1. Tình hình chung:
Tháng 5 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 38.406 tỷ đồng tăng 16,9% so với cùng kỳ và tăng 3,1% so với tháng 4/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,2%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 25%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,6% so cùng kỳ.
Cộng dồn 5 tháng đầu năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 176.991 tỷ đồng tăng 15,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4% (chiếm 33%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,4% (chiếm 30%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,1% (chiếm 37%) (trong đó Tcty dầu khí giảm 9,4%, các ngành khác tăng 21,2%).
Năm tháng đầu năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 27,4%; các sản phẩm chế biến là thuỷ sản chế biến tăng 18,4%, bột ngọt 15%; các sản phẩm hoá chất là phân hoá học tăng 40,4%, xút NaOH 36,1%, thuốc viên các loại 18,5%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là xi măng tăng 17,8%, thép cán 20,19%, sứ vệ sinh 22,7%, gạch lát 20,72%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như máy công cụ tăng 24,8%, động cơ điện 27,7%, xe máy 17,2%, ôtô các loại tăng 23,2% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành gồm: điện sản xuất tăng 13,4%, gạch xây 5,9%, khí đốt thiên nhiên 6,9%, ga hoá lỏng 0,4%, sữa hộp 8%, bia 6,7%, thuốc lá bao 13,9%, xà phòng các loại 7,69%, ắc quy 5,8%, thuốc trừ sâu 9,2%, giấy bìa các loại 14,8%, quần áo may sẵn 10,2%, quần áo dệt kim 5,5%, quạt điện dân dụng 14,6%, tivi các loại tăng 1,1% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 87,5%, đường mật các loại 75,1%, thuốc ống đạt 93,1%, vải lụa thành phẩm 97,8%, động cơ diezen 82,1%, máy biến thế 95,4%, xe đạp hoàn chỉnh đạt 88,7% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ năm tháng đầu năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hà Nội tăng 18,7% (chiếm tỷ trọng 7,6%), Vĩnh Phúc tăng 46%, Hà Tây tăng 20,1%, Hải Dương tăng 22,4%, Quảng Ninh tăng 19,2%, Bình Dương tăng 34,8% (chiếm 8,4%), Đồng Nai tăng 20,2% (chiếm 8,3%), Cần Thơ tăng 30,9%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn vẫn tiếp tục đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 12,5% (chiếm tỷ trọng 25%), Hải phòng tăng 15,6%, Phú Thọ tăng 12,6%, Thanh Hoá tăng 7,4%, Đà Nẵng tăng 14%, Khánh Hoà tăng 15,4%.
Một số nhận xét chung:
Tình hình 5 tháng đầu năm đã có tăng trưởng khá hơn so với quý I do một số sản phẩm chính đã có tăng trưởng khả quan như phân bón, thép xây dựng, xi măng trong khi các sản phẩm khác như than sạch, điện tử, lắp ráp ôtô, xe máy, vật liệu xây dựng, chế biến thuỷ sản tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao. Về tình hình các địa phương đã có thêm nhiều tỉnh thành phố đạt tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành như Vĩnh phúc, Hà Tây, Hải dương, Quảng Ninh, trong khi một số tỉnh, thành phố như Hà nội, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ vẫn duy trì mức tăng trưởng cao.
Tuy nhiên tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2005 vẫn thấp hơn so với kế hoạch đề ra cho cả năm (16%) do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ (10,4%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng thấp do khai thác dầu thô giảm 12,5% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí và sản xuất gas hoá lỏng cũng tăng thấp so cùng kỳ.
- Về các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 14/36 sản phẩm thống kê chính như điện, khí đốt thiên nhiên, bia, lắp ráp tivi,...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 7/36 sản phẩm như dầu thô, vải lụa thành phẩm...). Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may, da giầy, xe đạp và phụ tùng, thuỷ sản chế biến có mức tăng chậm hoặc giảm so cùng kỳ. Đặc biệt là hàng dệt may tăng thấp do vướng quota nhập khẩu vào thị trường Mỹ và khả năng cạnh tranh kém so với hàng Trung Quốc tại thị trường EU. Theo kiến nghị của các doanh nghiệp thì Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân bổ quota hàng dệt may để giúp các doanh nghiệp tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu.
- Theo vùng lãnh thổ: trong khi một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 8/14 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội, thì một số tỉnh và thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải phòng,... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước có mức tăng trưởng thấp (12,5%) đã ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng chung của cả nước.
- Trong các tháng đầu năm 2005 tình hình giá cả nguyên vật liệu vẫn ổn định như ở các tháng cuối năm 2004, giá dầu thô tăng cao trên 50 USD/thùng làm giá xăng dầu tăng lên tương ứng nên Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% để giảm ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới lên chi phí nhiên liệu trong nước, giá phôi thép duy trì ở mức trên dưới 400 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước có tăng chút ít ở mức 7,5-8 triệu đ/tấn.
Theo kiến nghị của Bộ Công nghiệp và Hiệp hội thép Việt Nam nên giảm thuế nhập khẩu phôi thép từ 5% xuống 0% nhằm giảm giá thép thành phẩm ở trong nước, tuy nhiên vì mục tiêu dài hạn và một phần bảo hộ các doanh nghiệp sản xuất phôi thép trong nước cũng như để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất phôi thép, Bộ ta đã có công văn đề nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục duy trì mức thuế suất này.
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Năm tháng đầu năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt 20,5 tỷ kwh tăng 13,4% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 15,6 tỷ Kwh tăng 0,2%, điện mua ngoài chiếm 24% sản lượng toàn ngành và đạt gần 4,9 tỷ Kwh tăng 96,7% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia, ngoài ra một phần điện được mua từ Vân Nam (Trung Quốc) để cung cấp cho tỉnh Lào Cai.
Hiện nay do lượng nước ở các hồ thuỷ điện thấp, đặc biệt là hồ Hoà bình mức nước đã thấp hơn mực nước “chết” nên nhà máy thuỷ điện không phát huy được công suất, xảy ra tình trạng thiếu điện ở một số khu vực ở phía Bắc. Tổng công ty điện lực Việt Nam đã hoàn thành đấu nối mạch 2 đường dây 500 KV Đà Nẵng - Hà Tĩnh để tải điện từ miền Nam ra miền Bắc đồng thời tích cực mua điện của các doanh nghiệp ngoài EVN, Vân Nam (Trung Quốc) để bổ sung lượng điện bị thiếu. Trong thời gian tới nếu chưa có lũ tiểu mạn và mưa thượng nguồn ở Tây Bắc thì khả năng thiếu điện ở miền Bắc sẽ tiếp tục xảy ra, Tcty điện lực VN đã yêu cầu các hộ tiêu dùng điện áp dụng các biện pháp tiết kiệm điện.
- Dầu thô khai thác đạt gần 7,4 triệu tấn giảm 12,5% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt gần 2,7 tỷ m3 tăng 6,9% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 149 nghìn tấn tăng 0,4%. Nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ hiện có không thể tăng được sản lượng, trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng thấp.
- Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt trên 13 triệu tấn tăng 27,4o cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 12,6 triệu tấn tăng 26,8 với cùng kỳ do có thị trường xuất khẩu tốt.
- Vào thời điểm giữa năm các công trình xây dựng bắt đầu đẩy nhanh tiến độ nên các sản phẩm vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao như:
+ Thép cán đạt 1,4 triệu tấn tăng 20,1 cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 468 ngàn tấn tăng 12,3%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 543 nghìn tấn tăng 37,1%, khu vực ĐTNN đạt 390 nghìn tấn tăng 10,1% so cùng kỳ.
+ Xi măng đạt 11,6 triệu tấn tăng 17,8% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất đạt 7,6 triệu tấn tăng 16,1%, khu vực ĐTNN đạt gần 3,4 triệu tấn tăng 22%.
- Giấy các loại đạt 342,6 nghìn tấn tăng 14,8%, trong đó 2 khu vực chiếm tỷ trọng cao là quốc doanh đạt 113,7 nghìn tấn tăng 21,7%, ngoài quốc doanh đạt 217,7 nghìn tấn tăng 11,4%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 176 triệu m giảm 2,2% so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 367 triệu cái tăng 10,2%, quần áo dệt kim đạt 52,3 triệu cái tăng 5,5%. Hàng dệt may tiếp tục gặp khó khăn trong xuất khẩu nên có tốc độ tăng trưởng chậm.
3. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 5 tháng đầu năm 2005 ước đạt gần 12 tỷ USD tăng 20,4% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu như: dầu thô đạt 7,3 triệu tấn giảm 9% (do khai thác giảm), than đá đạt 6,5 triệu tấn tăng 37%, hàng dệt may đạt 1,6 tỷ USD tăng 0,2%, giày dép đạt 1,1 tỷ USD tăng 4,4%, sản phẩm gỗ đạt 617 triệu USD tăng 52,6%, hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 546 triệu USD tăng 52,6%, túi xách, va ly đạt 201 triệu USD tăng 16,6%, dây và cáp điện đạt 191 triệu USD tăng 36,4%, sản phẩm nhựa đạt 133 triệu USD tăng 58,3%, xe đạp và phụ tùng đạt 85 triệu USD giảm 20%.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 5 tháng đầu năm 2005 ước đạt 14,5 tỷ USD tăng 21,2% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu như: linh kiện và phụ tùng ôtô đạt 266 triệu USD tăng 52,4%, linh kiện xe máy đạt 209 triệu USD tăng 34,8%, xăng dầu các loại đạt 4,8 triệu tấn tăng 2,1%, phân bón các loại đạt 993 nghìn tấn giảm 41% (chủ yếu do trong nước đã giảm phụ thuộc vào nhập khẩu phân urê do Nhà máy đạm Phú Mỹ đi vào sản xuất), thép các loại đạt 2,2 triệu tấn tăng 9,5%, trong đó phôi thép đạt 877 nghìn tấn giảm 4%, giấy các loại đạt 228 nghìn tấn tăng 43,7%, bông các loại đạt 69 nghìn tấn tăng 28,7%, sợi các loại đạt 94 nghìn tấn tăng 0,5%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 1,98 tỷ USD tăng 9,5%, hoá chất các loại đạt 355 triệu USD tăng 40%, chất dẻo nguyên liệu đạt 424 nghìn tấn giảm 5%, vải đạt 852 triệu USD tăng 6%, nguyên liệu dệt may da đạt 885 triệu USD giảm 2%, linh kiện máy tính và điện tử đạt 667 triệu USD tăng 48,2%.