1. Tình hình chung:
Tháng 6 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 39.116 tỷ đồng tăng 17,8% so với cùng kỳ và tăng 2,5% so với tháng 5/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,4% so cùng kỳ.
Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 205.304 tỷ đồng tăng 15,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,7% (chiếm 32,4%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,7% (chiếm 30,7%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9% (chiếm 36,9%) (trong đó Tcty dầu khí giảm 11,4%, các ngành khác tăng 22,8%).
Sáu tháng đầu năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 23,1%; các sản phẩm chế biến là thuỷ sản chế biến tăng 18,8%, bột ngọt 18,1%; các sản phẩm hoá chất là phân hoá học tăng 55,3%, xút NaOH 34,2%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là thép cán 19,5%, sứ vệ sinh 27,7%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như máy công cụ tăng 39,3%, động cơ điện 21%, ôtô các loại tăng 41,7% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành gồm: điện sản xuất tăng 14,8%, xi măng tăng 15,3%, gạch xây 8,2%, gạch lát 8,6%, khí đốt thiên nhiên 10,8%, ga hoá lỏng 0,6%, sữa hộp 7,7%, bia 9,1%, thuốc lá bao 12,7%, xà phòng các loại 9,3%, thuốc viên các loại 14,7%, ắc quy 7%, thuốc trừ sâu 11,1%, giấy bìa các loại 8,9%, quần áo may sẵn 8,9%, quần áo dệt kim 1,6%, xe máy 15,9%, xe đạp hoàn chỉnh tăng 0,9%, quạt điện dân dụng tăng 10,8% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 87,8%, đường mật các loại 76,1%, thuốc ống đạt 94,6%, vải lụa thành phẩm 98,9%, động cơ diezen 76,5%, máy biến thế 93,3%, tivi các loại đạt 97,6% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ sáu tháng đầu năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hà Nội tăng 19,1% (chiếm tỷ trọng 7,6%), Hải phòng tăng 16,1%, Vĩnh Phúc tăng 44,6%, Hà Tây tăng 20,5%, Hải Dương tăng 21,9%, Quảng Ninh tăng 17,5%, Đà Nẵng tăng 19,4%, Khánh Hoà tăng 16,2%, Bình Dương tăng 34,4% (chiếm 8,4%), Đồng Nai tăng 20,8% (chiếm 8,3%), Cần Thơ tăng 31,6%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn vẫn tiếp tục đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 12,7% (chiếm tỷ trọng 25%), Phú Thọ tăng 14,1%, Thanh Hoá tăng 8,5%, Bà rịa – Vũng Tàu tăng 10,9%.
Một số nhận xét chung:
Tình hình 6 tháng đầu năm đã có tăng trưởng khá hơn so với quý I do một số sản phẩm chính đã có tăng trưởng khả quan như điện, phân bón, thép xây dựng, xi măng, xe máy trong khi các sản phẩm khác như than sạch, lắp ráp ôtô, vật liệu xây dựng, chế biến thuỷ sản, một số sản phẩm cơ khí tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao. Về tình hình các địa phương đã có thêm nhiều tỉnh thành phố đạt tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành như Vĩnh phúc, Hà Tây, Hải dương, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Khánh hoà trong khi một số tỉnh, thành phố như Hà nội, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ vẫn duy trì mức tăng trưởng cao.
Tuy nhiên tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2005 vẫn thấp hơn so với kế hoạch đề ra cho cả năm (16%) do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ (9,7% so với mức tăng 6 tháng năm 2004 là 11,9%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng thấp do khai thác dầu thô giảm 12,2% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí và sản xuất gas hoá lỏng cũng tăng thấp so cùng kỳ.
- Về các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 19/36 sản phẩm thống kê chính như điện, khí đốt thiên nhiên, bia, lắp ráp tivi,...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 7/36 sản phẩm như dầu thô, vải lụa thành phẩm...). Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may, da giầy, xe đạp và phụ tùng, thuỷ sản chế biến có mức tăng chậm hoặc giảm so cùng kỳ. Đặc biệt là hàng dệt may tăng thấp do vướng quota nhập khẩu vào thị trường Mỹ và khả năng cạnh tranh kém so với hàng Trung Quốc tại thị trường EU. Theo kiến nghị của các doanh nghiệp thì Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân bổ quota hàng dệt may để giúp các doanh nghiệp tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu.
- Theo vùng lãnh thổ: trong khi một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 11/15 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội, thì một số tỉnh và thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa-Vũng Tàu,... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước có mức tăng trưởng thấp (12,7%) đã ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng chung của cả nước.
- Trong các tháng đầu năm 2005 tình hình giá cả nguyên vật liệu có nhiều biến động, giá dầu thô tăng cao trên 50 USD/thùng và có lúc đạt gần 60 USD/thùng làm giá xăng dầu tăng lên tương ứng nên Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% để giảm ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới lên chi phí nhiên liệu trong nước và ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước do phải bù lỗ cho các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, giá phôi thép sau thời kỳ tăng cao trên 400 USD/tấn nay đã giảm xuống 330-340 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước đã giảm xuống còn 7,5-7,8 triệu đ/tấn.
