành. Vì vậy, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng so với cùng kỳ.
Dự tính 10 tháng năm 2022, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 15,96% so với cùng kỳ (cao hơn rất nhiều mức tăng 3,86% của 10 tháng năm 2021 so với cùng kỳ). Trong đó, ngành chế biến, chế tạo là ngành chiếm tỷ trọng lớn trên 87,83% trong toàn ngành và tăng 12,90% so với cùng kỳ (cao hơn mức tăng 3,83% của 10 tháng năm 2021 so với cùng kỳ); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 888,07% so với cùng kỳ (cao hơn rất nhiều so với mức tăng 8,86% của 10 tháng năm 2021 so với cùng kỳ); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,55% so với cùng kỳ, nên làm chỉ số sản xuất công nghiệp chung của toàn tỉnh tăng cao so với cùng kỳ.
Một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh:
- Ngành sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 19,09% so với cùng kỳ. Trong đó một số ngành tăng cao như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thủy sản (chiếm tỷ trọng trên 68,22% trong ngành chế biến thực phẩm) tăng 25,04% so với cùng kỳ (Nguyên nhân là do Công ty cổ phần thủy sản Minh Phú Hậu Giang, sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, doanh nghiệp tuyển thêm lao động, tăng sản lượng sản xuất và ký được nhiều hợp đồng mới từ các nước như: Mỹ; EU; Nhật… nên làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ); chế biến và bảo quản rau quả tăng 17,12%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 28,61% so với cùng kỳ,... Vì vậy, đã làm chỉ số sản xuất ngành chế biến thực phẩm tăng so với cùng kỳ.
- Sản xuất đồ uống tăng 37,55% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan HG với sản phẩm chính là nước uống có hương vị cà phê (Wake up 247), đi vào hoạt động ổn định từ giữa năm 2021 đến nay, sản lượng sản xuất 10 tháng năm 2022 được 79,51 triệu lít, tăng 3,06% so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 20,58% so với cùng kỳ. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 03 doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong ngành này, đóng góp trên 4.101,54 tỷ đồng (theo giá hiện hành) trong 10 tháng năm 2022, trong những tháng vừa qua các doanh nghiệp trên đã nhận được những hợp đồng sản xuất giày thể thao có chất lượng cao, đã làm giá trị tăng từ 25% đến 30% so với cùng kỳ.
- Ngành sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng 938% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng rất cao so với cùng kỳ là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I chạy thử từ tháng 01 đến tháng 5 năm 2022 và chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế của thị trường từ tháng 6 năm 2022 đến nay, nên dự tính sản lượng điện sản xuất 10 tháng đạt 1,83 tỷ kwh. Vì vậy, đã làm tăng đột biến chỉ số ngành này so với cùng kỳ.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 10/2022, toàn tỉnh có 55 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 315,4 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng gấp 71% về số doanh nghiệp và giảm 70% về số vốn doanh nghiệp); số doanh nghiệp khó khăn tạm ngừng hoạt động là 03 doanh nghiệp, tổng vốn là 5,9 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 200% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 195%); số doanh nghiệp đăng ký giải thể là 13 doanh nghiệp, với tổng vốn là 31 tỷ đồng (so cùng kỳ tăng 330% về số doanh nghiệp, tăng 103% về vốn). Trong tháng có 15 doanh nghiệp hoạt động trở lại.
Tính chung 10 tháng năm 2022, toàn tỉnh có 763 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng vốn là 4.691,156 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 75% về số doanh nghiệp và tăng 66% về vốn doanh nghiệp); số doanh nghiệp khó khăn tạm ngừng hoạt động là 185 doanh nghiệp, với tổng vốn là 1.056,27 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 77% về số doanh nghiệp, về vốn tăng 126%); số doanh nghiệp đăng ký thủ tục giải thể là 119 doanh nghiệp, với tổng vốn là 144,52 tỷ đồng (so với cùng kỳ tăng 101% về số doanh nghiệp, tăng 203% về vốn). Nguyên nhân doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động và giải thể là do kinh doanh không hiệu quả.
