1. Tình hình chung:
Tháng 9 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 62.559 tỷ đồng tăng 2,9% so với tháng 8/2009 và tăng 12,5% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8,5%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 13,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí tăng 15%, các ngành khác tăng 13,8%).
Tính chung chín tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 505.972 tỷ đồng tăng 6,5% so với cùng kỳ (thấp hơn nhiều so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,1%, chiếm trọng 24% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 8,4% chiếm tỷ trọng 35,3% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7% (trong đó dầu khí tăng 13,1%, các ngành khác tăng 6,1%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 4,8%, công nghiệp địa phương tăng 6,9%. Phân theo ngành kinh tế cấp I: công nghiệp khai thác tăng 9,8%, công nghiệp chế biến tăng 6,1%, công nghiệp điện, nước, ga tăng 10,3%.[1]
Về giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá thực tế 9 tháng đầu năm ước đạt 257.461 tỷ đồng tăng 18,5% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12,1%, khu vực ngoài nhà nước tăng 21%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 11,7%.
Chín tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: than sạch tăng 4,2%, dầu thô khai thác tăng 17,6%, khí đốt thiên nhiên tăng 2,1%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,2%, thuốc lá điếu tăng 13,5%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 16,8%, xà phòng giặt tăng 21,3%, lốp ô tô, máy kéo tăng 1,7%, xi măng tăng 18,3%, gạch xây bằng đất nung tăng 3,7%, thép tròn các loại tăng 18,8%, điều hoà nhiệt độ tăng 48,2%, máy giặt tăng 0,8%, tủ lạnh, tủ đá tăng 30,9%, xe máy tăng 6,2%, điện sản xuất tăng 11,3%, nước máy thương phẩm tăng 9,7% so cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có khí hóa lỏng (LPG) đạt 98,2%, thuỷ hải sản chế biến đạt 94,4%, sữa bột đạt 83,2%, đường kính đạt 78,8%, bia đạt 99,3%, vải dệt từ sợi bông đạt 83,7%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 82,9%, giày thể thao đạt 96,6%, giấy, bìa các loại đạt 86,2%, phân hóa học đạt 94,3%, sơn hoá học đạt 99,6%, kính thuỷ tinh đạt 92,9%, gạch lát ceramic đạt 93,3%, bình đun nước nóng đạt 83,4%, tivi đạt 94,6%, ô tô đạt 93,3% trong đó xe tải đạt 96,9%, xe chở khách đạt 90,3% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ chín tháng đầu năm 2009 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá gồm: Tp. Hà Nội tăng 7,7%; Hải Phòng tăng 6,5%; Hải Dương tăng 1,7%; Quảng Ninh tăng 13,3%; Thanh Hóa tăng 11,3%; Đà Nẵng tăng 4,3%; Khánh Hoà tăng 8,4%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 6,4%; Bình Dương tăng 7,9%; Đồng Nai tăng 8,1%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 10,9%; Cần Thơ tăng 9,3%. Một số tỉnh, thành phố giảm so cùng kỳ gồm: Vĩnh Phúc đạt 93,8%; Phú Thọ đạt 99,2% so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Chín tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 6,5% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp; trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng cao, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng khá để đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt mức tăng trưởng thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
Phân tích chỉ số tồn kho các ngành công nghiệp chế biến cho thấy một số ngành có mức tồn kho cao so với ngày 01/8/2009 như: ngành xay xát, sản xuất bột thô tăng 71,4%, sản xuất phân bón và hợp chất nitơ tăng 14,8%, sản xuất gốm sứ không chịu lửa tăng 28,6%, sản xuất ximăng, vôi, vữa tăng 18,7%, sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,5%, còn lại hầu hết các mặt hàng công nghiệp chế biến khác có mức tăng tồn kho không cao, hoặc giảm so với tháng trước cho thấy dấu hiệu nhu cầu tiêu thụ đã tăng cao vào thời điểm hiện nay.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: hiện nay giá dầu thô tiếp tục dao động ở mức 60-70 USD/thùng cao so với các tháng đầu năm tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước (trong tháng 9/2009 xăng A92 tiếp tục điều chỉnh lên 15.700 đ/lít) ảnh hưởng đến việc tăng chi phí vận tải và giá thành các mặt hàng sản xuất trong nước (theo phân tích về cơ cấu giá xăng, dầu trong nước thì các khoản thuế và phí xăng dầu chiếm đến 40% trong giá bán xăng dầu, vì vậy các doanh nghiệp kiến nghị Bộ Tài chính xem xét lại các mức thuế và phí phù hợp hơn để có thể giảm giá xăng dầu trong nước), giá sắt thép và ximăng vẫn giữ ở mức ổn định.
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước chín tháng đầu năm 2009 ước đạt 41,7 tỷ USD giảm 14,3% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 16,7 tỷ USD giảm 6,3% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 10,9 triệu tấn tăng 8,6%; than đá đạt 17,6 triệu tấn tăng 2,4%; hàng dệt may đạt6,7 tỷ USD giảm 1%; hàng giày dép đạt 2,95 tỷ USD giảm 13,7%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 1,9 tỷ USD bằng cùng kỳ; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 544 triệu USD giảm 8,9%; dây và cáp điện đạt 564 triệu USD giảm 26,5%; sản phẩm nhựa đạt 604 triệu USD giảm 10,4%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 1,37 tỷ USD bằng mức cùng kỳ; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,65 tỷ USD tăng gần 4 lần.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước chín tháng đầu năm 2009 ước đạt 48,2 tỷ USD giảm 25,3% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt 17,3 tỷ USD giảm 19% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm nhập siêu ước đạt 6,542 tỷ USD chiếm 15,7% kim ngạch xuất khẩu.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 9,7 triệu tấn giảm 4,5%; phân bón đạt 3,2 triệu tấn (trong đó phân urê 1 triệu tấn) tăng 21%; thép các loại đạt 7,3 triệu tấn (trong đó phôi thép 1,9 triệu tấn) tăng 1%; bông các loại đạt 221 nghìn tấn tăng 0,45%; sợi các loại đạt 362 nghìn tấn tăng 15,6%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,37 tỷ USD giảm 24%; ôtô nguyên chiếc đạt 46,9 nghìn chiếc tăng 3,5%; linh kiện, phụ tùng ôtô đạt 1 tỷ USD giảm 28%; xe máy nguyên chiếc đạt 84,6 nghìn chiếc giảm 19%; linh kiện xe máy đạt 402 triệu USD giảm 12,3%; chất dẻo nguyên liệu đạt 1,64 triệu tấn tăng 25%; giấy các loại đạt 741 nghìn tấn giảm 5%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 8,3 tỷ USD giảm 15,4% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong chín tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên, nhiên liệu sản xuất (xăng dầu, hoá chất, giấy các loại, linh kiện phụ tùng ôtô, xe máy), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (sản phẩm hoá chất, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước. Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất có dấu hiệu tăng như nhập khẩu sợi, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, bông các loại, phân bón các loại, cao su,... cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 9/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,39 triệu tấn tăng 4,3% so với tháng 8/2009 và tăng 21,3% so với cùng kỳ (nguyên nhân tăng trưởng cao do một số mỏ mới đi vào khai thác trong năm 2009 như mỏ 09.2, mỏ 46.2), lũy kế chín tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 12,8 triệu tấn tăng 17,6% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất chín tháng đầu năm ước đạt 31,9 triệu tấn tăng 4,2% so với cùng kỳ.
- Điện sản xuất chín tháng đầu năm đạt 59,2 tỷ kwh tăng 11,3% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp so với các năm trước (thường ở mức 12-15%) chủ yếu do nhu cầu không tăng nhiều vì ảnh hưởng của việc cắt giảm sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện như: luyện thép, hóa chất, dệt may, cơ khí.
- Phân hóa học chín tháng đầu năm sản xuất ước đạt 1,77 triệu tấn giảm 6% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại chín tháng đầu năm sản xuất đạt 3,4 triệu tấn tăng 18,8% so cùng kỳ.
- Xi măng sản xuất trong nước tăng khá, chín tháng đầu năm ước đạt 35,8 triệu tấn tăng 18,3% so cùng kỳ.
4. Về ước thực hiện cả năm 2009:
Trên cơ sở thực hiện sản xuất, kinh doanh 9 tháng đầu năm ngành công nghiệp, dự kiến kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi trong các tháng cuối năm và chính sách kích cầu của Chính phủ tiếp tục tạo đà tăng trưởng, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm những tháng cuối năm 2009, dự kiến giá trị sản xuất ngành công nghiệp cả năm có thể đạt 693.795 tỷ đồng tăng 7,2% so với năm 2008 (cao hơn 0,7% so với số dự kiến vào tháng 6/2009), trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 3,8%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,3%.
Tính theo ngành kinh tế cấp I: giá trị sản xuất công nghiệp khai thác dự kiến tăng 8,8%, công nghiệp chế biến tăng 6,9%, công nghiệp điện, ga, nước tăng 10,8%.
Về giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá thực tế ước cả năm 2009 đạt 417.550 tỷ đồng tăng 20,5% so với năm 2008, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 16%, khu vực ngoài nhà nước tăng 22,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,5%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu so với thực hiện năm 2008 như: than sạch đạt 41,2 triệu tấn tăng 3,6%, dầu thô đạt 16 triệu tấn tăng 7,4% (theo ước tính của Vụ KTCN trường hợp duy trì mức khai thác như hiện nay lượng dầu thô khai thác cả năm có thể đạt 16,8-17 triệu tấn tăng 12,7-14% so với năm 2008), khí thiên nhiên dạng khí đạt 8,05 tỷ m3 tăng 1,3%, phân hóa học đạt 2,5 triệu tấn giảm 1%, xi măng đạt 47,8 triệu tấn tăng 19,4%, thép tròn các loại đạt 4,6 triệu tấn tăng 19%, điện sản xuất đạt 79,3 tỷ kwh tăng 10%.
[1] Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IIP (căn cứ vào tổng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và sử dụng quyền số là tỷ trọng giá trị tăng thêm trong công nghiệp để so sánh) thì toàn ngành công nghiệp 9 tháng tăng 6,2% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 11,8% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 30,7%; công nghiệp chế biến tăng 3,6% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 60,2%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 7,9% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 9,1%.
File đính kèm: CongnghiepT9.09.pdf
Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư