Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 29/08/2020-10:35:00 AM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2020 của tỉnh Long An

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang tái bùng phát tại một số tỉnh, thành trong cả nước gây ra nhiều khó khăn thử thách trong việc khôi phục phát triển kinh tế - xã hội trong nước nói chung và tỉnh Long An nói riêng nhưng với sự tập trung lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo, điều hành có trọng tâm, trọng điểm của UBND tỉnh, cùng với sự nỗ lực và đồng thuận của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh đã triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Chính phủ, các Bộ ngành trung ương trong thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế. Đến nay trên địa bàn tỉnh chưa có ca nhiễm Covid-19, các hoạt động sản xuất, kinh doanh đang dần được khôi phục và phát triển. Các mục tiêu an sinh xã hội được duy trì thực hiện, đời sống của các tầng lớp nhân dân được quan tâm, đảm bảo cung ứng hàng hóa thiết yếu, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. An ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tình hình cụ thể như sau:

I. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

Cây lúa

- Lúa hè thu 2020: Đã gieo sạ 220.013 ha, đạt 101,1% so với kế hoạch và giảm 0,9% so với cùng kỳ. Đã thu hoạch 100.619 ha (giảm 28,5% so cùng kỳ), diện tích thu hoạch giảm là do ảnh hưởng của nắng hạn các huyện phía nam của tỉnh phải gieo sạ trễ; năng suất ước đạt 49,3 tạ/ha (tăng 3,6%); sản lượng ước 495.051,7 tấn (giảm 26,0%).

- Lúa thu đông 2020: Đã gieo sạ 30.645 ha, đạt 64,9% so với kế hoạch và bằng 132,3% so với cùng kỳ năm 2019. Diện tích gieo sạ tăng là do 2 huyện Tân Thạnh và Tân Hưng gieo sạ sớm để tránh lũ.

Tình hình tiêu thụ lúa: Tính đến ngày 15/8/2020, giá lúa IR50404 từ 5.200 - 5.700 đồng/kg; OM 5451 từ 5.100 - 5.700 đồng/kg; OM 4900, Đài thơm từ 5.600 - 6.000 đồng/kg, Nàng Hoa từ 5.500 - 7.500 đồng/kg, nếp 6.100 - 6.300 đồng/kg.

Tình hình sâu bệnh: Trong tháng, trên lúa hè thu có các đối tượng gây hại như rầy nâu: 2.059 ha, bệnh đạo ôn lá (2.012 ha), đốm vằn (550 ha), bệnh đạo ôn cổ bông (515 ha), bệnh cháy bìa lá (340 ha), bệnh lem lép hạt (210 ha), rầy cánh phấn (200 ha), sâu cuốn lá (100 ha), … xuất hiện trên lúa giai đoạn mạ-đẻ nhánh-đòng trổ-chín ở các huyện Bến Lức, Thủ Thừa, Đức Huệ, Cần Giuộc, thị xã Kiến Tường và thành phố Tân An. Trên lúa Thu đông các đối tượng gây hại như bệnh cháy bìa lá (430 ha), bệnh đạo ôn lá (260 ha), rầy nâu (103 ha), rầy cánh phấn (100 ha),… xuất hiện trên lúa giai đoạn đẻ nhánh - đòng trổ - chín ở huyện Tân Hưng, Thạnh Hóa và thị xã Kiến Tường.

Một số cây trồng chủ yếu khác

- Cây mía niên vụ 2020-2021: Diện tích mía trồng được là 320 ha, giảm 85,4% so cùng kỳ, chủ yếu ở các huyện Bến Lức và Thủ Thừa. Hiện nay, tình hình tiêu thụ mía gặp nhiều khó khăn, giá thấp, nông dân chuyển sang cây trồng khác (lúa, mỳ và cây ăn quả…).

- Bắp hè thu 2020: Trồng được 99,1 ha, tăng 55,6% so cùng kỳ, trồng chủ yếu ở các huyện Đức Hòa, Thủ Thừa, Tân Hưng.

- Đậu phộng hè thu 2020: Diện tích trồng 49,5 ha, giảm 38,2% so cùng kỳ, tập trung ở huyện Đức Hòa. Diện tích giảm do đầu vụ gặp mưa nhiều không thể xuống giống, một phần chuyển sang trồng lúa, số còn lại bỏ hoang.

- Cây chanh: Diện tích ước tính là 11.210,5 ha, tăng 3,6% so cùng kỳ. Diện tích tăng là do những năm gần đây trồng chanh có hiệu quả nên người dân đã chuyển đổi từ một số cây trồng không hiệu quả (mía, khoai mỡ, …) và cải tạo vườn tạp để phát triển. Tính đến ngày 15/8/2020, giá chanh có hạt từ 15.000 – 19.000 đồng/kg; giá chanh không hạt từ 9.000 – 11.000 đồng/kg.

- Cây thanh long: Diện tích ước tính 12.125 ha, tăng 2,4% so cùng kỳ. Trồng chủ yếu ở huyện Châu Thành, Tân Trụ, Tân An, Bến Lức,… do đạt được hiệu quả kinh tế cao nên nhiều diện tích trồng lúa ở các huyện phía Nam của tỉnh được người dân chuyển đổi sang trồng thanh long. Tính đến ngày 15/8/2020, giá thanh long ruột trắng từ 4.000 – 5.000 đồng/kg; giá thanh long ruột đỏ từ 6.000 – 7.000 đồng/kg.

b. Chăn nuôi

Trong tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2020, hoạt động chăn nuôi trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm luôn tìm ẩn rủi ro, giá cả sản phẩm đầu ra không ổn định, người dân ngại đầu tư mở rộng chuồng trại.

Tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm: Trong tháng, xuất hiện một ổ dịch Cúm H5N1 tại huyện Thạnh Hóa với tổng đàn gia cầm tiêu hủy là 54 con (49 ngan, 2 ngỗng, 3 gà). Trong 8 tháng đầu năm 2020, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 5 ổ dịch (3 ổ dịch tả lợn Châu Phi; 1 ổ dịch lở mồm long móng trên trâu, bò và 1 ổ dịch Cúm H5N1 trên gia cầm).

Công tác phòng bệnh: Tiếp tục triển khai đợt tiêm phòng miễn phí vắc-xin Cúm H5N1 trên vịt đợt 1, đã xuất kho 1.002.000 liều miễn phí từ ngày 29/6/2020 đến ngày 15/7/2020.

Tình hình tiêu thụ: Tính đến ngày 15/8/2020, giá gà thả vườn từ 40.000 - 50.000 đồng/kg; giá vịt từ 42.000 - 44.000 đồng/kg; giá heo hơi từ 8,3 - 8,9 triệu đồng/tạ.

2. Lâm nghiệp

Tình hình cháy rừng: Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 12 vụ cháy rừng, các vụ cháy do được phát hiện sớm và dập tắt kịp thời nên chỉ có 03 vụ gây thiệt hại 0,188 ha.

Tình hình khai thác: Ước đến ngày 15/8/2020, sản lượng gỗ khai thác được 92.220 m3 (tăng 1,8% so với cùng kỳ), chủ yếu là gỗ bạch đàn, tràm bông vàng, khai thác ở huyện Đức Huệ và các huyện phía Nam của tỉnh. Củi khai thác được 173.872 ster, tăng 2,0% so cùng kỳ.

3. Thủy sản

Những tháng đầu năm 2020, hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, môi trường nuôi không thuận lợi; giá cả một số sản phẩm cá nước ngọt, cá giống giảm mạnh, làm cho người nuôi ngại đầu tư, phát triển. Tuy nhiên, do tình hình chuyển đổi mô hình nuôi (nuôi xen canh cá-ếch; nuôi tôm nước ngọt), người dân đầu tư chăm sóc kỹ thuật tốt hơn; doanh nghiệp đầu tư phát triển mạnh nuôi cá tra vùng nước ngọt nên hoạt động của ngành thủy sản đã đạt được nhiều kết quả khả quan.

- Tôm nuôi nước lợ: Tính đến ngày 15/8/2020, nông dân đã thả nuôi được 3.949,3 ha, giảm 3,8% so với cùng kỳ. Trong đó: tôm sú 501,3 ha (tăng 18,1%), tôm thẻ chân trắng 3.448,0 ha (giảm 6,3%). Diện tích thu hoạch ước đạt 3.665,9 ha (giảm 5,0%), năng suất ước đạt 2,5 tấn/ha (tăng 4,5%), sản lượng ước đạt 9.263,1 tấn (giảm 0,7%). Trong đó: diện tích thu hoạch tôm sú ước đạt 451,7 ha (tăng 1,1%), năng suất ước đạt 1,9 tấn/ha (tăng 2,5%), sản lượng ước đạt 868,8 tấn (tăng 3,6%); tôm thẻ chân trắng diện tích thu hoạch ước 3.214,2 ha (giảm 5,8%), năng suất ước đạt 2,6 tấn/ha (tăng 5,0%), sản lượng ước đạt 8.394,3 tấn (giảm 1,1%).

- Cá tra nuôi công nghiệp: Tính đến ngày 15/8/2020, diện tích thả nuôi là 133,7 ha, giảm 7,1% so cùng kỳ. Diện tích thu hoạch ước đạt 122,3 ha (giảm 11,4% so cùng kỳ), năng suất ước đạt 147,4 tấn/ha (tăng 52,5%), sản lượng ước đạt 18.028,7 tấn (tăng 35,1%).

- Tình hình giá tôm thương phẩm như sau: Tính đến ngày 15/8/2020 giá tôm thẻ chân trắng cỡ 60 - 70 con/kg, giá từ 80.000 - 90.000 đồng/kg; cỡ 100 - 110 con/kg, giá từ 65.000 - 75.000 đồng/kg; giá tôm sú: cỡ 40 - 50 con/kg, giá từ 190.000 - 200.000; cỡ 70 - 80 con/kg, giá từ 100.000 – 110.000 đồng/kg.

- Thủy sản khai thác: Tính đến ngày 15/8/2020, khai thác ước đạt 8.411,2 tấn, giảm 6,7% so cùng kỳ. Trong đó: khai thác thủy sản biển 4.722,2 tấn (giảm 13,2%), khai thác thủy sản nội địa 3.689,0 tấn (tăng 3,2%).

II. Sản xuất công nghiệp

Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang dần hồi phục và từng bước trở lại sản xuất bình thường.

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8 năm 2020 tăng 8,10% so tháng trước và tăng 16,02% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,25% so tháng trước và tăng 16,11% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,29% so tháng trước và tăng 12,22% so cùng kỳ; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,12% so tháng trước và tăng 20,48% so cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2020 tăng 5,67% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,53%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,85%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,82%.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 8 tháng đầu năm 2020 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp như ngành sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 19,47%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 15,41%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 13,69%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 12,71%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 12,10%; khai thác, xử lý và cung cấp nước 11,22%.

Một số sản phẩm chủ yếu tháng 8/2020 gồm: hạt điều khô 6.621,31 tấn, tăng 5,39% so tháng trước và tăng 31,01% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 47.512,2 tấn, tăng 8,46% so cùng kỳ; gạo xay xát 490,42 nghìn tấn tăng 4,30% so tháng trước và tăng 23,21% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 3.437,91 nghìn tấn, tăng 12,87% so cùng kỳ; thức ăn gia súc 93,73 nghìn tấn, tăng 4,27% so tháng trước và tăng 20,86% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 651,14 nghìn tấn, giảm 0,17% so cùng kỳ; nước khoáng không ga 28.129 nghìn lít, tăng 4,03% so tháng trước và giảm 7,22% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 362.325 nghìn lít, giảm 4,21% so cùng kỳ; sợi tơ nhân tạo 9.125 tấn, tăng 2,33% so tháng trước và tăng 9,73% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 61.614 tấn, tăng 0,70% so cùng kỳ; vải dệt thoi từ sợi tơ tổng hợp 5.972,37 nghìn m2, tăng 12,74% so tháng trước và giảm 58,63% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 78.331,58 nghìn m2, giảm 40,87% so cùng kỳ; túi xách 3.215,75 nghìn cái, tăng 20,83% so tháng trước và giảm 24,73% so với cùng kỳ, lũy kế đạt 22.132,28 nghìn cái, giảm 35,66% so cùng kỳ.

Đến cuối tháng 8 năm 2020 có 50/75 nhóm sản phẩm có tốc độ tăng so cùng kỳ, trong đó: 8 nhóm sản phẩm tăng trên 20% như sợi se từ các loại sợi tự nhiên (tăng 64,31%); dược phẩm chứa hoocmon nhưng không có kháng sinh dạng viên (tăng 32,12%); sản phẩm gia dụng và sản phẩm phục vụ vệ sinh khác bằng plastic (tăng 33,29%); gạch và gạch khối xây dựng (tăng 24,18%); sắt, thép không hợp kim cán phẳng (tăng 39,72%); ba lô (tăng 29,04%),… Số nhóm sản phẩm có tốc độ giảm là 25/75 nhóm, tập trung chủ yếu là bia đóng chai (giảm 18,81%); thức ăn cho gia súc (giảm 0,17%); vải dệt thoi từ sợi tơ tổng hợp (giảm 40,87%); áo sơ mi cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc (giảm 47,88%); túi xách (giảm 35,66%); ...

III. Đầu tư phát triển

Trong tháng 8/2020, tỉnh tiếp tục tập trung triển khai kế hoạch vốn năm 2020 đã giao, các chủ đầu tư đã chủ động trong việc triển khai và thực hiện các thủ tục đầu tư theo quy định, hầu hết các công trình điều có khối lượng thực hiện và giải ngân. Việc phân cấp quản lý vốn đầu tư tiếp tục được đẩy mạnh, công tác đấu thầu được giám sát chặt chẽ, công tác quyết toán vốn được chủ đầu tư và cơ quan tài chính thực hiện đúng quy định.

Ước thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 8 năm 2020 đạt 530,43 tỷ đồng, bằng 11,64% so với kế hoạch, tăng 11,83% so với tháng trước và tăng 75,29% so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 363,43 tỷ đồng, bằng 11,68% so với kế hoạch, tăng 15,68% so với tháng trước và tăng 86,07% so với cùng kỳ năm trước; Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 167,0 tỷ đồng, bằng 11,56% so với kế hoạch, tăng 4,27% so với tháng trước và tăng 55,66% so với cùng kỳ năm trước.

Lũy kế 8 tháng đầu năm 2020, vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách nhà nước do tỉnh quản lý ước đạt 2.311,34 tỷ đồng, bằng 50,74% so kế hoạch và tăng 30,98% so cùng kỳ năm trước. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1.526,21 tỷ đồng, bằng 49,07% so kế hoạch và tăng 27,74% so cùng kỳ năm trước; Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 785,13 tỷ đồng, bằng 54,33% so kế hoạch và tăng 37,77% so cùng kỳ năm trước.

IV. Thương mại, giá cả

1. Nội thương

Hoạt động thương mại, dịch vụ vừa có dấu hiệu khởi sắc thì vào cuối tháng 7/2020, dịch bệnh Covid -19 tái phát tại một số tỉnh, thành phố trong cả nước. Tại tỉnh Long An chưa phát hiện trường hợp nhiễm virus SARS-CoV-2, tuy nhiên, dịch bệnh tái phát đã làm chậm lại đà phục hồi của các hoạt động thương mại, dịch vụ, sức mua của người dân bị ảnh hưởng, dịch vụ du lịch lữ hành không còn khách, nhu cầu đi lại của người dân giảm. Doanh thu thương mại, dịch vụ tháng 8/2020 ước đạt 7.581,16 tỷ đồng, tăng 2,69% so với tháng trước vàtăng 1,64%so cùng kỳ. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 6.437,04 tỷ đồng, tăng 1,96% so tháng trước và tăng 3,22% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 732,60 tỷ đồng, tăng 7,97% so tháng trước và giảm 4,01% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 411,52 tỷ đồng, tăng 5,33% so tháng trước và giảm 10,48% so cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng đầu năm 2020 ước đạt 57.997,21 tỷ đồng, giảm 1,93% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 50.004,54 tỷ đồng (chiếm 86,22% tổng mức), tăng1,38% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 4.983,58 tỷ đồng (chiếm 8,59% tổng mức), giảm 21,45% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 3.009,09 tỷ đồng (chiếm 5,19% tổng mức) giảm 13,35% so cùng kỳ.

2. Giá cả

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 năm 2020 tăng 0,17% so với tháng trước. Có 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so tháng trước, trong đó tăng nhiều nhất là nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,73% (chủ yếu do đồ trang sức tăng 5,73%; vật dụng về hiếu tăng 3,51%), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,03%; nhóm May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,51% (hàng may mặc tăng 0,62%; mũ nón tăng 0,04%; giày dép giảm 0,04%; dịch vụ may mặc mũ nón giày dép tăng 2,37%), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,02%; nhóm Giao thông tăng 0,36% (giá xăng, dầu tăng 0,42% từ 2 đợt điều chỉnh giá ngày 28/7/2020 và ngày 12/8/2020; trong đợt điều chỉnh ngày 12/8/2020 giá xăng A95 giảm 50 đồng/lít, xăng E5 có giá không đổi, dầu diezel 0,05S giảm 190 đồng/lít so với đợt trước), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,03%; nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 0,28% (đồ uống không cồn tăng 0,99%; rượu bia tăng 0,34%), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,01%; nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,23% (giá lương thực tăng 1,53%; thực phẩm giảm 0,07%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,33%), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,08%; nhóm Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,15% (nước sinh hoạt tăng 2,31% do điều chỉnh tăng giá; giá điện sinh hoạt tăng 0,26% do nhu cầu tiêu dùng trong tháng tăng; giá gas tăng 0,63% (từ 317.000 đồng/bình 12kg lên 319.000 đồng/bình 12kg) và dầu hỏa tăng 8,25% theo giá thị trường thế giới), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,02%; nhóm Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%; nhóm Bưu chính viễn thông tăng 0,01%. Có 2 nhóm có chỉ số giá giảm là nhóm Văn hóa, giải trí, du lịch giảm 0,47%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,02%. Nhóm Giáo dục có chỉ số giá không đổi.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng đầu năm 2020 tăng 4,68% so với bình quân cùng kỳ năm 2019. Có 9/11 nhóm có chỉ số giá tăng so với cùng kỳ, trong đó tăng nhiều nhất là nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 11,81%; nhóm Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,60%; nhóm Đồ uống và thuốc lá tăng 3,01%; nhóm Giáo dục tăng 2,96%; nhóm Thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,46%; nhóm May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,74%; nhóm Nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,58%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,45%; nhóm Bưu chính viễn thông tăng 0,30%. Nhóm Giao thông giảm 10,63%; nhóm Văn hóa, giải trí, du lịch giảm 0,49%.

CPI tháng 8/2020 tăng 1,71% so với tháng 12/2019 và tăng 4,53% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá vàng tháng 8/2020 tăng 6,08% so với tháng trước; tăng 29,66% so với tháng 12/2019 và tăng 31,62% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2020 tăng 0,25% so với tháng trước; giảm 0,37% so với tháng 12/2019 và giảm 0,50% so với cùng kỳ năm 2019.

V. Vận tải, du lịch

Vận tải: Trong tháng 8/2020 hoạt động vận tải hàng hóa có xu hướng tăng; ngược lại, vận chuyển hành khách giảm do dịch bệnh Covid-19 tái phát tại một số tỉnh, thành trong cả nước nên người dân đã hạn chế đi du lịch.

Doanh thu vận tải, kho bãi tháng 8 năm 2020 ước đạt 212,47 tỷ đồng, tăng 1,32% so tháng trước và giảm 5,57% so cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 53,77 tỷ đồng, giảm 5,31% so với tháng trước và giảm 20,03% so cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 127,23 tỷ đồng, tăng 3,74% so tháng trước và tăng 6,0% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 3.169,87 ngàn lượt người, giảm 4,86% so với tháng trước và giảm 43,18% so cùng kỳ; luân chuyển ước đạt 93.416,19 ngàn lượt người.km, giảm 5,62% so với tháng trước và giảm 53,59% so cùng kỳ; khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 2.088,69 ngàn tấn, tăng 2,82% so tháng trước và tăng 5,23% so cùng kỳ; luân chuyển ước đạt 105.848,01 ngàn tấn.km, tăng 3,08% so với tháng trước và tăng 9,37% so cùng kỳ.

Ước tính doanh thu vận tải, kho bãi 8 tháng đầu năm 2020 đạt 1.635,50 tỷ đồng, giảm 7,27% so cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 435,22 tỷ đồng, giảm 20,22% so cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 965,15 tỷ đồng, tăng 0,44% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 30.825,13 ngàn lượt người, giảm 29,75% so cùng kỳ; luân chuyển ước đạt 1.058.934,79 ngàn lượt người.km, giảm 37,19% so cùng kỳ; khối lượng vận chuyển hành hóa ước đạt 16.182,45 ngàn tấn, tăng 0,58% so cùng kỳ; luân chuyển ước 803.398,09 ngàn tấn.km, tăng 0,47% so cùng kỳ.

Du lịch: Trong tháng 8/2020, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá, giới thiệu thông tin du lịch, văn hóa, lễ hội, ẩm thực của tỉnh nhằm thu hút khách du lịch đến với Long An nhưng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên lượt khách du lịch sụt giảm mạnh, ước đạt khoảng 20.000 lượt khách, giảm 83% so với cùng kỳ; doanh thu ước đạt 9 tỷ đồng, giảm 84% so với cùng kỳ năm trước.

VI. Tài chính, tiền tệ

Tài chính: Lũy kế từ đầu năm đến ngày 23/8/2020, thu ngân sách nhà nước đạt 10.911,21 tỷ đồng, bằng 64,63% dự toán và giảm 8,16% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa đạt 9.175,79 tỷ đồng, bằng 69,53% dự toán và giảm 3,80% so cùng kỳ (thu xổ số kiến thiết 1.118,65 tỷ đồng, bằng 74,58% dự toán và giảm 10,58% so cùng kỳ); thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 1.735,42 tỷ đồng, bằng 47,09% dự toán và giảm 25,93% so cùng kỳ.

Tổng chi ngân sách địa phương là 9.272,48 tỷ đồng, bằng 63,40% dự toán tỉnh giao và tăng 16,04% so cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 4.572,71 tỷ đồng, bằng 114,09% dự toán và tăng 27,02% so cùng kỳ; chi thường xuyên là 4.698,51 tỷ đồng, đạt 57,84% dự toán và tăng 7,01% so cùng kỳ.

Tiền tệ: Tổng nguồn vốn hoạt động ước tính đến cuối tháng 8 năm 2020 đạt 118.219 tỷ đồng, tăng 8,0% so với đầu năm và tăng 12,73% so cùng thời điểm năm trước.

Vốn huy động đạt 74.460 tỷ đồng, tăng 8,94% so với đầu năm và tăng 15,16% so cùng thời điểm năm trước; trong đó, Vốn huy động ngắn hạn: 53.887 tỷ đồng, tăng 8,0% so với đầu năm và tăng 14,16% so cùng kỳ; Vốn huy động trung, dài hạn: 20.573 tỷ đồng, tăng 11,48% so với đầu năm và tăng 17,85% so cùng kỳ. Lãi suất huy động VNĐ phổ biến ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn; 5,3%-6,8% đối với tiền gửi từ 6-12 tháng; 6,6%-7,4%/năm đối với tiền gửi trên 12 tháng.

Tổng dư nợ cho vay đạt 75.392 tỷ đồng, tăng 8,0% so với đầu năm và tăng 10,30% so cùng thời điểm năm trước; trong đó, cho vay ngắn hạn: 45.818 tỷ đồng, tăng 8,0% so với đầu năm và tăng 17,52% so cùng kỳ; cho vay trung, dài hạn: 29.574 tỷ đồng, tăng 8,0% so với đầu năm và tăng 0,72% so cùng kỳ. Nợ xấu 705 tỷ đồng (tăng 290 tỷ đồng so với đầu năm và tăng 309 tỷ đồng so cùng kỳ). Lãi suất cho vay từng bước được điều chỉnh giảm nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, hộ, cá nhân do tác động của dịch bệnh Covid 19 và ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến khoảng 6%-9%/năm; trung, dài hạn khoảng 9%-11%/năm.

VII. Một số vấn đề xã hội

1.Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

Trong 8 tháng đầu năm 2020, công tác an sinh trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, không có hộ thiếu đói. Triển khai Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Toàn tỉnh đã hỗ trợ cho 15.714 người thuộc hộ nghèo, số tiền: 11,91 tỷ đồng; 38.679 người thuộc hộ cận nghèo, số tiền: 29,02 tỷ đồng; 55.428 đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, số tiền: 82,59 tỷ đồng.Đồng thời hỗ trợ cho 6.784 hộ bán vé số dạo với tổng kinh phí 5,09 tỷ đồng.

2. Giáo dục

Trong tháng 8 năm 2020, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 vào ngày 9 và 10/8/2020. Toàn tỉnh có 01 Hội đồng thi với 34 điểm thi, 607 phòng thi đặt tại 15 huyện, thị xã, thành phố. Tổng số thí sinh đăng ký dự thi: 13.876 em. Số cán bộ, giáo viên, nhân viên, công an, quân sự, y tế tham gia làm việc tại các điểm thi là 2.008 người. Kỳ thi diễn ra an toàn, nghiêm túc và đúng quy chế, không có cán bộ coi thi và thí sinh vi phạm quy chế, thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh trong quá trình tổ chức kỳ thi. Kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 sẽ được công bố vào ngày 27/8/2020.

3. Y tế

Tính đến 7 giờ ngày 22/8/2020, trên địa bàn tỉnh chưa có ca nhiễm Covid-19. Tổng số người cách ly là 5.566 người, trong đó: Số người cách ly tại cơ sở cách ly tập trung là: 1.062 người (280 người hiện đang cách ly và 782 người đã hoàn thành cách ly 14 ngày). Số người cách ly tại nhà, nơi lưu trú là: 4.504 người (142 người đang theo dõi cách ly và 4.362 người đã hoàn thành cách ly 14 ngày).

Trên địa bàn tỉnh hiện có 230.945 điện thoại thông minh đã cài đặt ứng dụng Bluezone trên tổng số 1.436.748 điện thoại thông minh của toàn tỉnh, tỷ lệ 16,07%, xếp hạng 22/63 tỉnh, thành phố trong cả nước.

Một số bệnh truyền nhiễm khác được ghi nhận trong tháng 8 năm 2020 như sau: Bệnh sởi lâm sàng 3 ca (tăng 2 ca so với tháng trước và giảm 26 ca so cùng kỳ); bệnh sốt xuất huyết 260 ca (tăng 1,30 lần so với tháng trước, giảm 65,24% so với cùng kỳ); bệnh tay chân miệng 95 ca mắc (tăng 2,39 lần so với tháng trước và giảm 43,1% so cùng kỳ); bệnh thủy đậu 19 ca (tăng 5 ca so với tháng trước và giảm 60,42% so với cùng kỳ); bệnh quai bị 9 ca (tăng 9 ca so với tháng trước và giảm 70,97% so với cùng kỳ); bệnh tiêu chảy 265 ca mắc (tăng 8,61% so với tháng trước và giảm 46,57% so với cùng kỳ. Số ca nhiễm HIV được phát hiện trong tháng là 48 ca, tăng 21 ca so tháng trước và tăng 28 ca so với cùng kỳ; Có 3 ca tử vong, giảm 2 ca so với tháng trước và tăng 3 ca với cùng kỳ năm trước. Tổng số ca nhiễm HIV được phát hiện từ đầu năm là 196 ca, tăng 73 ca so với cùng kỳ. Số bệnh nhân còn sống đang quản lý là 2.234 ca. Trong 8 tháng đầu năm 2020, trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm.

4. Lao động, việc làm

Trong 8 tháng đầu năm 2020, tỉnh đã giải quyết việc làm cho 17.588 lao động, đạt 58,6% kế hoạch. Tặng 1.235 suất quà cho công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, số tiền 617,5 triệu đồng; tặng vé xe cho người lao động về quê ăn Tết. Hỗ trợ 14.567 người lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị mất việc làm do ảnh hưởng đại dịch Covid-19, với tổng kinh phí 10,42 tỷ đồng.

Có 23.554 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, trong đó xét duyệt 21.388 người; chi trợ cấp thất nghiệp 375,9 tỷ đồng; 194 người được hỗ trợ học nghề; 77.928 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm.

Trong tháng, tuyển sinh đào tạo 15.198 lao động, đạt 60,1% kế hoạch (87 cao đẳng, 1.328 trung cấp, 4.090 sơ cấp, 9.693 dạy nghề dưới 3 tháng).

5. Văn hóa - thể thao

Văn hóa: Trong tháng 8/2020, toàn tỉnh đã thực hiện treo 2.101 băng rôn, pano, áp phích và 153 cuộc tuyên truyền cổ động, loa truyền thanh về Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025, an ninh trật tự, an toàn giao thông, phòng chống xâm hại trẻ em, bạo lực học trường, cháy nổ, ma túy, tệ nạn xã hội, tuyên truyền cài đặt ứng dụng Bluezone và đăng phát các tài liệu tuyên tuyền về phòng, chống dịch COVID-19.

Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tỉnh tổ chức nhiều hoạt động văn nghệ như: tổ chức Hội thi Đờn ca tài tử Nam Bộ tỉnh Long An lần II năm 2020; xây dựng và biểu diễn chương trình văn nghệ tổng hợp phục vụ Hội nghị điển hình tiên tiến công nhân viên chức lao động tỉnh, 90 năm ngày truyền thống ngành Tuyên giáo; biểu diễn vở kịch Sự thật không cần nói nhân kỷ niệm 73 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ. Tham gia Liên hoan Nghệ thuật sân khấu toàn quốc về "Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân" lần thứ IV tại Hà Nội.

Hệ thống thư viện từ tỉnh đến huyện tổ chức các hoạt động trưng bày, giới thiệu sách tại chỗ nhân các ngày lễ kỷ niệm của đất nước; tăng cường công tác bổ sung, xử lý kỹ thuật sách, báo, tạp chí nhằm đáp ứng tốt nhu cầu đọc của nhân dân. Trong đó, Bảo tàng - Thư viện tỉnh tổ chức bổ sung 30 tên/127 bản sách; phục vụ 229 lượt bạn đọc với 956 lượt tài liệu; cấp mới 4 thẻ bạn đọc; xử lý nhập kho 689tờ báo và 37 quyển tạp chí các loại.

Thể thao: Trong tháng 8/2020, Các đội thể dục, thể thao của tỉnh đã tham gia thi đấu và đạt thành tích tốt tại Đại hội Thể thao Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ VIII và các giải thể thao trong nước như: Đội Võ cổ truyền đạt 1 HCV, 2 HCB, 2 HCĐ; đội Vovinam đạt 2 HCB, 2 HCĐ; độiBi sắt đạt 2 HCĐ tại đại hội; đội Bóng chuyền trẻ nam tham gia thi đấu Giải Bóng chuyền trẻ toàn quốc tại Vĩnh Phúc đạt hạng nhì; đội Bóng bàn tham gia thi đấu Giải Vô địch Bóng bàn toàn quốc Báo Nhân dân tại Thành phố Hồ Chí Minh với thành tích vào các đội mạnh toàn quốc năm 2020. Ngoài ra, các huyện, thị xã, thành phố còn tổ chức 36 giải thể thao phong trào như: Bóng đá, Bơi lội, Cờ vua, Bóng chuyền, Taekwondo, Điền kinh.

6. Tình hình cháy nổ, bảo vệ môi trường

Cháy, nổ: Trong tháng 8/2020 trên địa bàn tỉnh Long An xảy ra 01 vụ cháy (tăng 01 vụ so với tháng trước và giảm 01 vụ so với cùng kỳ); ước tính giá trị thiệt hại khoảng 4,6 tỷ đồng, bổ sung giá trị thiệt hại của vụ cháy ngày 16/3/2020 là 10 tỷ đồng. Lũy kế 8 tháng đầu năm 2020 đã xảy ra 07 vụ cháy, ước tổng giá trị thiệt hại là 26,34 tỷ đồng.

Bảo vệ môi trường: Trong tháng không phát hiện trường hợp vi phạm quy định về bảo vệ môi trường. Lũy kế 8 tháng đầu năm 2020 đã xảy ra 24 vụ vi phạm môi trường (tăng 41,18% so cùng kỳ); với tổng số tiền xử phạt là 3,97 tỷ đồng (tăng 95,52%).

7. Tai nạn giao thông

Trong tháng 8 năm 2020 (tính đến 20/8/2020) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 9 vụ tai nạn giao thông (giảm 9 vụ so tháng trước và giảm 7 vụ so cùng kỳ năm trước); làm chết 8 người (giảm 1 người so tháng trước và giảm 2 người so với cùng kỳ); bị thương 5 người (giảm 11 người so với tháng trước và giảm 7 người so với cùng kỳ).

Trong 8 tháng đầu năm 2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 106 vụ tai nạn giao thông (giảm 24 vụ so cùng kỳ năm trước); làm chết 67 người (giảm 11 người); bị thương 66 người (giảm 51 người)./.


Cục Thống kê tỉnh Long An

    Tổng số lượt xem: 753
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)