4. Vốn đầu tư
Kế hoạch vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2022 là 19.135,03 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước 3.284,43 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 1.050,60 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 14.800 tỷ đồng.
Ước tính tháng 10/2022, vốn đầu tư thực hiện được 1.565,50 tỷ đồng, tăng 4,84%[5] so với tháng trước và tăng 18,60% so với cùng kỳ. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 365,40 tỷ đồng, tăng 5,72% so với tháng trước và tăng 30,59% so với cùng kỳ.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được102,50 tỷ đồng, tăng 20,22% so với tháng trước và tăng 19,81% so với cùng kỳ.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 1.097,60 tỷ đồng, tăng 3,32% so với tháng trước và tăng 14,97% so với cùng kỳ.
Ước tính 10 tháng năm 2022, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện được 16.415,95 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,74% và đạt 85,79% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 2.586,61 tỷ đồng, bằng 140,58% so với cùng kỳ và đạt 78,75% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 804,96 tỷ đồng, bằng 83,57% so với cùng kỳ và đạt 76,62% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 13.024,38 tỷ đồng, bằng 110,77% so với cùng kỳ và đạt 88% so với kế hoạch năm.
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 10/2022 được 702,71 tỷ đồng, luỹ kế được 10.963,04 tỷ đồng, đạt 125,37% dự toán Trung ương, đạt 95,74% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu Ngân sách nhà nước trên địa bàn được 388,45 tỷ đồng, luỹ kế được 5.086,52 tỷ đồng, đạt 111,99% dự toán Trung ương, đạt 105,97% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm: Thu nội địa được 330 tỷ đồng, luỹ kế được 4.502 tỷ đồng, đạt 111,38% dự toán Trung ương và đạt 104,70% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu được 58,45 tỷ đồng, luỹ kế được 584,52 tỷ đồng, đạt 116,90% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp được 314,26 tỷ đồng, luỹ kế được 3.534,33 tỷ đồng, đạt 84,11% dự toán Trung ương, đạt 81,31% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 10/2022 được 722,90 tỷ đồng, luỹ kế được 7.322,83 tỷ đồng, đạt 94,85% dự toán Trung ương giao, đạt 70,40% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản được 380,12 tỷ đồng, luỹ kế được 3.801,18 tỷ đồng, đạt 117,59% dự toán Trung ương giao, đạt 78,77% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên được 342,78 tỷ đồng, luỹ kế được 3.427,77 tỷ đồng, đạt 78,55% dự toán Trung ương giao, đạt 65,20% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 30/9/2022, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 18.782 tỷ đồng, tăng trưởng 10,27% so với cuối năm 2021. Vốn huy động đáp ứng được 56,04% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 9.528 tỷ đồng (chiếm 50,73%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 9.254 tỷ đồng (chiếm 49,27%). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,2-0,5%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng ở mức 3,0-5,3%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng ở mức 3,7-7,25%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên từ 4,9-7,8%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 10/2022, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 18.813 tỷ đồng, tăng trưởng 10,45% so với cuối năm 2021.
Đến ngày 30/9/2022, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 33.518 tỷ đồng, tăng trưởng 13,39% so với cuối năm 2021. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 17.237 tỷ đồng (chiếm 51,43%); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 16.281 tỷ đồng (chiếm 48,57%). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,5%/năm; cho vay trung, dài hạn phổ biến ở mức 8,8 -12,4%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 9,0 - 9,5%/năm; trung, dài hạn từ 10,5 - 13%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 10/2022, dư nợ đạt 33.567 tỷ đồng, tăng trưởng 13,56% so với cuối năm 2021.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 9/2022 là 781 tỷ đồng, chiếm 2,33%/tổng dư nợ; nợ xấu là 434 tỷ đồng, chiếm 1,30%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 347 tỷ đồng, chiếm 44,43%/tổng nợ quá hạn. Ước thực hiện đến cuối tháng 10/2022, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra (thấp hơn 3%/tổng dư nợ).
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Hoạt động kinh doanh bán lẻ, các loại hình dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ tiêu dùng khác trong tháng 10 tiếp tục có bước phục hồi. Hầu hết nhu cầu sử dụng các loại hình kinh doanh dịch vụ phục vụ nhu cầu đời sống vui chơi, giải trí của người dân đã tăng lên rõ rệt so với tình trạng giãn cách xã hội phòng chống dịch cùng thời điểm này năm trước. Vì vậy, ước tính tháng 10/2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ lưu trú, ăn uống và doanh thu các loại hình dịch vụ khác thực hiện được 4.036,63 tỷ đồng, so với tháng trước có mức tăng nhẹ 0,40% và so với cùng kỳ năm trước có mức tăng khá cao, tăng 11,65%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 2.940,21 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 1,30% và so với cùng kỳ tăng 2,51%. Thị trường kinh doanh bán lẻ dự báo có thể sẽ kém sôi động hơn so với tháng trước. Do giá trị doanh thu các nhóm hàng như: xăng dầu, vật liệu xây dựng và vật phẩm văn hóa giáo dục được dự báo có thể sẽ giảm so với tháng trước lần lượt ở mức 7,15%, 2,56% và 6,54%. Trong đó, nhóm hàng xăng dầu là nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất chiếm tới 23,53% tổng giá trị và có giá trị giảm nhiều nhất. Nguyên nhân, mặc dù giá xăng qua các lần điều chỉnh đã hạ nhiệt về mức tương đương 22.000 đồng/lít (xăng Ron 95) nhưng hiện tượng khan hiếm nguồn cung kèm sản lượng nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp đầu mối sụt giảm (giảm 40%) đã khiến nguồn cung xăng dầu cho các cây xăng bị thiếu hụt buộc một số cây xăng phải xin tạm ngừng kinh doanh hoặc một số chỉ hoạt động cầm chừng, làm doanh thu bán lẻ chung của các đơn vị xăng dầu giảm, góp phần làm giảm tổng doanh thu bán lẻ.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 599,16 tỷ đồng[6], so với tháng trước bằng 101,54% và so với cùng kỳ năm trước bằng 110,97%. Các sự kiện hội chợ kết hợp tổ chức các chương trình âm nhạc giải trí, vui chơi ăn uống được tổ chức nhộn nhịp trong tháng 10 ở thành phố Vị Thanh và thị xã Long Mỹ là động lực chính góp phần thúc đẩy tăng giá trị doanh thu ăn uống, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các cơ sở ăn uống diễn ra sôi động hơn so với tháng trước.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 497,26 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 10,11% và so với cùng kỳ năm trước tăng đột biến rất cao, tăng 139,62%. Nguyên nhân, do trong tháng 10 hoạt động xổ số trong dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí (ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao và đóng góp nhiều nhất vào giá trị tăng chung) diễn ra nhiều kỳ hơn so với tháng trước. Trong tháng 10 diễn ra 5 kỳ tăng 1 kỳ so với tháng 9.
Ước tính 10 tháng năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng và hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tiếp tục giữ được đà tăng trưởng ổn định ở mức cao, với doanh thu ước thực hiện được 42.466,11 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 23,63% và so với kế hoạch năm đạt 98,76%. Ước 10 tháng nhưng giá trị doanh thu các ngành thương mại và dịch vụ đã tiến sát gần đạt kế hoạch năm đề ra. Nguyên nhân, gói tài chính kích cầu phục hồi kinh tế sau đại dịch của chính phủ mang lại hiệu quả đã hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn ổn định sản xuất kinh doanh; tình hình lạm phát được kiểm soát tốt trong phạm vi cho phép đã thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hiện tổng giá trị doanh thu bình quân/tháng của năm 2022 đã vượt qua giá trị doanh thu bình quân/tháng của năm 2019 và năm 2020 (thời điểm chưa bùng phát mạnh dịch bệnh) đạt giá trị 4.246,6 tỷ đồng/tháng, tăng 29,11% so với năm 2019 (3.289,2 tỷ đồng/tháng) và tăng 25,66% so với năm 2020 (3.379,5 tỷ đồng/tháng). Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 32.141,07 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tiếp tục giữ đà tăng trưởng cao, tăng 19,16%. Trong đó nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 20,13%, chiếm 36,97% tổng giá trị; xăng dầu các loại tăng 94,79% chiếm 25,61%; đá quý, kim loại quý tăng 9,17%, chiếm 1,56%; hàng may mặc tăng 7,44%, chiếm 4,42%; nhóm các sản phẩm hàng hóa khác tính chung tăng 17,95%, chiếm 6,94%. Các nhóm ngành hàng khác còn lại như: Đồ dùng trang thiết bị gia đình,vật phẩm giáo dục, vật liệu xây dựng …. mặc dù có giá trị giảm nhưng giá trị không lớn và chiếm tỷ trọng không cao trong tổng doanh thu bán lẻ nên dù có giảm nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện được 5.919,78 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 21,09%. Qua 10 tháng, hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống đã hồi phục và có mức tăng trở lại so với cùng kỳ 2021. Trong đó, hoạt động kinh doanh ăn uống có đà phục hồi nhanh hơn so với hoạt động dịch vụ lưu trú. Cụ thể:
+ Dịch vụ lưu trú được 79,62 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 89,41%.
+ Dịch vụ ăn uống được 5.840,16 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 121,68%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) được 4.405,26 tỷ đồng, so với cùng kỳ tăng 77,06%. Nhìn chung qua 10 tháng, hoạt động kinh doanh các dịch vụ tiêu dùng đã phục hồi hoàn toàn sau đại dịch. Tất cả các ngành dịch vụ như: kinh doanh bất động sản, giáo dục, y tế, vui chơi giải trí,… đều có mức tăng cao so với cùng kỳ. Trong đó, dịch vụ vui chơi giải trí, hành chính hỗ trợ và y tế là những loại hình dịch vụ đóng góp nhiều nhất vào mức tăng chung, có mức tăng lần lượt là 96,72%, 34,58% và 65,75%.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 10/2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 92,57 triệu USD so với tháng trước bằng 93,70% và so với cùng kỳ năm trước bằng 118,60%. Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 64,99 triệu USD, so với tháng trước bằng 99,15% và so với cùng kỳ năm trước bằng 118,10%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 27,58 triệu USD, so với tháng trước bằng 82,96% và so với cùng kỳ năm trước bằng 119,79%.
Ước thực hiện 10 tháng năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 927,79 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 118,38% và so với kế hoạch năm đạt 87,69%. Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 586,04 triệu USD, so với cùng kỳ bằng 126,95% và so với kế hoạch năm đạt 81,73%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 305,89 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 107,36% và so với kế hoạch năm đạt 105,48%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,88 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 167,56% và so với kế hoạch năm đạt 87,80%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 34,98 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 95,10% và so với kế hoạch năm đạt 69,97%.
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Các hoạt động kinh doanh vận tải, kho bãi trong tháng 10 tiếp tục giữ đà tăng trưởng ổn định. Các cơ sở kinh doanh vận tải hàng hóa mở rộng quy mô vận chuyển cùng tình hình thời tiết tương đối ổn định, các tuyến giao thông thông suốt đi lại thuận tiện đã góp phần thúc đẩy hoạt động vận chuyển hành khách hàng hóa cùng các dịch vụ vận tải, kho bãi phát triển. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kho bãi, dịch vụ logictis đã ổn định kinh doanh có giá trị doanh thu tăng dần qua các tháng.
Ước tính tháng 10/2022, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 130,31 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,21% và so với cùng kỳ năm trước tăng 43,58%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 81,67 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 103,04% và so với cùng kỳ năm trước bằng 180,90%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 29,10 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,14% và so với cùng kỳ năm trước bằng 153,63%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 19,54 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 101,92% và so với cùng kỳ năm trước bằng 73,27%.