- Trong 6 tháng cuối năm cần tích cực triển khai hoàn thành một số dự án lớn như xi măng Sông Gianh, Hải phòng mới, thép cán nguội Phú Mỹ, Nhà máy sản xuất phôi và cán thép Phú Mỹ, kẽm điện phân Thái nguyên, điện Cao ngạn,...Tiếp tục triển khai theo tiến độ các dự án lớn khác như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Khí - điện - đạm Cà Mau, thuỷ điện Sơn La, thuỷ điện Tuyên Quang, Tổ hợp đồng Sin Quyền,...
- Về tăng trưởng công nghiệp toàn ngành cả năm 2005 có thể đạt 15,5-16% (trong đó khu vực nhà nước tăng 10-11%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 22-25%, khu vực ĐTNN tăng 14-15%).
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Sáu tháng đầu năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt 25,2 tỷ kwh tăng 14,8% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 19,1 tỷ Kwh giảm 0,2%, điện mua ngoài chiếm 24% sản lượng toàn ngành và đạt trên 6 tỷ Kwh tăng 117,9% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia, ngoài ra một phần điện được mua từ Vân Nam (Trung Quốc) để cung cấp cho tỉnh Lào Cai.
Trong tháng 5/2005 do lượng nước ở các hồ thuỷ điện thấp, đặc biệt là hồ Hoà bình mức nước đã thấp hơn mực nước “chết” nên nhà máy thuỷ điện không phát huy được công suất, xảy ra tình trạng thiếu điện ở một số khu vực ở phía Bắc. Tổng công ty điện lực Việt Nam đã hoàn thành đấu nối mạch 2 đường dây 500 KV Đà Nẵng - Hà Tĩnh để tải điện từ miền Nam ra miền Bắc đồng thời tích cực mua điện của các doanh nghiệp ngoài EVN, Vân Nam (Trung Quốc) để bổ sung lượng điện bị thiếu. Hiện nay mực nước hồ đã trở lại bình thường và cung cấp ổn định cho hệ thống.
Cả năm điện sản xuất ước đạt kế hoạch đề ra là 51-52 tỷ Kwh tăng 12-12,5% so với thực hiện năm 2004.
- Dầu thô khai thác đạt 8,9 triệu tấn giảm 12,2% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt gần 3,4 tỷ m3 tăng 10,8% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 180 nghìn tấn tăng 0,6%. Nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ hiện có không thể tăng được sản lượng, trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng thấp.
Dầu thô khai thác cả năm ước đạt 18-18,5 triệu tấn bằng mức kế hoạch và giảm 8% so với thực hiện năm 2004.
- Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt gần 15,7 triệu tấn tăng 23,1% cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 14,9 triệu tấn tăng 22,5% với cùng kỳ do có thị trường xuất khẩu tốt. Cả năm than sạch khai thác ước đạt 30-31 triệu tấn cao hơn mức kế hoạch đề ra và tăng 18% so với thực hiện năm 2004.
- Vào thời điểm giữa năm các công trình xây dựng bắt đầu đẩy nhanh tiến độ nên các sản phẩm vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao như:
+ Thép cán đạt 1,68 triệu tấn tăng 19,5% cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 564 ngàn tấn tăng 12,3%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 657 nghìn tấn tăng 37,4%, khu vực ĐTNN đạt 462 nghìn tấn tăng 7,9% so cùng kỳ. Cả năm thép cán ước đạt 3,3-3,4 triệu tấn bằng mức kế hoạch đề ra và tăng 17% so với thực hiện năm 2004.
+ Xi măng đạt 13,7 triệu tấn tăng 15,3% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất đạt 8,9 triệu tấn tăng 12,4%, khu vực ĐTNN đạt 4 triệu tấn tăng 16%. Cả năm xi măng sản xuất ước đạt 27,5-29 triệu tấn thấp hơn mức kế hoạch dự kiến và tăng 14-15% so với thực hiện năm 2004.
- Giấy các loại đạt 412 nghìn tấn tăng 8,9%, trong đó 2 khu vực chiếm tỷ trọng cao là quốc doanh đạt 138 nghìn tấn tăng 10,7%, ngoài quốc doanh đạt 260 nghìn tấn tăng 7,1%. Cả năm giấy sản xuất các loại ước đạt 830-850 nghìn tấn đạt mức kế hoạch đề ra và tăng 8-9% so với thực hiện năm 2004.
- Vải lụa thành phẩm đạt 215,6 triệu m giảm 1% so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 449,5 triệu cái tăng 8,9%, quần áo dệt kim đạt 62,4 triệu cái tăng 1,6%. Hàng dệt may tiếp tục gặp khó khăn trong xuất khẩu nên có tốc độ tăng trưởng chậm.
- Phân hoá học đạt 1,1 triệu tấn (chưa tính phân NPK) tăng 55,3% do có nhà máy đạm Phú Mỹ đi vào sản xuất cung cấp phân urê cho thị trường trong nước. Cả năm phân các loại dự kiến đạt: 1,4 triệu tấn phân lân tăng 10%, 850 nghìn tấn phân urê tăng 87%, 2,1 triệu tấn phân NPK tăng 13,5% so với thực hiện năm 2004.