Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/08/2009-12:09:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp 8 tháng đầu năm 2009
1. Tình hình chung:
Tháng 8 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 61.050 tỷ đồng tăng 4,5% so với tháng 7/2009 và tăng 10,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 5,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 12,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,3% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí tăng 10,2%, các ngành khác tăng 12,5%).
Tính chung tám tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 443.042 tỷ đồng tăng 5,6% so với cùng kỳ (thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 1,9%, chiếm trọng 23,8% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 7,9% chiếm tỷ trọng 35,5% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 6% (trong đó dầu khí tăng 12,8%, các ngành khác tăng 5,1%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 3,4%, công nghiệp địa phương tăng 6,3%.
Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IIP (căn cứ vào tổng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và sử dụng quyền số là tỷ trọng giá trị tăng thêm trong công nghiệp để so sánh) thì toàn ngành công nghiệp 8 tháng tăng 5,3% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 10,2% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 30,7%; công nghiệp chế biến tăng 2,7% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 60,2%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 7,6% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 9,1%.
Tám tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: dầu thô khai thác tăng 17,3%, khí đốt thiên nhiên tăng 1,9%, khí hóa lỏng (LPG) tăng 1,9%, bia tăng 4,4%, thuốc lá điếu tăng 13,1%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2,5%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 14,1%, xà phòng giặt tăng 16,5%, xi măng tăng 17,3%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,1%, thép tròn các loại tăng 18,1%, điều hoà nhiệt độ tăng 41,3%, tủ lạnh, tủ đá tăng 21,7%, xe máy tăng 2,5%, điện sản xuất tăng 10,5%, nước máy thương phẩm tăng 9,5% so cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có than sạch đạt 98,8%, thuỷ hải sản chế biến đạt 92,9%, dầu thực vật tinh luyện đạt 95%, sữa bột đạt 85%, đường kính đạt 78,1%, vải dệt từ sợi bông đạt 81,8%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 85,1%, giày thể thao đạt 97,7%, giấy, bìa các loại đạt 80,1%, phân hóa học đạt 97,2%, sơn hoá học đạt 97,3%, lốp ô tô, máy kéo đạt 98,2%, kính thuỷ tinh đạt 91,4%, gạch lát ceramic đạt 89,3%, bình đun nước nóng đạt 81%, máy giặt bằng mức cùng kỳ, tivi đạt 94,4%, ô tô đạt 89,1% trong đó xe tải đạt 94,7%, xe chở khách đạt 84,9% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ tám tháng đầu năm 2009 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: Tp. Hà Nội tăng 7,5%; Hải Phòng tăng 6,8%; Quảng Ninh tăng 11,3%; Thanh Hóa tăng 9%; Đà Nẵng tăng 1,7%; Khánh Hoà tăng 7,1%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 5,5%; Bình Dương tăng 7,1%; Đồng Nai tăng 7,8%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 10,4%; Cần Thơ tăng 8%.
Một số tỉnh, thành phố giảm so cùng kỳ gồm: Vĩnh Phúc đạt 91,5%; Hải Dương đạt 98,1%; Phú Thọ đạt 96,3% so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Tám tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 5,6% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp; trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng cao, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng khá để đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt mức tăng trưởng thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
Phân tích chỉ số tồn kho các ngành công nghiệp chế biến cho thấy một số ngành có mức tồn kho cao so với cùng kỳ năm 2008 như: chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến tăng 14,9% (tuy nhiên tỷ lệ này đã giảm đáng kể so với 7 tháng đầu năm), trong đó chế biến thủy sản tăng 11,3%, chế biến rau quả tăng 37,4%, sản xuất thức ăn gia súc tăng 170%, một số thực phẩm khác tăng 70%, sản xuất thuốc lá, thuốc lào tăng 16%, sản xuất sợi và dệt vải tăng 30%, sản xuất trang phục tăng 53%, sản xuất giày dép tăng 15%, sản xuất bột giấy, giấy và bìa tăng 48%, sản xuất phân bón tăng 90%, sản xuất xà phòng tăng 171%, sản xuất gạch ngói tăng 31%, sản xuất sắt thép tăng 23%, sản xuất xe máy tăng 14%, sản xuất giường tủ tăng 14%. Như vậy về thực chất mức tăng trưởng của ngành công nghiệp hiện nay chưa thật bền vững do chỉ số tồn kho khá cao ở một số ngành sản phẩm, thể hiện sức tiêu dùng trong nước và khả năng xuất khẩu còn nhiều hạn chế và nền kinh tế vẫn trong tình trạng trì trệ cần thiết phải có các biện pháp kích cầu mạnh hơn.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: hiện nay giá dầu thô tiếp tục dao động ở mức 60-70 USD/thùng cao so với các tháng đầu năm tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trong nước (trong tháng 8/2009 xăng A92 tiếp tục điều chỉnh lên 14.700 đ/lít) ảnh hưởng đến việc tăng chi phí vận tải và giá thành các mặt hàng sản xuất trong nước, giá sắt thép và ximăng vẫn giữ ở mức ổn định.
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước tám tháng đầu năm 2009 ước đạt 37,2 tỷ USD giảm 14,2% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 14,4 tỷ USD giảm 7,2% so cùng kỳ. Việc xuất khẩu giảm mạnh có minh chứng một phần về chỉ số tồn kho cao một số sản phẩm công nghiệp chế biến như dệt may, da giầy, hóa chất, thực phẩm.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 9,8 triệu tấn tăng 7,9%; than đá đạt 15,6 triệu tấn giảm 1%; hàng dệt may đạt5,9 tỷ USD giảm 1,4%; hàng giày dép đạt 2,8 tỷ USD giảm 11%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 1,65 tỷ USD giảm 0,2%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 504 triệu USD giảm 6,5%; dây và cáp điện đạt 473 triệu USD giảm 30%; sản phẩm nhựa đạt 542 triệu USD giảm 8,3%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 1,19 tỷ USD tăng 0,7%; sắt thép và sản phẩm thép đạt 563 triệu USD giảm 73% (nguyên nhân do cùng kỳ năm ngoái chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm nhập khẩu về nhưng nhu cầu trong nước suy giảm như phôi thép, thép tấm lá), đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,63 tỷ USD tăng gần 4 lần.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước tám tháng đầu năm 2009 ước đạt 42,4 tỷ USD giảm 28% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt 15,2 tỷ USD giảm 20% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 8,76 triệu tấn giảm 8,5%; phân bón đạt 2,7 triệu tấn (trong đó phân urê 848 nghìn tấn) tăng 7,3%; thép các loại đạt 6,1 triệu tấn (trong đó phôi thép 1,7 triệu tấn) giảm 11%; bông các loại đạt 189 nghìn tấn giảm 4,5%; sợi các loại đạt 317 nghìn tấn tăng 16%; ôtô nguyên chiếc đạt hơn 40 nghìn chiếc giảm 9%; linh kiện ôtô đạt 958 triệu USD giảm 32%; xe máy nguyên chiếc đạt 73,6 nghìn chiếc giảm 24,5%; linh kiện xe máy đạt 340 triệu USD giảm 18%; chất dẻo nguyên liệu đạt 1,46 triệu tấn tăng 22%; giấy các loại đạt 648 nghìn tấn giảm 8,3%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 7,4 tỷ USD giảm 17% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong tám tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên, nhiên liệu sản xuất (xăng dầu, thép, bông, giấy các loại), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (ôtô, xe máy nguyên chiếc, phụ tùng). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước. Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất có dấu hiệu tăng như nhập khẩu sợi, chất dẻo nguyên liệu cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 8/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,37 triệu tấn tăng giảm 0,1% so với tháng 7/2009 và tăng 15,7% so với cùng kỳ (nguyên nhân tăng trưởng cao do một số mỏ mới đi vào khai thác trong năm 2009 như mỏ 09.2, mỏ 46.2), lũy kế tám tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 11,4 triệu tấn tăng 17,3% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất tám tháng đầu năm ước đạt gần 27,7 triệu tấn giảm 1,2% so với cùng kỳ.
- Điện sản xuất tám tháng đầu năm đạt 52,2 tỷ kwh tăng 10,5% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp so với các năm trước (thường ở mức 12-15%) chủ yếu do nhu cầu không tăng nhiều vì ảnh hưởng của việc cắt giảm sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện như: luyện thép, hóa chất, dệt may, cơ khí.
- Phân hóa học tám tháng đầu năm sản xuất ước đạt 1,63 triệu tấn giảm 3% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại tám tháng đầu năm sản xuất đạt gần 3 triệu tấn tăng 18,3% so cùng kỳ.
- Xi măng sản xuất trong nước tăng khá, tám tháng đầu năm ước đạt 30 triệu tấn tăng 17,3% so cùng kỳ.
4. Về ước thực hiện cả năm 2009:
Trên cơ sở thực hiện sản xuất, kinh doanh 8 tháng đầu năm ngành công nghiệp, dự kiến kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi trong các tháng cuối năm và chính sách kích cầu của Chính phủ tiếp tục tạo đà tăng trưởng, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm những tháng cuối năm 2009, dự kiến giá trị sản xuất ngành công nghiệp cả năm có thể đạt 690.121 tỷ đồng tăng 6,6% so với năm 2008 (cao hơn 0,1% so với số dự kiến vào tháng 6/2009), trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 3%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 8,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,3%.
Tính theo ngành kinh tế cấp I: giá trị sản xuất công nghiệp khai thác dự kiến tăng 4%, công nghiệp chế biến tăng 6,7%, công nghiệp điện, ga, nước tăng 8,5%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu so với thực hiện năm 2008 như: than sạch đạt 40,2 triệu tấn tăng 1,1%, dầu thô đạt 16 triệu tấn tăng 7,4%, khí thiên nhiên dạng khí đạt 8,05 tỷ m3 tăng 1,3%, phân hóa học đạt 2,5 triệu tấn giảm 1%, xi măng đạt 47,8 triệu tấn tăng 19,4%, thép tròn các loại đạt 4,3 triệu tấn tăng 19%, điện sản xuất đạt 79,3 tỷ kwh tăng 10%.
Trên đây là tóm tắt tình hình sản xuất, lao động ngành công nghiệp tháng 8 và tám tháng đầu năm 2009 và ước thực hiện cả năm 2009 để quý Vụ tổng hợp.
5. Tình hình lao động ngành công nghiệp: (tham khảo)
Qua số liệu điều tra của 3246 doanh nghiệp công nghiệp tại 60 tỉnh, TP cho thấy, lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 8/2009 cú xu hướng tăng so với tháng 7. Có tới 53,8% số doanh nghiệp công nghiệp có biến động về lao động tháng 8 so với tháng 7, trong đó 29% số doanh nghiệp có số lao động tăng và 24,8% số doanh nghiệp có số lao động giảm. Trong 3 khu vực kinh tế, thỡ khu vực cú vốn đầu tư nước ngoài có số doanh nghiệp biến động lao động cao nhất với 46,3% số DN tăng lao động và 42,3% số DN giảm lao động, 2 khu vực cũn lại là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực ngoài nhà nước có mức độ biến động lao động thấp hơn, từ 20% đến dưới 30% số doanh nghiệp tăng và giảm lao động.
Tính chung số lao động toàn ngành công nghiệp tháng 8 tăng 0,4% so với tháng 7 (trong khi số lao động nữ tăng 0,6%). Trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ tăng cao nhất với 0,8%, tiếp đến là khu vực DN ngoài nhà nước với 0,2% và khu vực DN nhà nước chỉ tăng 0,1%.
Tỷ lệ tăng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng 8 so với tháng 7 là 2,7% (trong khi nữ là 2,9%), trong đó khu vực cóvốn đầu tư nước ngoài tăng cao nhất với 4%, tiếp đến là khu vực ngoài nhà nước với 2,5% và thấp nhất là khu vực DN nhà nước chỉ tăng 1%. Trong số các nguyên nhân tăng lao động, có tới 33% là do mở rộng sản xuất, chứng tỏ sản xuất công nghiệp đang có chiều hướng phục hồi và ổn định sản xuất, thu hút thêm lao động.
Dự kiến lao động ngành công nghiệp tháng 9 tăng 1,3% so với tháng 8. Trong 3 khu vực kinh tế, khu vực ngoài nhà nước dự kiến tăng cao nhất với 2,9%, tiếp đến là khu vực DN nhà nước với 2,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dự kiến giảm 0,8%. Trong 3 ngành công nghiệp cấp I, ngành sản xuất, phân phối điện, ga và nước dự kiến tăng cao nhất với 6,7%, hai ngành cũn lại là khai thỏc mỏ và cụng nghiệp chế biến dự kiến chỉ tăng 1%./.

File đính kèm:
CongnghiepT8.2009.pdf

Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1215
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)