1. Tình hình chung:
Tháng 5 năm 2008 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 55.373 tỷ đồng tăng 3,1% so với tháng 4 và tăng 16,3% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 2,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 20,8% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 7%, các ngành khác tăng 24%).
Năm tháng đầu năm 2008 GTSXCN ước đạt 270.814 tỷ đồng tăng 16,4% chưa đạt mức kế hoạch đề ra cho cả năm 2008 (17,3-18%), tuy nhiên mức tăng trưởng này là đạt so với mức kế hoạch tăng trưởng toàn ngành điều chỉnh mà Vụ KTCN đã gửi tới quý Vụ (16,3-16,6%).
Trong mức tăng trưởng của năm tháng đầu năm 2008, khu vực quốc doanh tăng 7% và có tỷ trọng tiếp tục giảm trong GTSXCN cả nước (chiếm 22,4%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 22,1% và có tỷ trọng so toàn ngành tiếp tục tăng (chiếm 35,5%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,2% (trong đó Tcty dầu khí giảm 6,5%, các ngành khác tăng 19,7%) chiếm tỷ trọng 42,1% toàn ngành.
Năm tháng đầu năm các sản phẩm đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành điều chỉnh (16,3%) gồm: thuỷ hải sản chế biến tăng 19,5%; dầu thực vật tinh luyện tăng 28,6%; sữa bột tăng 27%; quần áo mặc thường cho người lớn tăng 25,7%; giấy bìa các loại tăng 16,4%; lốp ô tô, máy kéo các loại tăng 41,5%; gạch lát ceramic tăng 16,8%; sứ vệ sinh các loại tăng 26,8%; thép tròn các loại tăng 17,1%; điều hoà nhiệt độ tăng 30%; tủ lạnh, tủ đá tăng 29,7%; máy giặt tăng 51%; biến thế điện tăng 20%; tivi các loại tăng 30%; xe chở khách tăng 106,5%; xe tải tăng 109,8%; tàu chở hàng bằng thép tăng 29,3% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm có giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhưng tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành như: than sạch tăng 10,7%, bia các loại tăng 12,6%, vải dệt từ sợi bông tăng 8,2%; giày thể thao tăng 12,8%; phân hoá học tăng 4,4%, xà phòng giặt các loại tăng 5,3%; lốp mô tô, xe máy, xích lô tăng 4,6%; săm các loại tăng 6,2%; gạch xây bằng đất nung các loại tăng 12,7%; xi măng tăng 12,5%; xe máy tăng 9%; điện sản xuất tăng 15,7%; nước máy thương phẩm tăng 13,5% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: dầu thô khai thác đạt 93,7%; khí đốt thiên nhiên dạng khí đạt 96,9%; khí hoá lỏng (LPG) đạt 81,3%; kính thuỷ tinh đạt 92,3%; thuốc lá điếu đạt 97,6%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo đạt 93,5%.
Theo vùng lãnh thổ năm tháng đầu năm các tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành (16,3%) gồm: Hải Phòng tăng 18,3%; Vĩnh Phúc tăng 35,3%; Hà Tây tăng 22,7%; Hải Dương tăng 38%; Phú Thọ tăng 18,5%; Bình Dương tăng 23,5%; Đồng Nai tăng 20%; Cần Thơ tăng 17,1%.
Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 15%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,4%; Quảng Ninh tăng 14,3%; Thanh Hoá tăng 13,8%; Đà Nẵng tăng 15,2%; Khánh Hoà tăng 12,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 98,7% so cùng kỳ.
Một số nhận xét chung:
Trong tình hình giá cả nguyên liệu nhập khẩu (giá dầu thô đã tăng trên 130 USD/thùng), lãi suất ngân hàng tăng cao (lãi suất cho vay từ 17-18%), sản xuất công nghiệp vẫn đạt mức tăng trưởng khá, tuy chưa đạt kế hoạch đề ra cho cả năm.
Về các khu vực kinh tế: khu vực quốc doanh tiếp tục có mức tăng trưởng thấp trong khi khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều đạt mức tăng trưởng cao. Vì vậy, việc cải cách khu vực kinh tế nhà nước là nhiệm vụ hàng đầu để có thể duy trì mức độ tăng trưởng cao ngành công nghiệp (thông qua cổ phần hoá, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước).
Về các sản phẩm công nghiệp chủ yếu: dầu thô khai thác tiếp tục giảm sản lượng so với cùng kỳ do hạn chế về kỹ thuật của các mỏ đang khai thác và trữ lượng hạn chế của các mỏ mới phát hiện, than sạch đạt mức tăng thấp do việc hạn chế xuất khẩu than để sử dụng ở trong nước.
Về các địa phương chiếm tỷ trọng GTSXCN lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Hà nội có mức tăng trưởng khá hơn quý I/2008 nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình toàn ngành, Bà rịa - Vũng Tàu giảm so cùng kỳ do dầu thô khai thác giảm.
2. Tình hình cụ thể các ngành:
- Năm tháng đầu năm 2008 điện sản xuất ước đạt 29,3 tỷ kwh tăng 15,7% so cùng kỳ (mức tăng khá so với mức tăng 13-14% của các năm trước).
- Dầu thô khai thác đạt gần 6,2 triệu tấn giảm 6,3%. Khí thiên nhiên đạt trên 3,1 tỷ m3 giảm 3%. Khí hoá lỏng đạt 105 nghìn tấn giảm 19% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác đạt trên 18,8 triệu tấn tăng 10,7% so cùng kỳ, trong đó ước xuất khẩu 11,4 triệu tấn (chiếm 61% lượng sản xuất).
- Thép tròn các loại đạt trên 1,7 triệu tấn tăng 17,1% so cùng kỳ.
- Xi măng đạt 14,7 triệu tấn tăng 12,5% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính phân NPK) đạt trên 1 triệu tấn tăng 4,4% so cùng kỳ.
- Bia đạt 651 triệu lít tăng 12,6% so cùng kỳ.
- Vải dệt từ sợi bông đạt 106,4 triệu m2 tăng 8,2%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 538 triệu cái tăng 25,7% so cùng kỳ.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Năm tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 23,3 tỷ USD tăng 27,2% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 5,7 triệu tấn giảm 11,3%; than đá đạt 11,4 triệu tấn giảm 15,7%; hàng dệt may đạt 3,2 tỷ USD tăng 19%; hàng giày dép đạt 1,7 tỷ USD tăng 13,4%; sản phẩm gỗ đạt 1,1 tỷ USD tăng 21%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 964 triệu USD tăng 25,2%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 325 triệu USD tăng 30,7%; dây và cáp điện đạt 412 triệu USD tăng 28%; sản phẩm nhựa đạt 343 triệu USD tăng 31,7%; xe đạp và phụ tùng đạt 38 triệu USD giảm 3,3%; thủy sản chế biến đạt 1,48 tỷ USD tăng 11,7%.
Việc giảm xuất khẩu than đá do chủ trương hạn chế xuất khẩu để khuyến khích sử dụng trong nước (trong tháng 4/2008 Bộ Tài chính đã tăng thuế xuất khẩu mặt hàng này từ 10% lên 15%). Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đã tăng thuế xuất khẩu đối với các loại quặng kim loại lên 20% để giảm xuất khẩu và khuyến khích chế biến trong nước.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong năm tháng đầu năm 2008 ước đạt 37,8 tỷ USD tăng 67% so cùng kỳ chủ yếu là nguyên liệu và máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước, và ngoài ra còn do việc nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại và linh kiện ô tô tăng đột biến trong thời gian này. Mức nhập siêu trong 5 tháng đầu năm đạt 14,4 tỷ USD bằng 61,6% so với kim ngạch xuất khẩu là mức thâm hụt cán cân thương mại rất lớn, cần tiếp tục có nghiên cứu và áp dụng các biện pháp quản lý vĩ mô để giảm nhập siêu.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 5,8 triệu tấn tăng 6,2%; phân bón đạt 2 triệu tấn tăng gần 40% (trong đó phân urê đạt 516 nghìn tấn tăng 97%); thép các loại đạt 5,6 triệu tấn tăng 84,3% (trong đó phôi thép 1,8 triệu tấn tăng 108%); bông các loại đạt 133 nghìn tấn tăng 43%; sợi các loại đạt 183 nghìn tấn tăng 7,6%; ôtô nguyên chiếc đạt 35,3 nghìn chiếc tăng 505,8%; linh kiện ôtô đạt 681 triệu USD tăng 216,7%; linh kiện xe máy đạt 267 triệu USD tăng 14,8%; chất dẻo nguyên liệu đạt 762 nghìn tấn tăng 19,4%; giấy các loại đạt 451 nghìn tấn tăng 38%; máy tính và linh kiện điện tử đạt 1,47 tỷ USD tăng 43%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 5,7 tỷ USD tăng 42,5%; hóa chất các loại đạt 777 triệu USD tăng 41%; nguyên liệu dệt may da đạt 997 triệu USD tăng 14,5%; vải các loại đạt 1,8 tỷ USD tăng 15% so cùng kỳ.
Nguyên nhân nhập khẩu nguyên liệu, vật tư tăng cao nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất trong nước tăng trưởng cao của các lĩnh vực cán thép, lắp ráp ôtô, xe máy, giấy, lắp ráp điện tử, sản xuất sản phẩm nhựa, dệt may, phân bón phục vụ nông nghiệp, sản xuất giấy, hoá chất.
Riêng mặt hàng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu để tiêu dùng có mức tăng cao (hơn 6 lần so với cùng kỳ) cho thấy nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này ở trong nước là rất lớn. Từ đầu năm đến nay Bộ Tài chính đã 2 lần điều chỉnh thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc từ 60% lên 70% và tiếp tục điều chỉnh lên 83% để tăng thu ngân sách và hạn chế nhập khẩu mặt hàng này (giảm mức nhập siêu trong cán cân thương mại). Hiện nay Bộ Tài chính đang đề xuất tiếp tục tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ôtô để giảm mức tiêu dùng xe và bình đẳng giữa xe nhập khẩu và xe lắp ráp trong nước.
4. Về đầu tư XDCB:
- Trong 5 tháng đầu năm tình hình thực hiện vốn đầu tư XDCB nhìn chung đều chậm tiến độ do việc tăng giá nguyên vật liệu (xi măng, sắt thép) so với thời điểm được duyệt TKKT-TDT, vì vậy nhiều nhà thầu chờ được điều chỉnh vốn đầu tư mới tiếp tục thi công. Thủ tướng Chính phủ đã có công văn số 546/TTg-KTN ngày 14/4/2008 về việc điều chỉnh giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu xây dựng và hợp đồng xây dựng. Bộ Tài chính có công văn số 5422/BTC-ĐT ngày 12/5/2008 hướng dẫn việc tạm ứng, thanh toán tiền bù chênh lệch giá vật liệu xây dựng.
- Tình hình thực hiện vốn đầu tư XDCB ở một số tập đoàn, tổng công ty như sau:
+ Tập đoàn công nghiệp than - khoáng sản Việt nam: 5 tháng đầu năm ước thực hiện 4.431 tỷ đồng đạt 20,3% kế hoạch năm (trong đó vốn ngân sách nhà nước đạt 42,7 tỷ đồng đạt 0,33%; vốn tín dụng thương mại đạt 2918 tỷ đồng đạt 19,8%; vốn tự huy động đạt 1277 tỷ đồng đạt 21,4%; vốn khác đạt 193 tỷ đồng).
+ Tổng công ty thép Việt Nam: luỹ kế đến hết tháng 4/2008 thực hiện đạt 644,5 tỷ đồng.
Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư