1. Tình hình chung:
Tháng 7 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 59.072 tỷ đồng tăng 2,3% so với tháng 6/2009 và tăng 7,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 5,2%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,7% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí tăng 11,5%, các ngành khác tăng 8,4%).
Tính chung bảy tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 382.661 tỷ đồng tăng 5,1% so với cùng kỳ (thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 1,5%, chiếm trọng 23,8% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 7,4% chiếm tỷ trọng 35,6% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,3% (trong đó dầu khí tăng 13,5%, các ngành khác tăng 4,2%) chiếm tỷ trọng 40,6% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 3%, công nghiệp địa phương tăng 5,8%.
Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IIP (căn cứ vào tổng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và sử dụng quyền số là tỷ trọng giá trị tăng thêm trong công nghiệp để so sánh) thì toàn ngành công nghiệp 7 tháng tăng 4,5% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 9,9% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 30,7%; công nghiệp chế biến tăng 1,7% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 60,2%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 6,8% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 9,1%.
Bảy tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: dầu thô khai thác tăng 18,1%, khí đốt thiên nhiên tăng 2,7%, khí hóa lỏng (LPG) tăng 3,3%, bia tăng 4,9%, thuốc lá điếu tăng 13,5%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 3,7%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 17,1%, xà phòng giặt tăng 9,9%, xi măng tăng 23,6%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,9%, thép tròn các loại tăng 19,6%, điều hoà nhiệt độ tăng 56,7%, tủ lạnh, tủ đá tăng 20,8%, máy giặt tăng 0,8%, tivi tăng 4,3%, xe máy tăng 4,6%, điện sản xuất tăng 9,5%, nước máy thương phẩm tăng 8,2% so cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm giảm so với cùng kỳ có than sạch đạt 98,3%, thuỷ hải sản chế biến đạt 91,7%, dầu thực vật tinh luyện đạt 97,6%, sữa bột đạt 84%, đường kính đạt 78,6%, vải dệt từ sợi bông đạt 80,1%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 81,8%, giày thể thao đạt 97,6%, giấy, bìa các loại đạt 81,1%, phân hóa học đạt 97,7%, sơn hoá học đạt 93,8%, lốp ô tô, máy kéo đạt 91%, kính thuỷ tinh đạt 94,1%, gạch lát ceramic đạt 93,1%, bình đun nước nóng đạt 73,6%, ô tô đạt 84,9% trong đó xe tải đạt 98,5%, xe chở khách đạt 76,1 so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ bảy tháng đầu năm 2009 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: Tp. Hà Nội tăng 5,1%; Hải Phòng tăng 6,8%; Quảng Ninh tăng 11,5%; Thanh Hóa tăng 8,1%; Khánh Hoà tăng 7%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 4,6%; Bình Dương tăng 6,5%; Đồng Nai tăng 7,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 10,5%; Cần Thơ tăng 7,9%.
Một số tỉnh, thành phố giảm so cùng kỳ gồm: Vĩnh Phúc đạt 89,9%; Hải Dương đạt 96%; Phú Thọ đạt 94,5%; Đà Nẵng đạt 99,5% so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Bảy tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 5,1% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trướctác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp; trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng cao, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng khá để đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá, ti vi, xe máy) cũng đạt mức tăng trưởng thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
Phân tích chỉ số tồn kho các ngành công nghiệp chế biến cho thấy một số ngành có mức tồn kho cao so với cùng kỳ năm 2008 như: chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến tăng 24,6%, trong đó chế biến thủy sản tăng 14%, chế biến rau quả tăng 106%, sản xuất thức ăn gia súc tăng 172%, một số thực phẩm khác tăng 98%, sản xuất bia tăng 28%, sản xuất đồ uống không cồn tăng 42%, sản xuất thuốc lá, thuốc lào tăng 32%, sản xuất sợi và dệt vải tăng 36%, sản xuất trang phục tăng 51%, sản xuất giày dép tăng 24%, sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 50%,sản xuất bao bì tăng 32%, sản xuất phân bón tăng 113%, sản xuất xà phòng tăng 225%, sản xuất gạch ngói tăng 45%, sản xuất sắt thép tăng 45%, sản xuất cáp điện tăng 26%, sản xuất xe có động cơ tăng 21%. Như vậy về thực chất mức tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện nay chưa thật bền vững do chỉ số tồn kho khá cao ở một số ngành sản phẩm, thể hiện sức tiêu dùng trong nước và khả năng xuất khẩu còn nhiều hạn chế và nền kinh tế vẫn trong tình trạng trì trệ cần thiết phải có các biện pháp kích cầu mạnh hơn.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: hiện nay giá dầu thô tiếp tục dao động ở mức 60-70 USD/thùng cao so với các tháng đầu năm tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trong nước (xăng A92 tiếp tục điều chỉnh lên 14.200 đ/lít) ảnh hưởng đến việc tăng chi phí vận tải và giá thành các mặt hàng sản xuất trong nước, giá sắt thép và ximăng vẫn giữ ở mức ổn định.
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước bảy tháng đầu năm 2009 ước đạt 32,3 tỷ USD giảm 13,4% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 12,2 tỷ USD giảm 8,8% so cùng kỳ. Việc xuất khẩu giảm mạnh có minh chứng một phần về chỉ số tồn kho cao một số sản phẩm công nghiệp chế biến như dệt may, da giầy, hóa chất, thực phẩm.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 9 triệu tấn tăng 17,7%; than đá đạt 14,2 triệu tấn giảm 3%; hàng dệt may đạt5 tỷ USD giảm 1%; hàng giày dép đạt 2,45 tỷ USD giảm 9,7%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 1,37 tỷ USD giảm 3,8%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 449 triệu USD giảm 5%; dây và cáp điện đạt 390 triệu USD giảm 35%; sản phẩm nhựa đạt 455 triệu USD giảm 11%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 981 triệu USD giảm 3%; sắt thép và sản phẩm thép đạt 494 triệu USD giảm 74% (nguyên nhân do cùng kỳ năm ngoái chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm nhập khẩu về nhưng nhu cầu trong nước suy giảm như phôi thép, thép tấm lá), đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,6 tỷ USD tăng trên 4 lần.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước bảy tháng đầu năm 2009 ước đạt 35,7 tỷ USD giảm 32% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt 12,7 tỷ USD giảm 23% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt gần 7,7 triệu tấn giảm 8,3%; phân bón đạt 2,5 triệu tấn (trong đó phân ure 771 nghìn tấn) tăng 3,5%; thép các loại đạt 4,85 triệu tấn (trong đó phôi thép 1,35 triệu tấn) giảm 50% (nguyên nhân giảm nhiều do mức nhập khẩu năm trước quá cao, dẫn tới các doanh nghiệp nhập về phải xuất ngược lại các sản phẩm sắt thép); bông các loại đạt 140 nghìn tấn giảm 18,6%; sợi các loại đạt 282 nghìn tấn tăng 17,5%; ôtô nguyên chiếc đạt hơn 30,6 nghìn chiếc giảm 28%; linh kiện ôtô đạt 758 triệu USD giảm 40%; xe máy nguyên chiếc đạt 65 nghìn chiếc giảm 28%; linh kiện xe máy đạt 281 triệu USD giảm 22%; chất dẻo nguyên liệu đạt 1,2 triệu tấn tăng 13,7%; giấy các loại đạt 547 nghìn tấn giảm 13,5%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 6,2 tỷ USD giảm 19,5% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong bảy tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên, nhiên liệu sản xuất (xăng dầu, thép, bông, giấy các loại), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (ôtô, xe máy nguyên chiếc, phụ tùng). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước. Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất có dấu hiệu tăng như nhập khẩu sợi, chất dẻo nguyên liệu cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 7/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,44 triệu tấn tăng 1,3% so với tháng 6/2009 và tăng 18,5% so với cùng kỳ (nguyên nhân tăng trưởng cao do một số mỏ mới đi vào khai thác trong năm 2009 như mỏ 09.2, mỏ 46.2), lũy kế bảy tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 10,1 triệu tấn tăng 18,1% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất bảy tháng đầu năm ước đạt gần 25 triệu tấn giảm 1,7% so với cùng kỳ.
- Điện sản xuất bảy tháng đầu năm đạt 42,7 tỷ kwh tăng 9,5% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp so với các năm trước (thường ở mức 12-15%) chủ yếu do nhu cầu không tăng nhiều vì ảnh hưởng của việc cắt giảm sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện như: luyện thép, hóa chất, dệt may, cơ khí.
- Phân hóa học bảy tháng đầu năm sản xuất ước đạt 1,44 triệu tấn giảm 2,3% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại bảy tháng đầu năm sản xuất đạt 2,68 triệu tấn tăng 19,6% so cùng kỳ.
- Xi măng sản xuất trong nước tăng khá, bảy tháng đầu năm ước đạt 25,9 triệu tấn tăng 23,6% so cùng kỳ.
4. Về các kiến nghị, giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng năm 2009:
Trong thời gian tới Chính phủ nên thực hiện một số giải pháp sau:
- Về chính sách vĩ mô: tiếp tục ổn định tỷ giá và lãi suất hiện hành, cân đối đủ nhu cầu ngoại tệ để các doanh nghiệp tiếp tục các hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư bình thường.
- Về đầu tư: cần đẩy nhanh các biện pháp kích cầu, tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư công bằng nguồn vốn ngân sách, vốn vay ưu đãi, vốn ODA để tạo việc làm và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp trong nước; đẩy nhanh việc thực hiện các dự án FDI (thông qua việc giảm thủ tục hành chính, hỗ trợ đầu tư hạ tầng) để kích thích tăng trưởng kinh tế.
- Về kiểm soát thị trường: rà soát lại tình hình nhập khẩu hàng hóa, xây dựng hàng rào thuế nhập khẩu và các biện pháp phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích sử dụng hàng sản xuất trong nước. Tiếp tục giữ ổn định giá cả các mặt hàng có tác động lớn đến nền kinh tế như điện, than, xi măng, sắt thép.
- Về bảo hộ thuế quan: thực hiện việc bảo hộ các doanh nghiệp Việt Nam trong khuôn khổ cam kết hội nhập WTO.
- Về thị trường xuất khẩu: cần tiếp cận và thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường mới như Nga và Đông Âu, Châu Phi, Trung cận đông.
- Về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: tiếp tục hỗ trợ về vốn đầu tư, trợ cấp người lao động, thông qua các hiệp hội để xúc tiến mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm để các doanh nghiệp đứng vững được trong điều kiện khủng hoảng hiện nay.