Nhìn chung, giá trị doanh thu các ngành vận tải, kho bãi đều tăng ổn định qua từng tháng, tháng sau luôn cao hơn tháng trước tính từ đầu năm đến nay. Hiện ngành vận tải được nhận định đã thật sự phục hồi hoàn toàn sau đại dịch với tốc độ tăng trưởng 10 tháng tăng cao so với cùng kỳ, tăng 25,98% và giá trị doanh thu bình quân/tháng đã đạt giá trị 115,74 tỷ đồng, tăng hơn 21 tỷ đồng/tháng tương đương tăng 22,34% so với tháng bình quân cùng kỳ năm 2021. Tính chung 10 tháng năm 2022, ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 1.157,38 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 125,98%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 698,46 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 170,81%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 271,04 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 108,83%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 187,88 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 72,05%.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Hạ tầng giao thông đang được các cấp các ngành chú trọng đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp mở rộng các tuyến đường huyết mạch quan trọng đối với hoạt động lưu thông, vận chuyển hàng hóa nhằm tạo liên thông liên kết vùng với các tỉnh thành xung quanh, tạo ra chuỗi giá trị cung ứng bền vững trong phát triển kinh tế, tạo thuận lợi cho hoạt động lưu thông hàng hóa, đồng thời góp phần tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh vận tải hoạt động hiệu quả tăng giá trị doanh thu, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế địa phương.
Ước thực hiện tháng 10/2022, toàn tỉnh vận chuyển được 594,88 nghìn tấn hàng hóa các loại (55.344,30 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 103,49% (106,09%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 181,72% (178,93%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 163,98 nghìn tấn (17.225,21 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 108,70% (108,02%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 222,86% (257,93%).
- Đường sông thực hiện được 430,90 nghìn tấn (38.119,09 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,64% (105,24%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 169,80% (157,17%).
Ước thực hiện 10 tháng năm 2022, toàn tỉnh vận chuyển được 5.349,87 nghìn tấn hàng hóa các loại (500.070,01 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ bằng 127,46% (141,79%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 1.593,21 nghìn tấn (148.905,38 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ bằng 188,07% (177,29%).
- Đường sông thực hiện được 3.756,66 nghìn tấn (351.164,63 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ bằng 112,13% (130,69%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 10/2022, toàn tỉnh thực hiện được 3.036,88 nghìn lượt hành khách (53.420,67 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 103,18% (102,21%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 142,13% (138,14%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 834,91 nghìn lượt hành khách (45.929,66 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,47% (101,78%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 123,29% (142,57%).
- Đường sông vận chuyển được 2.201,97 nghìn lượt hành khách (7.491,01 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 103,84% (104,95%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 150,87% (116,04%).
Ước thực hiện 10 tháng năm 2022, toàn tỉnh thực hiện được 27.374,82 nghìn lượt hành khách (512.731,23 nghìn HK.km), so với cùng kỳ bằng 113,58% (132,42%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 8.616,84 nghìn lượt hành khách (438.036,04 nghìn HK.km), so với cùng kỳ bằng 148,64% (146,77%).
- Đường sông vận chuyển được 18.757,98 nghìn lượt hành khách (74.695,19 nghìn HK.km), so với cùng kỳ bằng 102,48% (84,17%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Trong tháng, ngành Giáo dục và Đào tạo tập trung chủ yếu vào hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
- Giáo dục tiểu học - mầm non: Tổ chức Hội thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi tiểu học cấp tỉnh; kiểm tra việc thực hiện giảng dạy các lớp theo Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018; kiểm tra hoạt động thư viện thân thiện của 20 trường tham gia Dự án; phối hợp với Đài Truyền hình hoàn thiện các tiết dạy môn Toán và Tiếng Việt ở khối với 1 và 2 đưa vào kho học liệu của tỉnh.
- Giáo dục trung học – Giáo dục thường xuyên: Tổ chức Kỳ thi Nghề phổ thông khóa tháng 10/2022; tổ chức Tuần lễ học tập suốt đời năm 2022; phối hợp tổ chức Kỳ thi chọn Đội tuyển học sinh giỏi quốc gia năm học 2022-2023; tổ chức Hội thi Giáo viên dạy giỏi THCS, THPT, GDTX cấp tỉnh năm học 2022-2023.
7.2. Văn hóa, thể thao
Hoạt động tuyên truyền cổ động, biểu diễn chuyên nghiệp: Toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, các công tác trọng tâm của địa phương theo chỉ đạo như: Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Võ Văn Ngân (1902 -2022); 92 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930-20/10/2022), … Kết quả: In, treo 2.250 m2 pa nô, treo 2.000 cờ các loại, 110 băng rôn. Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, tổ chức phục vụ nhân dân với 123 buổi biểu diễn, phục vụ 62.700 lượt người xem, tổ chức 133 buổi phóng thanh.
Hoạt động thư viện: Tổ chức phục vụ sách xe Thư viện lưu động tại các điểm trường thuộc địa bàn huyện Châu Thành: THCS Nam Kỳ, THCS Đông Phú, THCS Đông Phước A, Tiểu học Ngô Hữu Hạnh, thu hút khoảng 2.800 lượt học sinh tham gia; trưng bày 130 quyển sách tại Thư viện tỉnh: Sách mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; sách chuyên đề về cải cách hành chính và Tủ sách Bác Hồ; đảm bảo giờ mở cửa phục vụ bạn đọc hàng ngày trong giờ hành chính, đảm bảo nguyên tắc 2K+ để phòng, chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, đơn vị kết hợp phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện, trong tháng 9/2022 phục vụ 13.355 lượt người truy cập (nâng tổng số lên 141.011 lượt) tra cứu và đọc sách với 26.710 lượt sách (nâng tổng số lên 282.022 lượt).
Hoạt động bảo tồn - bảo tàng và phát huy giá trị di sản văn hóa: Triển lãm 04 cuộc phục vụ các sự kiện: Hội thảo sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh; Hội thi thông tin lưu động về “An toàn giao thông”;… với chuyên đề “Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng an ninh tỉnh Hậu Giang năm 2021”; trưng bày hiện vật tại di tích Trận chiến pháo binh tại Vịnh Chèo năm 1974; tiếp nhận quản lý, giữ gìn phát huy giá trị Khu Nhà tưởng niệm anh hùng liệt sỹ pháo binh 6 - Quân khu 9. Tiếp 18 đoàn khách tham quan tại các di tích Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Đền thờ Bác Hồ; Chiến thắng Tầm Vu; Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ Tiểu đoàn Tây Đô ...
Sự nghiệp thể dục thể thao: Tổ chức Lễ tổng kết Đại hội Thể dục thể thao 3 cấp tỉnh Hậu Giang lần thứ IX năm 2022; hỗ trợ Ban dân vận tỉnh tổ chức Hội thao truyền thống dân vận 15/10 – tranh giải Xổ số Kiến thiết Hậu Giang lần thứ VI năm 2022; cử 01 Huấn luyện viên tham dự lớp tập huấn chuyên môn Vovinam quốc gia năm 2022 tại Đà Nẵng; tuyển chọn vận động viên tham dự Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch đồng bào Khmer Nam Bộ lần thứ VIII tại tỉnh Sóc Trăng năm 2022, gồm 04 môn: Kéo co, Đẩy gậy, Đua ghe ngo và Việt dã.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 1.467 (14.913)/15.000 lao động, đạt 99,42% kế hoạch năm. Thực hiện thỏa thuận và giao kết hợp đồng hỗ trợ tuyển dụng lao động đối với 05 (31) lượt doanh nghiệp. Tích cực tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tư vấn đã hỗ trợ giới thiệu, cung ứng được 50 (6.169) lao động. Hỗ trợ đưa 28 (293)/346 lao động, đạt 84,68% kế hoạch năm; tổ chức hỗ trợ chi phí ban đầu không hoàn lại cho 148 (282) người lao động đi làm việc nước ngoài với số tiền 1.130 (2.197,5) triệu đồng.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 123 (1.679) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 146 (1.668) hồ sơ. Trong đó, đạt 140 (1.554) hồ sơ, không đạt 06 (114) hồ sơ. Còn 11 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Phối hợp với các đơn vị có liên quan tiếp Đoàn công tác của Bệnh viện Chợ Rẫy và Công ty Khang Điền đến khám bệnh, cấp thuốc miễn phí và tặng 150 phần quà (mỗi phần 500.000 đồng) cho gia đình chính sách khó khăn trên địa bàn tỉnh Hậu Giang. Khảo sát hiện trạng nhà ở đối với người có công với cách mạng tại các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh.
Lĩnh vực Bảo trợ xã hội và Giảm nghèo: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 36.196 (353.372lượt) đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 19.020,42 (203.086,465) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 228 (2.156) trường hợp với số tiền 1.641,6 (15.523,2) triệu đồng; hỗ trợ khẩn cấp cho 03 (246) trường hợp với số tiền 58 (4.980) triệu đồng.
Lĩnh vực Phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 93 (532) cuộc, với 2.350 (16.806) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 29 (429) cuộc, với 154 (3.070) phút tuyên truyền. Ban Chỉ đạo 138 các cấp đã tổ chức kiểm tra được 24 (110) cuộc, với 60 (210) lượt cơ sở, qua kiểm tra cho cam kết, nhắc nhở 12 (65) cơ sở. Tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 1.675 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 95 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 186 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 13 ca so với tháng trước, cộng dồn là 741 ca, tăng 686 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 93 ca mắc mới, tăng 33 ca so với tháng trước, cộng dồn là 539 ca, tăng 153 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, bệnh viêm gan do virút, quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc trên địa bàn tỉnh.
Tình hình dịch Covid-19: Số nhiễm trong tháng (tính đến ngày 12/10/2022) là 93 người (giảm 127 người so với tháng trước), số tử vong trong tháng là 00 người. Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7/2021) đến 18 giờ ngày 12/9/2022 tỉnh Hậu Giang có 52.993 người mắc, điều trị khỏi 52.668 người, chuyển viện 02, số người tử vong là 311 người, hiện đang điều trị là 12 người (điều trị tại nhà 07 người). Hiện tại các Bệnh viện/Trung tâm Y tế đang triển khai khoa điều trị người nhiễm Covid-19.
Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 00 trẻ, cộng dồn là 7.820 trẻ, đạt 72,2%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 994 trẻ, cộng dồn là 9.688 trẻ, đạt 85,1%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 00 thai phụ, cộng dồn là 8.088 thai phụ, đạt 74,6%.
Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 14 ca, cộng dồn là 47 ca (giảm 15 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.917 ca; số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (giảm 08 caso với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca. Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 00 ca (giảm10 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 57 người, tổng số bệnh nhân điều trị ARV là 956 người.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 10/2022: Tổng số lần khám là 144.870 lượt, cộng dồn là 1.112.642 lượt, đạt 92,22% kế hoạch, giảm 15,15% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 9.681 lượt, cộng dồn là 73.219 lượt, đạt 54,44% kế hoạch, giảm 7,21% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 4,89 ngày, tăng 0,05 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 4.329 trường hợp, giảm 351 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 10/2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 03 người, bị thương 03 người. So với tháng trước số vụ tương đương, số người chết giảm 01 người và số người bị thương tăng 03 người. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ giảm 01 vụ, số người chết tăng 01 người và số người bị thương giảm 03 người. Nguyên nhân do không chú ý quan sát 02 vụ; đi không đúng phần đường 01 vụ và lỗi hỗn hợp 01 vụ.
Tính chung 10 tháng năm 2022 (từ ngày 15/12/2021 đến ngày 14/10/2022), toàn tỉnh xảy ra 52 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 50 người, bị thương 10 người. So cùng kỳ 2021, số vụ tăng 09 vụ, số người chết tăng 14 người và số người bị thương giảm 05 người.
7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 4.016 triệu đồng, giảm 1.437,50 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2021. Cụ thể:
- Sạt lở: Trong tháng không xảy ra sạt lở. Lũy kế từ đầu năm đến nay xảy ra 17 trường hợp sạt lở, không có trường hợp nhà bị cuốn trôi, diện tích mất đất 2.834 m2, ước tổng thiệt hại 2.062 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2021, giảm 13 vụ (diện tích mất đất giảm 1.623 m2 và ước giá trị thiệt hại giảm 392 triệu đồng).
- Mưa lớn, dông lốc: Trong tháng, có 1 vụ dông lốc làm tốc mái 01 căn nhà, ước thiệt hại 20 triệu đồng. Cùng kỳ năm 2021, xảy ra 01 vụ dông lốc làm tốc mái 02 căn nhà, ước thiệt hại 10 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay sập 15 căn nhà, tốc mái 64 căn nhà và 02 phòng của Ban giám hiệu, ngã 01 trụ viễn thông, tốc mái 01 trụ sở UBND xã, ước thiệt hại 1.954 triệu đồng. Cùng kỳ năm 2021, xảy ra 04 vụ làm sập 14 căn nhà, tốc mái 65 căn nhà và 01 nhà kho, ước giá trị thiệt hại 3.024,50 triệu đồng.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh và đã phát hiện 03 vụ vi phạm và xử lý phạt cảnh cáo 01 vụ vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. So với cùng kỳ, số vụ vi phạm bằng nhau, xử lý tăng 01 vụ, không có số tiền xử phạt (tháng 10/2021, phát hiện vi phạm môi trường 03 vụ, xử lý 00 vụ, không có số tiền xử phạt). Tích lũy từ đầu năm, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 50 vụ, xử lý 46 vụ, với số tiền xử phạt là 591 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về an toàn thực phẩm, xả nước thải, khí thải vượt chuẩn cho phép và vi phạm quy định về vệ sinh thú y; vi phạm về thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và vi phạm về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. So với cùng kỳ năm 2021, số vụ vi phạm tăng 06 vụ, xử lý tăng 05 vụ, số tiền xử phạt giảm 127 triệu đồng (năm 2021, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 44 vụ, xử lý 41 vụ, xử phạt 718 triệu đồng).
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Từ đầu năm đến nay đã xảy ra 04 vụ cháy, không thiệt hại về người, ước tổng tài sản thiệt hại khoảng 1.400 triệu đồng./.
[1] Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 76,49 ha, tăng 4,97% (bằng 3,62 ha) so cùng kỳ.
[2] Trong đó, diện tích nuôi tôm sú được 96,5 ha, tăng 11,32% so với cùng kỳ, tập trung ở huyện Long Mỹ (Nuôi trong ruộng lúa).
[3] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, nuôi cá tra công nghiệp được hộ nuôi đầu tư mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân.
[4] Nguyên nhân là do từ đầu năm đến nay một số doanh nghiệp đầu tư hoàn thành và đi vào hoạt động ổn định như: Công ty TNHH MTV Vật liệu xây dựng Xanh Hamaco, sản xuất xi măng các loại; Nhà máy nhiệt điện dầu khí Sông Hậu I, sản xuất nhiệt điện than; Công ty TNHH MTV Nhựa Sinh Học Hậu Giang,… các doanh nghiệp trên đã đóng góp trên 4.956 tỷ đồng vào giá trị sản xuất chung của ngành công nghiệp. Vì vậy, giá trị sản xuất ước 10 tháng tăng rất cao so với cùng kỳ năm trước.
[5] Nguyên nhân là do các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh; Tỉnh ủy và UBND tỉnh đã chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn, vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh. Ngày 06/10/2022 UBND tỉnh cũng đã ban hành Công văn yêu cầu tập trung triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công trong những tháng còn lại của năm 2022.
[6] Chia ra: Dịch vụ lưu trú được 8,75 tỷ đồng, so tháng trước tăng 1,44% và so cùng kỳ bằng 82,35%; dịch vụ ăn uống được 590,40 tỷ đồng, so tháng trước bằng 101,54% và so cùng kỳ bằng 111,54%.
File đính kèm: Bao_cao_KTXH_Thang10.2022.docSo_lieu_KTXH_thang10.2022.xlsx
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang