1. Tình hình chung:
Tháng 9 5 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 46.19244.125 tỷ đồng tăng 3,4%2,8% so với tháng 84 và tăng 18,716,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 8,710,7%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 24,620,3%, khu vực có vốn ĐTNN tăng 23,219,6%.
Tính chung 95 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 365.034206.786 tỷ đồng tăng 815,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 48,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 2220,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,518,1% (trong đó Tcty dầu khí giảm 43%, các ngành khác tăng 24,923,7%).Chínthan sạch tăng 20,1%, quần áo may sẵn tăng 18,9%, thuốc trừ sâu tăng 17,1%, thuốc ống các loại tăng 22,9%, xà phòng các loại tăng 17%, sứ vệ sinh tăng 17%, so với cùng kỳ năm trước.
điện phát ra tăng 12,6%, khí đốt thiên nhiên tăng 1,2%, gas hoá lỏng tăng 5%, sữa hộp tăng 1,8%, bia tăng 10,1%, bột ngọt tăng 5%, thuỷ sản chế biến tăng 12,2%, giấy bìa các loại tăng 12,8%, vải lụa thành phẩm tăng 13,7%, quần áo dệt kim tăng 8%, thép cán tăng 14,8%, xi măng tăng 13,2%, gạch xây tăng 3%, gạch lát tăng 7,7%, động cơ diezen tăng 10,8, động cơ điện tăng 8,1%, xe máy các loại tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước.dầu thô khai thác đạt 92,5%, đường mật các loại đạt 97%, thuốc lá bao đạt 94,4%, xút NaOH đạt 94,3%, phân hoá học đạt 95,1%, thuốc viên các loại đạt 97,7%, máy công cụ đạt 62,6%, máy biến thế đạt 59%, ắc quy đạt 97,4%, quạt điện dân dụng đạt 90,4%, tivi các loại đạt 98,8%, ôtô các loại đạt 66,8%, xe đạp đạt 57,2% so với cùng kỳ năm trước. Theo vùng, lãnh thổ một số địa phương (chiếm 10/15 tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn) duy trì được mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch của toàn ngành (15,5%) là Hà nội 18,3%, Hải phòng 18%, Vĩnh Phúc 17,6%, Hà Tây 22,9%, Hải dương 23,3%, Quảng Ninh 17,5%, Khánh hoà 16%, Bình Dương 19,4%, Đồng Nai 18,4%, và Cần Thơ 21,2%. Một số địa phương (chiếm 5/15 tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn) có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành là Phú Thọ 12,8%, Thanh hoá 13,5%, Đà Nẵng 13,6%, Tp. Hồ Chí Minh 13,7%, Bà rịa – Vũng Tàu 6,5%.
2. Một số nhận xét về tình hình sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2006:
Trong tháng 9/2006 thị trường thế giới có một số biến động làm giảm áp lực tăng giá các mặt hàng trong nước như giá dầu thô giảm xuống mức 60 USD/thùng làm giá xăng trong nước cũng được Bộ Tài chính điều chỉnh xuống mức 11.000 đ/lít, giá phôi thép nhập khẩu giảm xuống mức 400 USD/tấn cùng với việc thép xây dựng của Trung Quốc nhập khẩu với giá rẻ hơn thép trong nước làm cho giá thép xây dựng trong nước giữ ở mức 7,3-7,5 triệu đồng/tấn (chưa tính thuế VAT).
9 tháng đầu năm 2006 ngành công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 16,8% cao hơn so với kế hoạch cả năm của toàn ngành (15,5%).
- Về cơ cấu sản phẩm được thống kê có 6/36 sản phẩm có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch chung toàn ngành, 17/36 sản phẩm có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành và 13/36 sản phẩm giảm so cùng kỳ.
Than sạch khai thác, quần áo may sẵn và một số sản phẩm hoá chất, hoá dược và vật liệu xây dựng tiếp tục đạt mức tăng cao hơn kế hoạch toàn ngành. Một số sản phẩm quan trọng với tỷ trọng lớn tiếp tục có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm như điện sản xuất, dầu thô, khí đốt, một số sản phẩm gia công cơ khí và điện tử.
Việc tăng trưởng toàn ngành ở mức 16,8% có thể lý giải do mức tăng cao tập trung ở các sản phẩm nằm ngoài danh mục được thống kê ở trên (thể hiện qua báo cáo tình hình xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chính) như sản phẩm gỗ, da giầy, các sản phẩm điện tử như đầu video, DVD, máy lạnh, máy giặt, dây và cáp điện, sản phẩm nhựa (thể hiện ở danh mục các mặt hàng xuất nhập khẩu), các sản phẩm cơ khí lớn như đóng tàu, khung nhà thép, thép lá, thép mạ v.v..Ngoài ra một số sản phẩm chế biến sâu khoáng sản như kẽm thỏi (Nhà máy kẽm điện phân Thái nguyên), tinh quặng đồng (Tổ hợp đồng Sin Quyền – Lào Cai) bắt đầu đi vào sản xuất từ quý II/2006.
Điện sản xuất mặc dù có mức tăng trưởng thấp nhưng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế (do nhu cầu tăng không cao và hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp tiết kiệm điện), về cơ cấu điện sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác và mua ngoài tiếp tục duy trì ở mức cao trên 20%.
Trong những tháng đầu năm 2006, nhiều khách hàng có nhu cầu mua xe có tâm lý chờ đợi việc áp dụng chính sách nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng với giá cạnh tranh hơn so với xe ôtô sản xuất/lắp ráp trong nước khiến thị trường ôtô giảm sút, ngoài ra với chính sách hạn chế mua xe công của Chính phủ trong năm nay dẫn tới sản lượng xe ôtô các loại chỉ đạt 66% so với cùng kỳ. Với chính sách thuế và giá cả xe sản xuất trong nước như hiện nay thì ôtô là một mặt hàng xa xỉ phẩm đối với khu vực dân cư, dẫn đến cung cầu chỉ gặp nhau ở mức sản lượng thấp.
- Về tăng trưởng của các địa phương là khá tốt với 10/15 địa phương được thống kê có mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành, 5/15 địa phương có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Trong đó có các tỉnh chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa – Vũng tàu tiếp tục có mức tăng thấp hơn mức tăng trưởng chung của toàn ngành.
3. Tình hình sản xuất 9 tháng một số ngành, sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn so cùng kỳ:
- Than sạch khai thác đạt 27,3 triệu tấn, tăng 20,1%.
- Dầu thô khai thác đạt 12,7 triệu tấn, giảm 7,5%
- Khí đốt thiên nhiên đạt 5 tỷ m3 tăng 1,2% so cùng kỳ.
- Bia đạt 1,14 tỷ lít, tăng 10,1%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 428 triệu m2, tăng 13,7%.
- Quần áo dệt kim đạt 106,3 triệu cái, tăng 8%.
- Quần áo may sẵn đạt 881,5 triệu cái, tăng 18,9% do kim ngạch xuất khẩu đang có mức tăng trưởng tốt.
- Giấy bìa đạt 724,8 nghìn tấn, tăng 12,8%.
- Phân hoá học đạt 1,56 triệu tấn (chưa kể phân NPK), giảm 5% do nhà máy đạm Phú Mỹ bị sự cố vào tháng 7.
- Xi măng đạt 23 triệu tấn, tăng 13,2%.
- Thép cán đạt 2,94 triệu tấn tăng 14,8%.
4. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 9 tháng đầu năm ước đạt 29,4 tỷ USD tăng 24,2% so cùng kỳ và đạt 78% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp ước đạt 21,8 tỷ USD.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu có kim ngạch lớn như: dầu thô đạt 12,5 triệu tấn giảm 6,4%, than đá đạt 19,8 triệu tấn tăng 68,3% vượt kế hoạch 41,4%, hàng dệt may đạt 4,46 tỷ USD tăng 27,8%, hàng giày dép đạt 2,64 tỷ USD tăng 21,5%, sản phẩm gỗ đạt 1,35 tỷ USD tăng 24%; hàng điện tử, linh kiện và vi tính đạt trên 1,2 tỷ USD tăng 19,2%; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù đạt 368 triệu USD tăng 4%, dây và cáp điện đạt 497 triệu USD tăng 39,2%, sản phẩm nhựa đạt 341 triệu USD tăng 33%, xe đạp và phụ tùng đạt 92 triệu USD giảm 18,4%.
Các mặt hàng xuất khẩu hầu hết đều tăng khá đặc biệt than đá có mức tăng cao (do đó cần có chính sách đánh thuế xuất khẩu và tăng thuế tài nguyên lên mức 5-10% để hạn chế, dành than cho các nhà máy nhiệt điện than sắp đi vào hoạt động, Bộ Tài chính dự kiến áp dụng mức thuế xuất khẩu 3%), dầu thô khai thác tiếp tục giảm do trữ lượng dầu tại các mỏ có hạn và quy trình kỹ thuật khai thác đã tới giới hạn, tuy nhiên giá bán dầu đang cao nên về kim ngạch xuất khẩu (quy ra giá trị) vẫn tăng.
b. Về nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 9 tháng đầu năm ước đạt 32,7 tỷ USD tăng 19,3% so cùng kỳ, trong đó chủ yếu là máy móc và vật tư phục vụ công nghiệp.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so cùng kỳ như: ôtô nguyên chiếc đạt 9017 chiếc giảm 36%, linh kiện ôtô và phụ tùng đạt 334 triệu USD giảm 44% do lượng xe lắp ráp trong nước giảm mạnh, linh kiện xe máy CKD và IKD đạt 320 triệu USD giảm 13%, xăng dầu các loại đạt 8,6 triệu tấn giảm 3%, phân bón các loại đạt 2,36 triệu tấn tăng 18,1% (trong đó phân urê đạt 566 nghìn tấn tăng 3,6%), thép các loại đạt 4,25 triệu tấn tăng 1,4% (trong đó phôi thép đạt 1,5 triệu tấn giảm 10% do một số nhà máy sản xuất phôi thép trong nước đi vào hoạt động cung cấp cho thị trường như Nhà máy thép Phú Mỹ, Hoà phát,...), giấy các loại đạt 530 nghìn tấn tăng 27,1%, bông các loại đạt 139 nghìn tấn tăng 14,5%, sợi các loại đạt 248 nghìn tấn tăng 61%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt trên 4,7 tỷ USD tăng 21,1%, tân dược đạt 396 triệu USD tăng 9,4%, hoá chất các loại đạt 736 triệu USD tăng 16,6%, chất dẻo nguyên liệu đạt 992 nghìn tấn tăng 11,7%, vải đạt 2,1tỷ USD tăng 24,5%, nguyên phụ liệu dệt may da đạt 1,45 tỷ USD giảm 13%, máy tính và linh kiện đạt trên 1,45 tỷ USD tăng 18,7%.