Ngày 22/08/2006-10:24:00 AM
1. Tình hình chung:
Tháng 8 5 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 45.08544.125 tỷ đồng tăng 3%2,8% so với tháng 74 và tăng 18,816,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,610,7%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 24,620,3%, khu vực có vốn ĐTNN tăng 21,919,6%.
Tính chung 85 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 329.466206.786 tỷ đồng tăng 715,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 68,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,820,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,118,1% (trong đó Tcty dầu khí giảm 43%, các ngành khác tăng 24,423,7%).Támthan sạch tăng 20,7%, quần áo may sẵn tăng 19,6%, thuốc trừ sâu tăng 17,5%, thuốc ống các loại tăng 20,2%, thép cán tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước.
điện phát ra tăng 12,3%, khí đốt thiên nhiên tăng 2,4%, gas hoá lỏng tăng 3%, sữa hộp tăng 2,9%, bia tăng 10,3%, bột ngọt tăng 7,4%, thuỷ sản chế biến tăng 13,8%, giấy bìa các loại tăng 11,7%, vải lụa thành phẩm tăng 14,6%, quần áo dệt kim tăng 7,4%, xà phòng các loại tăng 11,5%, xi măng tăng 12,2%, gạch xây tăng 0,6%, gạch lát tăng 6,4%, sứ vệ sinh tăng 15%, động cơ diezen tăng 6,4%, động cơ điện tăng 7,1%, xe máy các loại tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước.dầu thô khai thác đạt 93,7%, đường mật các loại đạt 98,2%, thuốc lá bao đạt 94,3%, xút NaOH đạt 99,9%, phân hoá học đạt 93,1%, thuốc viên các loại đạt 98,4%, máy công cụ đạt 62,6%, máy biến thế đạt 61,8%, ắc quy đạt 99,7%, quạt điện dân dụng đạt 91,9%, tivi các loại đạt 96,6%, ôtô các loại đạt 62%, xe đạp đạt 60,1% so với cùng kỳ năm trước. Theo vùng, lãnh thổ một số địa phương (chiếm 9/15 tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn) duy trì được mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch của toàn ngành (15,5%) là Hà nội 17,1%, Hải phòng 18,4%, Hà Tây 23,6%, Hải dương 24,8%, Quảng Ninh 17,5%, Khánh hoà 15,5%, Bình Dương 18,5%, Đồng Nai 18,3%, và Cần Thơ 22,3%. Một số địa phương (chiếm 6/15 tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn) có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành là Vĩnh Phúc 14,3%, Phú Thọ 13,9%, Thanh hoá 12,5%, Đà Nẵng 11,4%, Tp. Hồ Chí Minh 13,7%, Bà rịa – Vũng Tàu 8,9%.
2. Một số nhận xét về tình hình sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2006:
Với các khó khăn về giá nguyên nhiên liệu, xăng dầu tăng, công nghiệp 8 tháng đầu năm 2006 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 16,7% cao hơn so với kế hoạch cả năm của toàn ngành (15,5%). - Về cơ cấu sản phẩm được thống kê có 5/36 sản phẩm có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch chung toàn ngành, 18/36 sản phẩm có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành và 13/36 sản phẩm giảm so cùng kỳ. Than sạch khai thác, quần áo may sẵn, thép cán xây dựng tiếp tục đạt mức tăng cao hơn kế hoạch toàn ngành. Một số sản phẩm quan trọng với tỷ trọng lớn tiếp tục có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm như điện sản xuất, dầu thô, khí đốt, một số sản phẩm gia công cơ khí và điện tử. Việc tăng trưởng toàn ngành ở mức 16,7% có thể lý giải do mức tăng cao tập trung ở các sản phẩm nằm ngoài danh mục được thống kê ở trên như sản phẩm gỗ, da giầy, các sản phẩm điện tử như đầu video, DVD, máy lạnh, máy giặt, dây và cáp điện, sản phẩm nhựa (thể hiện ở danh mục các mặt hàng xuất nhập khẩu), các sản phẩm cơ khí lớn như đóng tàu, khung nhà thép, thép lá, thép mạ v.v..Ngoài ra một số sản phẩm chế biến sâu khoáng sản như kẽm thỏi (Nhà máy kẽm điện phân Thái nguyên), tinh quặng đồng (Tổ hợp đồng Sin Quyền – Lào Cai) bắt đầu đi vào sản xuất từ quý II/2006. Điện sản xuất mặc dù có mức tăng trưởng thấp nhưng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế (do nhu cầu tăng không cao và hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp tiết kiệm điện), về cơ cấu điện sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác và mua ngoài tiếp tục duy trì ở mức cao trên 21%. Trong những tháng đầu năm 2006, nhiều khách hàng có nhu cầu mua xe có tâm lý chờ đợi việc áp dụng chính sách nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng với giá cạnh tranh hơn so với xe ôtô sản xuất/lắp ráp trong nước khiến thị trường ôtô giảm sút, ngoài ra với chính sách hạn chế mua xe công của Chính phủ trong năm nay dẫn tới sản lượng xe ôtô các loại chỉ đạt 62% so với cùng kỳ. Với chính sách thuế và giá cả xe sản xuất trong nước như hiện nay thì ôtô là một mặt hàng xa xỉ phẩm đối với khu vực dân cư, dẫn đến cung cầu chỉ gặp nhau ở mức sản lượng thấp. - Về tăng trưởng của các địa phương là khá tốt với 9/15 địa phương được thống kê có mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành, 6/15 địa phương có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Trong đó có các tỉnh chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa – Vũng tàu tiếp tục có mức tăng thấp hơn mức tăng trưởng chung của toàn ngành.
3. Tình hình sản xuất 8 tháng một số ngành, sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn so cùng kỳ:
- Than sạch khai thác đạt 24,5 triệu tấn, tăng 20,7%.
- Dầu thô khai thác đạt 11,4 triệu tấn, giảm 6,3%
- Khí đốt thiên nhiên đạt 4,6 tỷ m3 tăng 2,4% so cùng kỳ.
- Bia đạt 1 tỷ lít, tăng 10,3%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 380 triệu m2, tăng 14,6%.
- Quần áo dệt kim đạt 93 triệu cái, tăng 7,4%
- Quần áo may sẵn đạt 775 triệu cái, tăng 19,6% do kim ngạch xuất khẩu đang có mức tăng trưởng tốt.
- Giấy bìa đạt 623,5 nghìn tấn, tăng 11,7%.
- Phân hoá học đạt 1,38 triệu tấn (chưa kể phân NPK), giảm 7% do nhà máy đạm Phú Mỹ bị sự cố vào tháng 7.
- Xi măng đạt 20,5 triệu tấn, tăng 13,5%.
- Thép cán đạt 2,6 triệu tấn tăng 16,4%.
4. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 8 tháng đầu năm ước đạt 26 tỷ USD tăng 24,3% so cùng kỳ và đạt 69% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp ước đạt 19,5 tỷ USD.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu có kim ngạch lớn như: dầu thô đạt 11,1 triệu tấn giảm 6,5%, than đá đạt 17,3 triệu tấn tăng 64,7%, hàng dệt may đạt 3,9 tỷ USD tăng 28,3%, hàng giày dép đạt 2,4 tỷ USD tăng 21,7%, sản phẩm gỗ đạt 1,2 tỷ USD tăng 24,5%; hàng điện tử, linh kiện và vi tính đạt trên 1 tỷ USD tăng 18,1%; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù đạt 337 triệu USD tăng 6,1%, dây và cáp điện đạt 431 triệu USD tăng 38,6%, sản phẩm nhựa đạt 292 triệu USD tăng 28,4%, xe đạp và phụ tùng đạt 84 triệu USD giảm 19%.
Các mặt hàng xuất khẩu hầu hết đều tăng khá đặc biệt than đá có mức tăng cao (do đó cần có chính sách đánh thuế xuất khẩu và tăng thuế tài nguyên lên mức 5-10% để hạn chế, dành than cho các nhà máy nhiệt điện than sắp đi vào hoạt động), dầu thô khai thác tiếp tục giảm do trữ lượng dầu tại các mỏ có hạn và quy trình kỹ thuật khai thác đã tới giới hạn, tuy nhiên giá bán dầu đang cao nên về kim ngạch xuất khẩu (quy ra giá trị) vẫn tăng.
b. Về nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 8 tháng đầu năm ước đạt 28,7 tỷ USD tăng 17,4% so cùng kỳ, trong đó chủ yếu là máy móc và vật tư phục vụ công nghiệp.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so cùng kỳ như: ôtô nguyên chiếc đạt 7667 chiếc giảm 41%, linh kiện ôtô và phụ tùng đạt 283 triệu USD giảm 46% do lượng xe lắp ráp trong nước giảm mạnh, linh kiện xe máy CKD và IKD đạt 277 triệu USD giảm 13%, xăng dầu các loại đạt 7,7 triệu tấn giảm 4%, phân bón các loại đạt 2 triệu tấn tăng 13,2% (trong đó phân urê đạt 464 nghìn tấn giảm 11%), thép các loại đạt 3,8 triệu tấn tăng 2,6% (trong đó phôi thép đạt 1,3 triệu tấn giảm 13% do một số nhà máy sản xuất phôi thép trong nước đi vào hoạt động cung cấp cho thị trường như Nhà máy thép Phú Mỹ, Hoà phát,...), giấy các loại đạt 476 nghìn tấn tăng 28,3%, bông các loại đạt 123 nghìn tấn tăng 7,5%, sợi các loại đạt 221 nghìn tấn tăng 60%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt trên 4 tỷ USD tăng 18%, tân dược đạt 355 triệu USD tăng 11,7%, hoá chất các loại đạt 643 triệu USD tăng 15,2%, chất dẻo nguyên liệu đạt 864 nghìn tấn tăng 10,3%, vải đạt 1,9 tỷ USD tăng 30,1%, nguyên phụ liệu dệt may da đạt 1,3 tỷ USD giảm 10%, máy tính và linh kiện đạt trên 1,27 tỷ USD tăng 18,1%.
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
|
|