1. Tình hình chung.
Tháng 6 năm 2008 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 56.771 tỷ đồng tăng 3,4% so với tháng 5 và tăng 17,1% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 22,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 4,1%, các ngành khác tăng 21,1%).
Sáu tháng đầu năm 2008 GTSXCN ước đạt 326.641 tỷ đồng tăng 16,5% chưa đạt mức kế hoạch đề ra cho cả năm 2008 (17,3-18%), tuy nhiên mức tăng trưởng này là đạt so với mức kế hoạch tăng trưởng toàn ngành điều chỉnh (16,3-16,6%), trong đó khu vực quốc doanh tăng 6,9% và có tỷ trọng tiếp tục giảm trong GTSXCN cả nước (chiếm 22,6%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 22,3% và có tỷ trọng so toàn ngành tiếp tục tăng chiếm 35,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,4% (trong đó Tcty dầu khí giảm 7,9%, các ngành khác tăng 20,1%) chiếm tỷ trọng 41,7% toàn ngành. Nguyên nhân tăng trưởng cao ở khu vực ngoài quốc doanh ngoài các nguyên nhân về hiệu quả sản xuất kinh doanh và số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng thêm, còn do các doanh nghiệp nhà nước đang tiếp tục chuyển đổi sang mô hình cổ phần và tư nhân hoá.
Sáu tháng đầu năm, tính theo phân ngành công nghiệp cấp I: công nghiệp khai thác đạt GTXSCN 17.050 tỷ đồng giảm 4,2% so cùng kỳ, công nghiệp chế biến đạt 291.700 tỷ đồng tăng 18,1%, công nghiệp điện, ga, nước đạt 17.891 tỷ đồng tăng 14%.
Sáu tháng đầu năm các sản phẩm đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành điều chỉnh (16,3%) gồm: Thuỷ hải sản chế biến tăng 21,2%; dầu thực vật tinh luyện tăng 23,1%; sữa bột tăng 23,3%; quần áo mặc thường cho người lớn tăng 21,4%; lốp ô tô, máy kéo các loại tăng 33,6%; gạch lát ceramic tăng 16,7%; điều hoà nhiệt độ tăng 17,7%; giày thể thao tăng 16,9%; tủ lạnh, tủ đá tăng 26,9%; máy giặt tăng 52%; bình đun nước nóng tăng 16,3%; biến thế điện tăng 20,9%; tivi các loại tăng 34%; xe chở khách tăng 89,6%; xe tải tăng 103,4% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm có giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhưng tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành như: than đá tăng 8%; đường kính tăng 5,5%; bia các loại tăng 13%; vải dệt từ sợi bông tăng 8,9%; phân hoá học tăng 3,9%; sơn hoá học các loại tăng 5,9%; xà phòng giặt các loại tăng 13,9%; gạch xây bằng đất nung tăng các loại tăng 13,9%; xi măng tăng 13,2%; thép tròn các loại tăng 6,7%; que hàn tăng 0,8%; xe máy tăng 9,6%; điện sản xuất tăng 15,5%; nước máy thương phẩm tăng 11,7% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: dầu mỏ thô khai thác đạt 92,1%; khí đốt thiên nhiên dạng khí đạt 95,3%; khí hoá lỏng (LPG) đạt 83,8%; nước mắm các loại đạt 64,1%; thuốc lá điếu đạt 99%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo đạt 95,9%; giày, dép, ủng bằng da giả cho người lớn đạt 60,4%; lốp ô tô, máy kéo các loại đạt 97,7%; săm các loại đạt 99,2%; kính thuỷ tinh đạt 94,7%.
Theo vùng lãnh thổ sáu tháng đầu năm các tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành điều chỉnh (16,3%) gồm: Hải phòng tăng 18,2%, Vĩnh Phúc tăng 32,6%, Hà Tây tăng 24,6%, Hải Dương tăng 28,1%, Phú Thọ tăng 17,7%, Bình Dương tăng 24,9%, Đồng Nai tăng 20,7%, Cần Thơ tăng 16,9%.
Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp so với kế hoạch toàn ngành hoặc giảm so cùng kỳ gồm: Tp. Hà Nội tăng 15,7%, Quảng Ninh tăng 13,7%, Thanh Hoá tăng 13,6%, Đà Nẵng tăng 15%, Khánh Hoà tăng 12,5%, Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,3%, Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 3,1%.
- Về tình hình thị trường: hiện nay giá cả nguyên vật liệu có chiều hướng tăng:
+ Giá dầu thô thường xuyên dao động và hiện ở mức gần 140USD/thùng có lợi cho kim ngạch xuất khẩu dầu thô, nhưng đồng thời ảnh hưởng về giá các mặt hàng nhập khẩu xăng dầu cho tiêu dùng trong nước cũng tăng theo (hiện tại giá xăng 92 đã ở mức 14.500 đ/lít) gây ảnh hương tiêu cực đến sản xuất và vận tải.
+ Nguyên vật liệu trong xây dựng như thép, xi măng... tăng đồng loạt làm ảnh hưởng xấu đến xây dựng cơ bản của các dự án.
+ Lãi suất tiền gửi tăng mạnh trong thời gian gần đây dẫn đến lãi suất vay cho doanh nghiệp tăng, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trong cả nước.
+ Trong năm 2008, giá một số sản phẩm quan trọng là đầu vào của các ngành khác như điện, than đã được điều chỉnh tăng và có thể sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp trong thời gian tới.
2. Tình hình cụ thể các ngành.
- Sáu tháng đầu năm 2008 điện sản xuất ước đạt 35,9 tỷ kwh tăng 15,5% so cùng kỳ. Hiện nay lũ đã bắt đầu về nên các hồ thủy điện tiếp tục tích nước, đồng thời một số nhà máy nhiệt điện chạy khí và than đã khắc phục sự cố và đi vào sản xuất nên tình hình thiếu điện giảm. Tuy nhiên, trong thời gian tới cần tiếp tục áp dụng các biện pháp tiết kiệm điện để giảm áp lực cho hệ thống.
- Dầu thô khai thác đạt gần 7,2 triệu tấn giảm 7,9% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt gần 3,6 tỷ m3 giảm 4,7% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác đạt trên 22,4 triệu tấn tăng 8% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại đạt 1,9 triệu tấn tăng 6,7% so cùng kỳ.
- Xi măng đạt 17,9 triệu tấn tăng 13,2% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính phân NPK) đạt gần 1,2 triệu tấn tăng 3,9% so cùng kỳ.
- Bia đạt 829 triệu lít đạt mức tăng trưởng 13% so cùng kỳ.
- Vải dệt từ sợi bông đạt 129 triệu m2 tăng 8,9% so cùng kỳ.
3. Về xuất nhập khẩu.
a. Xuất khẩu
Sáu tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 29,7 tỷ USD tăng 31,8% so cùng kỳ. Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 6,7 triệu tấn giảm 12,1%; than đá đạt 13,8 triệu tấn giảm 14,9%; hàng dệt may đạt 4 tỷ USD tăng 17,7%; hàng giày dép đạt 2,2 tỷ USD tăng 16,9%; sản phẩm gỗ đạt 1,3 triệu USD tăng 20,4%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 1,2 tỷ USD tăng 32,4%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 419 triệu USD tăng 35,2%; dây và cáp điện đạt 502 triệu USD tăng 17,3%; sản phẩm nhựa đạt 435 triệu USD tăng 38,4%; xe đạp và phụ tùng đạt 45 triệu USD tăng 1,6%; thủy sản chế biến đạt 1,9 tỷ USD tăng 14%; gạo đạt 2,5 triệu tấn tăng 5,8%; cà phê đạt 571 nghìn tấn giảm 31,6%; cao su đạt 228 nghìn tấn giảm 20%; hàng rau quả đạt 186 triệu USD tăng 18,5%; hạt điều đạt 374 triệu USD tăng 43,1%; hạt tiêu đạt 170 triệu USD tăng 30,8%; chè các loại đạt 46 nghìn tấn giảm 4,2% so cùng kỳ.
b. Nhập khẩu
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong sáu tháng đầu năm 2008 ước đạt 44,5 tỷ USD tăng 60,3% so cùng kỳ chủ yếu là nguyên liệu và máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước, và đặc biệt là do việc nhập khẩu ô tô nguyên chiếc các loại và linh kiện ô tô tăng đột biến trong thời gian này.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: ôtô nguyên chiếc đạt gần 42 nghìn chiếc tăng 413,9%; linh kiện ôtô đạt 856 triệu USD tăng 179,7%; linh kiện xe máy đạt 312 triệu USD tăng 11,4%; xăng dầu các loại đạt 6,8 triệu tấn tăng 4,3%; phân bón đạt 2,1 triệu tấn tăng 17,8% (trong đó phân urê đạt 553 nghìn tấn tăng 76,1%); thép các loại đạt 6 triệu tấn tăng 68% (trong đó phôi thép 1,8 triệu tấn tăng 85%); giấy các loại đạt 509 nghìn tấn tăng 29,5%; bông các loại đạt 147 nghìn tấn tăng 33,6%; sợi các loại đạt 212 nghìn tấn tăng 3,9%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 6,9 tỷ USD tăng 45,5%; tân dược đạt 383 triệu USD tăng 17,7%; hóa chất các loại đạt 930 triệu USD tăng 40,9%; chất dẻo nguyên liệu đạt 918 nghìn tấn tăng 20,3%; vải các loại đạt 2,3 tỷ USD tăng 20,4%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,2 tỷ USD tăng 16,2%; máy tính và linh kiện điện tử đạt 1,8 tỷ USD tăng 43% so cùng kỳ.
Nguyên nhân nhập khẩu nguyên liệu, vật tư tăng cao nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất trong nước tăng trưởng cao của các ngành cán thép, lắp ráp ôtô, xe máy, giấy, lắp ráp điện tử, sản phẩm nhựa.
Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư