Báo cáo của Vụ Kinh tế công nghiệp ngày 23/11/2007
1. Tình hình chung:
Tình hình bão lụt liên tục diễn ra tại các tỉnh miền Trung và sắp tới có thể ảnh hưởng đến cả miền Nam (như Tp. Hồ Chí Minh) có tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, làm tăng giá các mặt hàng công nghiệp và tiêu dùng trên các địa bàn bị ngập lụt.
Trong tình hình đó, hoạt động sản xuất công nghiệp vẫn diễn ra với mức tăng trưởng khá cao, cụ thể tháng 11 năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 52.108 tỷ đồng tăng 4,2% so với tháng 10 và tăng 17,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 15%, các ngành khác tăng 23,6%).
Mười một tháng đầu năm 2007 GTSXCN ước đạt 519.831 tỷ đồng tăng 17% so với cùng kỳ năm 2006, đạt mức kế hoạch đề ra cho cả năm 2007 (17-17,2%), trong đó khu vực quốc doanh tăng 10,4% và có tỷ trọng tiếp tục giảm trong GTSXCN cả nước (chiếm 24,6%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,9% và có tỷ trọng so toàn ngành tiếp tục tăng (chiếm 36,7%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18% (trong đó Tcty dầu khí giảm 7,3%, các ngành khác tăng 23,1%) chiếm tỷ trọng 38,7% toàn ngành. Việc tăng trưởng cao ở khu vực ngoài quốc doanh ngoài các nguyên nhân về hiệu quả sản xuất kinh doanh và số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng thêm, còn do các doanh nghiệp nhà nước đang tiếp tục chuyển đổi sang mô hình cổ phần và tư nhân hoá.
Phân theo cấp quản lý, 11 tháng đầu năm khu vực công nghiệp trung ương tăng 13,4%, khu vực công nghiệp địa phương tăng 17,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18%.
Mười một tháng đầu năm các sản phẩm đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (17%) gồm: máy công cụ tăng 74,5%, động cơ điện tăng 26,2%, máy biến thế tăng 18,7%, ôtô các loại tăng 62,7%, xe máy tăng 26,8%, bia các loại tăng 19,4%, một số sản phẩm điện gia dụng cũng đạt mức tăng trên 20% (như máy giặt 24,7%, quạt điện 20,3%, điều hòa nhiệt độ 56,9%).
Một số sản phẩm có giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhưng tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành như: điện sản xuất tăng 12,3%, thép cán các loại tăng 10,2%, than sạch khai thác tăng 12,4%, khí đốt thiên nhiên tăng 4,1%, phân hóa học tăng 11,1%, tivi các loại tăng 9,4%, xi măng tăng 11,7%, gạch lát tăng 16,6%, gạch xây tăng 10,7%, đường mật tăng 13,5%, sữa đặc có đường tăng 13%, bột ngọt tăng 6,1%, vải lụa thành phẩm tăng 10,6%, sợi dệt vải 14,6%, thuốc lá bao tăng 9,5%, nước máy thương phẩm tăng 12,1%.
Một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: dầu thô khai thác đạt 91,5%, ga hóa lỏng đạt 89%.
Theo vùng lãnh thổ mười một tháng đầu năm các tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành (17%) gồm: Hà Nội tăng 19,9%, Hải phòng tăng 18,3%, Hà Tây tăng 24,9%, Vĩnh Phúc tăng 41,8%, Hải Dương tăng 17,3%, Thanh Hoá tăng 20,9%, Bình Dương tăng 24,6%, Đồng Nai tăng 22,4%, Cần Thơ tăng 17,3%.
Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp so với kế hoạch toàn ngành hoặc giảm so cùng kỳ gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,6%, Phú Thọ tăng 15,4%, Quảng ninh 15%, Đà Nẵng tăng 13,8%, Khánh Hoà tăng 12,5%, Bà Rịa – Vũng Tàu đạt 99,4% mức cùng kỳ.
- Về tình hình thị trường: hiện nay giá cả nguyên vật liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp vẫn ở mức cao và có chiều hướng tăng:
+ Giá dầu thô trong những ngày cuối tháng 11 đã lên trên 90 USD/thùng và dự báo có thể lên trên 100 USD/thùng vào mùa đông năm nay do nhu cầu tăng cao và những bất ổn về chính trị tại khu vực Trung đông. Giá xăng vừa được liên Bộ Tài chính – Công thương cho phép điều chỉnh tăng thêm 15% lên mức 13.000 đ/lít sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên chi phí vận tải hàng hóa, giá thành các sản phẩm và lên chỉ số giá tiêu dùng.
+ Giá vật tư, phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng tăng đáng kể làm ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
+ Giá phôi thép nhập khẩu trong tháng 11 tăng cao trên 600 USD/tấn (nguyên nhân chủ yếu là do phôi thép nhập khẩu từ Trung Quốc có giá tăng cao sau khi Chính phủ Trung Quốc áp thuế xuất khẩu phôi thép lên đến 10-15% và có thông tin thuế xuất khẩu phôi thép của Trung Quốc sẽ tăng lên 25%). Điều này đã ảnh hưởng đến giá thép xây dựng trong nước.
Trước tình hình đó Bộ Tài chính đã điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu phôi thép và một số chủng loại thép nhập khẩu, một số loại hoá chất, ôtô nhập khẩu... nhằm ổn định giá các mặt hàng trong nước và kiềm chế tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng.
+ Trong năm 2007, giá một số sản phẩm quan trọng là đầu vào của các ngành khác như điện, than đã được điều chỉnh tăng cũng là áp lực làm tăng giá một số sản phẩm công nghiệp.
- Về tốc độ tăng GTSXCN chung toàn ngành khá cao trong khi các sản phẩm công nghiệp chính được liệt kê có tốc độ tăng chưa tương xứng có thể được lý giải do nhiều sản phẩm có tốc độ tăng cao chưa được đưa vào danh mục thống kê sản phẩm theo tháng của Tổng cục thống kê như các sản phẩm cơ khí (khung nhà, khung kho), đóng tàu, điện tử (máy vi tính và linh kiện), sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, dây và cáp điện, hàng thủ công mỹ nghệ (được thể hiện qua tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt trên 20% so với cùng kỳ năm 2006).
2. Tình hình cụ thể các ngành:
- Mười một tháng đầu năm 2007 điện sản xuất và mua ước đạt 60,9 tỷ kwh tăng 12,3% so cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác đạt 12,7 triệu tấn giảm 8,5% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt 6 tỷ m3 tăng 4,1% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác đạt 37,3 triệu tấn tăng 12,4% so cùng kỳ, trong đó ước xuất khẩu 29 triệu tấn (chiếm 78% sản lượng than sạch khai thác).
- Thép cán các loại đạt 3,8 triệu tấn tăng 10,2% so cùng kỳ.
- Xi măng đạt 31 triệu tấn tăng 11,7% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính phân NPK) đạt 2,2 triệu tấn tăng 11,1% so cùng kỳ.
- Bia đạt 1,7 tỷ lít đạt mức tăng trưởng cao 19,4% do nhu cầu tăng cao và có năng lực tăng thêm hoàn thành đưa vào sản xuất một số dự án đầu tư mới.
- Vải lụa thành phẩm đạt 546 triệu m tăng 10,6%, sợi dệt vải đạt 3,5 triệu tấn tăng 14,6%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Mười một tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 43,6 tỷ USD tăng 20% so cùng kỳ, trong đó hàng công nghiệp khoảng 32,2 tỷ USD. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 13,8 triệu tấn giảm 9,4%; than đá đạt 29 triệu tấn tăng 10,8%; hàng dệt may đạt 7 tỷ USD tăng 32%; hàng giày dép đạt 3,5 tỷ USD tăng 9,5%; sản phẩm gỗ đạt 2,1 tỷ USD tăng 23,7%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt gần 2 tỷ USD tăng 24,7%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 559 triệu USD tăng 25,3%; dây và cáp điện đạt 797 triệu USD tăng 26,3%; sản phẩm nhựa đạt 640 triệu USD tăng 50%; xe đạp và phụ tùng đạt 71 triệu USD giảm 32%; thủy sản chế biến đạt 3,4 tỷ USD tăng 12%.
Riêng xe đạp xuất khẩu giảm do các đơn hàng xuất khẩu dự kiến đã không ký kết được với các đối tác nước ngoài.
b. Nhập khẩu:
Mười một tháng đầu năm kim ngạch nhập khẩu cả nước ước đạt 54 tỷ USD tăng 33% so cùng kỳ (mức nhập siêu đạt 10,4 tỷ USD bằng 19% kim ngạch nhập khẩu) chủ yếu là máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước và cho các dự án đầu tư lớn thuộc ngành công nghiệp như: nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy bột giấy Phương Nam, nhà máy bia Củ Chi và một số dự án điện. Đồng thời nhập khẩu nguyên liệu, vật tư tăng cao nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất trong nước tăng trưởng cao của các ngành cán thép, đóng tàu, cơ khí, lắp ráp ôtô, xe máy, giấy, lắp ráp điện tử, sản phẩm nhựa.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 11,3 triệu tấn tăng 12,1%; phân bón đạt 3,3 triệu tấn tăng 18% (trong đó phân urê 648 nghìn tấn giảm 8%); thép các loại 6,8 triệu tấn tăng 32,5% (trong đó phôi thép 1,9 triệu tấn tăng 5,4%); giấy các loại 753 nghìn tấn tăng 15,8%; bông các loại 200 nghìn tấn tăng 19,6%; sợi các loại 384 nghìn tấn tăng 23,3%; ôtô nguyên chiếc 22.186 cái tăng 96% (ôtô nhập khẩu nguyên chiếc tăng cao do Bộ Tài chính giảm thuế nhập khẩu xuống 60% tạo áp lực để các doanh nghiệp lắp ráp xe trong nước giảm giá xe lắp ráp); linh kiện ôtô 759 triệu USD tăng 73%; linh kiện xe máy 520 triệu USD tăng 22%; chất dẻo nguyên liệu 1,5 triệu tấn tăng 22%.