Trong tháng 11/2021, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hậu Giang tiếp tục được phục hồi, mặc dù tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp trở lại, nhưng Tỉnh đã triển khai các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu tác động của dịch Covid-19, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, sớm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Nhờ vậy, các chỉ tiêu kinh tế của Tỉnh đa số đều tăng so với tháng trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,74%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,17%; doanh thu vận tải tăng 25,99%. Kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tình hình sản xuất nông nghiệp trong tháng của tỉnh tập trung vào chăm sóc, thu hoạch lúa vụ Thu Đông, rau màu và các loại cây trồng khác. Chăn nuôi phát triển tương đối ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Sản xuất lâm nghiệp thuận lợi khi đã xuất hiện mưa trên diện rộng, thích hợp cho việc trồng rừng và hoạt động khai thác gỗ cũng bắt đầu tăng trở lại. Thủy sản còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giá thức ăn tăng cao dẫn đến chi phí sản xuất tăng, tình hình xuất khẩu thủy sản chưa có nhiều chuyển biến tích cực, thị trường tiêu thụ giảm mạnh, làm ngưng trệ chuỗi cung ứng thực phẩm phục vụ cho xuất khẩu cũng như tiêu thụ nội địa.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Lúa Thu Đông: Xuống giống được 35.363 ha, bằng 96,36% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch 36.700 ha), giảm 17,91% (bằng 7.713 ha). Đã thu hoạch được 29.943 ha. Diện tích còn lại đang ở giai đoạn làm đòng đến trổ chín. Năng suất sơ bộ đạt 54,71 tạ/ha, tăng 3,27% (bằng 1,73 tạ/ha). Sản lượng thu hoạch ước đạt 163.832 tấn, giảm 17,99% (bằng 35.931 tấn), nguyên nhân do diện tích giảm mạnh so với cùng kỳ. Các giống sử dụng chủ yếu trong vụ là OM5451 chiếm 47,04%, giống OM18 chiếm 47,51%, Đài thơm 8 chiếm 2,88%, IR50404 chiếm 1,67%, VNR20 chiếm 0,34%, giống khác chiếm 0,56% (gồm các giống như OM6976, OM4900, OM7347, VND95-20).
Mía niên vụ 2020 - 2021: Xuống giống được 5.040 ha, giảm 14,7% (bằng 869 ha) so với cùng kỳ, tập trung nhiều ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Các giống sử dụng chủ yếu như: Roc16, K88-92, KK3, Roc22,... Hiện đã thu hoạch được 1.481 ha, ước năng suất trung bình đạt 100 tấn/ha, giá bán từ 1.200-1.600 đồng/kg (bán mía ép lấy nước). Diện tích còn lại được 10-11 tháng tuổi, sinh trưởng và phát triển tốt.
Diện tích gieo trồng ngô 11 tháng được 2.930,4 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 1,27% (bằng 37,6 ha). Diện tích thu hoạch được 2.085 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 2,21% (bằng 45 ha). Sản lượng thu hoạch được 12.780 tấn, tăng 4,02% (bằng 494 tấn).
Diện tích gieo trồng cây rau, đậu các loại được 22.788 ha, so với năm trước tăng 5,94% (bằng 1.277 ha). Diện tích thu hoạch được 22.364 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 7,41% (bằng 1.543 ha). Sản lượng thu hoạch được 239.014 tấn, tăng 4,39% (bằng 10.056 tấn).
Diện tích và sản lượng thu hoạch một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu 11 tháng năm 2021 so với cùng kỳ như sau:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 2.908,25 ha, tăng 6,66% (bằng 181,62 ha). Sản lượng được 32.672 tấn, tăng 25,83% (bằng 6.707,36 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.646,19 ha, tăng 3,18% (bằng 50,69 ha). Sản lượng được 16.503 tấn, tăng 71,08% (bằng 6.856,47 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây mít: Diện tích hiện có 8.421 ha, tăng 20,89% (bằng 1.455,29 ha), diện tích tăng chủ yếu ở các huyện như: Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Sản lượng được 72.105 tấn, tăng 46,6% (bằng 22.919,5 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.738,55 ha, tăng 15,21% (bằng 361,55 ha). Sản lượng được 25.634,07 tấn, tăng 35,24% (bằng 6.679,57 tấn) so với cùng kỳ.
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 690,22 ha, giảm 2,76% (bằng 19,56 ha). Sản lượng được 7.032 tấn, tăng 152,68% (bằng 4.249 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện.
Hiện tại ngành Nông nghiệp tiếp tục theo dõi tình hình sản xuất và thu hoạch vụ lúa Thu Đông 2021 đối với các huyện còn lại chưa thu hoạch, tăng cường theo dõi tình hình thiên tai, mưa bão để có biện pháp ứng phó kịp thời nhằm bảo vệ và sản xuất vụ lúa Thu Đông đạt hiệu quả cao. Theo dõi tình hình xuống giống vụ lúa Đông Xuân 2021-2022, khả năng đỉnh lũ năm 2021 thấp nên vận động nông dân cày vùi rơm rạ, vệ sinh đồng ruộng sớm ngay sau khi thu hoạch vụ lúa Thu Đông 2021, sử dụng các chế phẩm vi sinh như Trichoderma, để phân hủy rơm rạ nhằm hạn chế xảy ra ngộ độc hữu cơ. Trong điều kiện giá phân bón tăng cao, vì vậy phải tiếp tục tuyên truyền, khuyến cáo người dân áp dụng các giải pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến trong sản xuất, sử dụng vật tư phù hợp như tăng cường sử dụng phân hữu cơ nhằm làm giảm chi phí giá thành sản xuất trên lúa và các loại cây trồng khác. Thúc đẩy sản xuất theo chuỗi sản phẩm, xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm, phối hợp các đơn vị tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh quảng bá trực tuyến thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nông sản tại địa phương trong điều kiện dịch Covid-19.
1.1.2. Chăn nuôi
Hiện nay, tình hình chăn nuôi ổn định và thuận lợi, nên quy mô đàn gia súc, gia cầm được hộ dân phát triển tiếp tục tái đàn. Ước tính đến tháng 11/2021, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.399 con, giảm 3,65% (bằng 53 con) so với cùng kỳ. Đàn bò ước được 3.538 con, giảm 3,81% (bằng 140 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 137.675 con, tăng 14,3% (bằng 17.222 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt được 95.472 con, tăng 8,94% (bằng 7.835 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tương đối tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ bắt đầu tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi.
- Đàn gia cầm ước được 4.215,56 ngàn con, giảm 7,4% (bằng 336,87 ngàn con). Trong đó: Đàn gà được 1.765,48 ngàn con, tăng 0,2% (bằng 3,54 ngàn con). Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay giảm nhẹ, do những hộ đang nuôi gia cầm hiện nay đã chuyển lại nuôi heo như trước khi chưa xảy ra dịch tả lợn Châu Phi.
1.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.
Tính từ đầu năm đến nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước được 426,93 ha, tăng 2,33% (bằng 9,71 ha) so với cùng kỳ. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 1.557 nghìn cây, so với cùng kỳ tăng 4,01% (bằng 60 nghìn cây). Sản lượng gỗ khai thác ước được 14.281 m3, tăng 1,42% (bằng 200 m3) và sản lượng củi khai thác ước được 68.226 ste, tăng 0,15% (bằng 100 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Đến nay, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước được 8.038,12 ha, đạt 99,24% so kế hoạch (kế hoạch 8.100 ha) và tăng 1,74% (bằng 137,41 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tập trung tăng chủ yếu ở diện tích nuôi các loại cá ruộng và cá khác nuôi ao mương vườn, mô hình nuôi tôm luân canh trên ruộng lúa. Cụ thể, diện tích nuôi cá 7.864,27 ha, tăng 131,31 ha; diện tích nuôi tôm đạt 95,43 ha, tăng 6,7 ha (tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ). Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 88,65 ha, tăng 1,51% so cùng kỳ, thể tích nuôi lươn được 21.885,13 m3, tăng 5,98% so cùng kỳ.
Tổng sản lượng thủy sản 11 tháng năm 2021 được 65.736,79 tấn, đạt 82,17% so kế hoạch (kế hoạch 80.000 tấn), tăng 4,61% (bằng 2.897,82 tấn) so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, giá thức ăn tăng, chi phí sản xuất tăng cao, công tác vận chuyển và tiêu thụ chưa thuận lợi, hiện đang vào thời điểm thu hoạch nhưng người nuôi vẫn chưa thu hoạch hết các diện tích hiện có, giá bán cũng chưa cao nên người nuôi đang chờ giá cao để bán, do đó diện tích và sản lượng thu hoạch cũng bị ảnh hưởng không đạt cao so với kế hoạch. Trong đó:
- Sản lượng thủy sản khai thác được 2.422,45 tấn, tăng 1,12% (bằng 26,77 tấn) so cùng kỳ.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng được 63.314,34 tấn, tăng 4,75% (bằng 2.871,05 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 5.963,20 tấn, tăng 1,59 % so cùng kỳ, sản lượng lươn thu hoạch được 666,89 tấn, tăng cao so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định và đây là hai sản phẩm chủ lực của tỉnh.
2. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tháng 11/2021 có dấu hiệu phục hồi trở lại, mặc dù tình hình dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, nhưng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng đã nhanh chóng chuyển hướng đi mới, thực hiện nhiều giải pháp để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh như: Đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử; chuyển đổi sản phẩm, dịch vụ chủ lực; tích cực giữ ổn định thị trường truyền thống và tìm kiếm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ đầu ra.
Ước thực hiện tháng 11/2021, giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010 được 2.678,19 tỷ đồng, tăng 4,30% so với tháng trước và tăng 11,98% so với cùng kỳ năm trước. Tính theo giá thực tế được 4.122,78 tỷ đồng, tăng 8,19% so với tháng trước và tăng 14,05% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát tốt, tỉnh cũng đã thực hiện nhiều biện pháp nới lỏng, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng đã hoạt động trở lại trong giữa cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10/2021 đến nay, doanh nghiệp cũng chủ động tăng sản lượng sản xuất, để kịp thời hoàn thành các hợp đồng còn tồn động do bị ảnh hưởng dịch trước đó. Vì vậy, ước tháng 11/2021 tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 11 tháng năm 2021, giá trị sản xuất công nghiệp:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 25.584,02 tỷ đồng, tăng 5,60% so với cùng kỳ năm trước và đạt 80,68% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá thực tế, được 37.849,77 tỷ đồng, tăng 8,82% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:
+ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chủ lực của tỉnh trong những năm vừa qua, giá trị sản xuất được 37.321,21 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 98,60% trong toàn ngành.
+ Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí được 326,43 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,86% trong toàn ngành.
+ Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải được 202,13 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,54% trong toàn ngành.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 11 tháng năm 2021 so với cùng kỳ:
- Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 30.372 tấn, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước và tạo ra giá trị sản xuất (theo giá thực tế) được 7.971,67 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 51,71% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và 21,06% trong toàn ngành.
- Sản lượng sản xuất gạo xay xát, được 335.644 tấn, tăng 68,96% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất được 1.180,89 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm tỷ trọng 7,66% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và 3,12% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty CP chế biến xuất khẩu gạo Quang Phát Hậu Giang, đã đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động ổn định từ đầu năm đến nay với sản lượng gạo xay xát thành phẩm bình quân trên 10.000 tấn/tháng, nên đã làm tăng đột biến ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 249.027 tấn, tăng 18,15% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất được 2.408,08 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm tỷ trọng 15,62% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và 6,36% trong toàn ngành. Nguyên nhân là Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang,… sử dụng lao động không nhiều (dưới 300 lao động) và thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống dịch nên duy trì được sản lượng sản xuất ổn định trong thời gian thực hiện Chỉ thị 16 (trong quý III/2021) và tăng sản lượng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của người chăn nuôi trong và ngoài tỉnh. Vì vậy, sản lượng sản xuất ngành này tăng ổn định trong 11 tháng năm 2021 so với cùng kỳ.
- Sản lượng sản xuất bia đóng chai được 88,43 triệu lít, tăng 112,39%, tạo ra giá trị sản xuất được 626,64 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm tỷ trọng 19,71% trong ngành sản xuất đồ uống và 1,65% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do Công ty TNHH MTV Masan Brewery Hậu Giang với sản phẩm chính là bia các loại, sau thời gian trên 2 năm đi vào hoạt động, doanh nghiệp đã tạo dựng được thương hiệu trong vùng, thị phần không ngừng mở rộng nên doanh nghiệp tăng sản lượng liên tục trong những tháng gần đây.
- Sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 137,79 triệu lít, tăng 17,42%, tạo ra giá trị sản xuất được 2.188,17 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm tỷ trọng 68,83% trong ngành sản xuất đồ uống và 5,78% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng là do Công ty TNHH MTV Masan Hậu Giang, đã đầu tư hoàn thành dây chuyền sản xuất nước uống tăng lực vị cà phê Wake up 247 từ đầu năm đến nay, với sản lượng sản xuất trên 5 triệu lít/tháng, nên đã làm tăng giá trị sản xuất ngành này nói riêng và giá trị sản xuất của toàn tỉnh nói chung.
- Sản lượng sản xuất giày, dép thành phẩm được 11.938 tấn, giảm 20,75% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất được 2.828,95 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm tỷ trọng 91,78% trong ngành sản xuất da giày và 7,47% trong toàn ngành. Nguyên nhân giảm so với cùng kỳ là do ảnh hưởng dịch Covid-19, nên các doanh nghiệp trong ngành này áp dụng sản xuất 3 tại chổ với quy mô lao động từ 30% đến 60% trong quý III/2021 (lao động bình quân trên 14.000 lao động). Vì vậy, sản lượng sản xuất trong 11 tháng giảm trên 20% so với cùng kỳ năm trước.
- Sản lượng sản xuất giấy và bìa giấy các loại được 449.608 tấn, tăng 4,79% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất được 5.873,26 tỷ đồng (theo giá thực tế), chiếm tỷ trọng 87,99% trong ngành sản xuất giấy và các sản phẩm có liên quan, chiếm tỷ trọng 15,51% trong toàn ngành. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do công ty đã thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch trong quý III/2021, nên doanh nghiệp vẫn duy trì sản xuất ổn định và tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 11/2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 11,74% so với tháng trước và tăng 8,12% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,80% so với tháng trước và tăng 8,15% so với cùng kỳ; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 1,04% so với tháng trước và tăng 10,51% so với cùng kỳ (do Công ty CP điện mặt trời VKT- Hòa An đã đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động ổn định từ đầu năm đến nay, nên làm chỉ số sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ); cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,58% so với tháng trước và giảm 2,06% so với cùng kỳ năm trước (do hiện nay là cao điểm mùa mưa, người dân sử dụng nước mưa trong sinh hoạt nên chỉ số sản xuất nước giảm so với cùng kỳ).
Một số ngành tăng cao hơn mức tăng chung của toàn ngành so với cùng kỳ như: Ngành chế biến thực phẩm tăng 14,40% so với cùng kỳ. (Trong đó, ngành chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 17,33%; xay xát và sản xuất bột thô tăng 87,38%; sản xuất thức ăn giá súc, gia cầm và thủy sản tăng 15,74%...); Ngành sản xuất đồ uống tăng 25,90% so với cùng kỳ; Ngành sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 13,98%; Ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 8,76%,... Nguyên nhân là do tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát tốt, tỉnh cũng đã thực hiện nhiều biện pháp nới lỏng, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng đã hoạt động trở lại trong giữa cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10/2021 đến nay, doanh nghiệp cũng chủ động tăng sản lượng sản xuất, để kịp thời hoàn thành các hợp đồng còn tồn động do bị ảnh hưởng dịch trước đó. Bên cạnh đó, tăng một phần là do Công ty TNHH MTV Masan Hậu Giang đã đầu tư hoàn thành đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất mì, phở, miến, bún, cháo ăn liền với công suất thiết kế 38.000 tấn/năm và Công ty TNHH UNIPAX Vị Thanh mới hoạt động trong những tháng gần đây, sản phẩm chính là nón các loại với công suất thiết kế 6 triệu sản phẩm/năm.
Dự tính 11 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,37% so với cùng kỳ. Trong đó, Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,34%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,21%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,82%.
Nhìn chung, sản xuất công nghiệp ước cả năm 2021 trên địa bàn tỉnh có tăng trưởng, nhưng vẫn có một số ngành nghề phát triển chưa bền vững do bị tác động về giá, thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác như: Điện, xăng dầu, một phần bị ảnh hưởng của dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Do vậy, các doanh nghiệp cần nỗ lực hơn nữa để triển khai nhiều giải pháp mang tính phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngành chức năng cũng cần có kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp đang đầu tư sớm đi vào hoạt động đúng theo kế hoạch của doanh nghiệp đã đề ra như: Nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu 1; Công ty TNHH Sunpro Capital Group Limited,… để giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao trong tháng cuối năm và phát triển ổn định trong những năm tới.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Tính từ ngày 20/10/2021-18/11/2021, toàn tỉnh có 57 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (giảm 40%), với tổng số vốn đăng ký là 249,09 tỷ đồng (giảm 33%), số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới là 4,37 tỷ đồng; số doanh nghiệp gặp khó khăn tạm ngừng hoạt động là 12 doanh nghiệp, với tổng số vốn là 7,61 tỷ đồng; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 06 doanh nghiệp (giảm 50%), với tổng vốn là 1,45 tỷ đồng (tăng 189%).
Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh có 492 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (giảm 37%), với tổng vốn 3.074,67 tỷ đồng (giảm 66%) so với năm 2020; số doanh nghiệp gặp khó khăn tạm ngừng hoạt động là 116 doanh nghiệp (tăng 17%), với tổng vốn 474,89 tỷ đồng (tăng 44%) so với năm 2020 (do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19); số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 65 doanh nghiệp (giảm 49%), với tổng vốn là 72,35 tỷ đồng (giảm 90%) so với năm 2020.
4. Vốn đầu tư
Hiện nay, các biện pháp giãn cách phòng, chống dịch dần được nới lỏng. Các chủ đầu tư và nhà thầu đang khẩn trương, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình để đạt kế hoạch đề ra. Tuy nhiên việc triển khai thi công còn gặp nhiều khó khăn do việc thiếu nhân công lao động, giá nguyên vật liệu xây dựng (cát, đá, sắt, thép, …) biến động tăng mạnh từ đầu năm đến nay đã làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các công trình.
Tính đến ngày 17/11/2021, kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2021 là 17.491,50 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 2.865,50 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn: 1.120 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 13.506 tỷ đồng.
Ước tính tháng 11/2021, vốn đầu tư thực hiện được 1.390,83 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,36% và so với cùng kỳ năm trước bằng 80,47%.
Ước tính 11 tháng năm 2021, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 15.951,72 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước (19.409,32 tỷ đồng) bằng 82,19% và so với kế hoạch năm đạt 91,20%. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 2.167,16 tỷ đồng, so với vùng kỳ năm trước bằng 83,97% và so với kế hoạch năm (2.865,50 tỷ đồng) đạt 75,63%.
Việc giải ngân vốn đầu tư chậm do nhiều nguyên nhân. Do hầu hết Kế hoạch vốn năm 2021 đều được phân bổ cho các dự án khởi công mới. Trong các tháng đầu năm phải tập trung thực hiện công tác chuẩn bị đầu tư đến quý III và quý IV mới tăng tốc, đẩy nhanh tiến độ thi công. Tuy nhiên, đến giữa tháng 7 do tình hình dịch bệnh phải thực hiện giãn cách xã hội nên các công trình gần như ngừng thi công toàn bộ (các nhà thầu không đảm bảo 3 tại chổ). Ngoài ra, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện còn chậm, chưa bảo đảm minh bạch, công bằng nên người dân chưa đồng thuận, xảy ra khiếu kiện về chính sách đền bù, một số dự án phương án bồi thường đã áp giá nhưng chưa thể triển khai cho dân (ảnh hưởng giãn cách xã hội) nên chưa đủ thủ tục trình phê duyệt phương án bồi thường theo quy định. Quá trình lập thủ tục thanh toán như: Nghiệm thu, ký hồ sơ thanh toán, gửi, nhận hồ sơ,... gặp khó khăn. Công tác lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công - dự toán các dự án khởi công mới năm 2021 cũng còn chậm mặc dù kế hoạch vốn năm 2021 đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua nhưng đến nay một số dự án chưa đảm bảo thủ tục để bố trí vốn triển khai (vì phải chờ quyết định phê duyệt dự án).
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu Ngân sách nhà nước tháng 11/2021 được 672,37 tỷ đồng, luỹ kế được 10.066,26 tỷ đồng, đạt 128,86% dự toán Trung ương, đạt 91,39% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó: Trung ương trợ cấp được 356,70 tỷ đồng, luỹ kế được 3.747,58 tỷ đồng, đạt 92,89% dự toán Trung ương và đạt 91,59% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao; Thu nội địa được 270 tỷ đồng, luỹ kế được 3.930,99 tỷ đồng, đạt 118,14% dự toán Trung ương và đạt 94,48% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi Ngân sách địa phương tháng 11/2021 được 785,75 tỷ đồng, luỹ kế được 6.904,25 tỷ đồng, đạt 99,41% dự toán Trung ương, đạt 71,67% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó: Chi xây dựng cơ bản được 276,72 tỷ đồng, luỹ kế được 2.864,88 tỷ đồng, đạt 101,85% dự toán Trung ương giao, đạt 67,14% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao; Chi thường xuyên được 486,78 tỷ đồng, luỹ kế được 3.758,21 tỷ đồng, đạt 93,56% dự toán Trung ương giao và đạt 75,77% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 31/10/2021, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 16.039 tỷ đồng, giảm 1,27% so với tháng trước, tương ứng tăng trưởng 0,36% so với cuối năm 2020. Vốn huy động đáp ứng được 56,52% cho hoạt động tín dụng. Trong tổng vốn huy động trên địa bàn thì khối Ngân hàng Thương mại nhà nước huy động được 10.507 tỷ đồng (chiếm 65,51%); khối Ngân hàng Thương mại cổ phần được 4.758 tỷ đồng (chiếm 29,66%); Ngân hàng Chính sách xã hội được 737 tỷ đồng (chiếm 4,60%) và Quỹ tín dụng Nhân dân được 37 tỷ đồng (chiếm 0,23%).
Đến ngày 31/10/2021, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 28.377 tỷ đồng, tăng trưởng 0,38% so với cuối tháng trước, tương ứng tăng trưởng 6,07% so với cuối năm 2020. Trong tổng dư nợ thì khối Ngân hàng Thương mại nhà nước đạt 19.826 tỷ đồng (chiếm 69,87%); khối Ngân hàng Thương mại cổ phần là 5.615 tỷ đồng (chiếm 19,79%); Ngân hàng Chính sách xã hội là 2.892 tỷ đồng (chiếm 10,19%) và Quỹ tín dụng Nhân dân là 44 tỷ đồng (chiếm 0,15%).
Nợ quá hạn đến ngày 31/10/2021 là 793 tỷ đồng, chiếm 2,80%/tổng dư nợ; nợ xấu là 431 tỷ đồng, chiếm 1,52%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 308 tỷ đồng, chiếm 38,84%/tổng nợ quá hạn. Dự báo đến cuối tháng 11/2021, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
Cùng với cả nước, Tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt, nghiêm ngặt để kiểm soát dịch Covid-19 và đã đạt được một số kết quả bước đầu, nhanh chóng thiết lập trạng thái bình thường mới. Hoạt động thương mại, dịch vụ dần được phục hồi và phát triển ổn định trở lại. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, đã xuất hiện các ca nhiễm bệnh tại các phân xưởng nhà máy sản xuất của công ty, doanh nghiệp, làm cho quy mô cũng như công suất sản xuất, chế biến của các doanh nghiệp này bị sụt giảm. Hoạt động vận tải tuy có tăng so với tháng trước (25,99%) nhưng lại giảm so với cùng kỳ (giảm 28,53%) do dịch Covid-19 hiện đang bùng phát, người dân hạn chế đi lại trong và ngoài tỉnh.
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Ước tính tháng 11/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng được 3.910,79 tỷ đồng (Trong đó, doanh thu chi nhánh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh là 318,73 tỷ đồng), so với thực hiện tháng trước bằng 108,17% và so với cùng kỳ năm trước bằng 104,93%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa được 3.029,84 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,64% và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,95%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng ổn định trở lại so với tháng trước là do tình hình dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn đã được kiểm soát, phần lớn cơ sở được hoạt động kinh doanh trở lại. Cụ thể một số nhóm ngành như sau:
+ Lương thực, thực phẩm dự tính được 884,57 tỷ đồng, so tháng trước tăng 3,66% do đây là nhóm hàng thiết yếu nên nhu cầu tiêu dùng cơ bản giữ ổn định ít chịu tác động của tình hình dịch bệnh.
+ Hàng may mặc được 131,09 tỷ đồng, so tháng trước tăng 8,82% do các cơ sở kinh doanh và các cửa hàng thời trang hầu hết đã mở cửa hoạt động trở lại bình thường phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân.
+ Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình được 408,43 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 8,41%. Các cở sở kinh doanh đã hoạt động ổn định trở lại, tăng cường nhiều chương trình khuyến mãi giải phóng hàng tồn, kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân dịp cuối năm.
+ Vật phẩm văn hóa, giáo dục dự tính được 36,59 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,77%.
+ Gỗ và vật liệu xây dựng được 520,33 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 6,58% do các công trình xây dựng lớn, công trình dân dụng hoạt động trong điều kiện bình thường mới, gấp rút thi công để bàn giao sau thời gian tạm ngưng hoạt động.
+ Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) được 110,26 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 8,77%, các cửa hàng bán xe gắn máy hoạt động trở lại bình thường đáp ứng nhu cầu của người dân dịp cuối năm.
+ Xăng dầu các loại được 466,88 tỷ đồng, so tháng trước tăng 5,06%. Hoạt động vận tải, lưu thông hàng hóa và đi lại của người dân được nới lỏng; bên cạnh đó giá xăng vẫn tiếp tục tăng.
+ Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) được 57,75 tỷ đồng, so tháng trước tăng 4,87% do giá gas có xu hướng tiếp tục tăng cao so với tháng trước.
+ Đá quý, kim loại quý được 62,82 tỷ đồng, so tháng trước tăng 4,89% do giá vàng vẫn ở mức cao và các doanh nghiệp vàng bạc, đá quý đã hoạt động trở lại bình thường và người dân có xu hướng mua vàng đầu tư sinh lời trong thời điểm giá vàng liên tục tăng như hiện nay.
+ Hàng hóa khác được 311,93 tỷ đồng, so tháng trước tăng 4,88%.
+ Doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác được 35,21 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 10,15%. Sau thời gian hạn chế đi lại do ảnh hưởng của dịch bệnh, nhu cầu sửa chữa, bảo dưỡng phương tiện đi lại của người dân và các cở sở kinh doanh vận tải tăng so với tháng trước.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 570,35 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,63% và so với cùng kỳ năm trước bằng 86,09%. Khách sạn, nhà nghỉ hoạt động trở lại bình thường; các cơ sở kinh doanh ăn uống dần thích nghi với hình thức bán mang về nên hoạt động đã đi vào ổn định. Cụ thể:
+ Doanh thu dịch vụ lưu trú được 10,91 tỷ đồng, so tháng trước tăng 2,65%, so cùng kỳ giảm 24,09%.
+ Doanh thu dịch vụ ăn uống được 559,44 tỷ đồng, so tháng trước tăng 5,69%, so cùng kỳ giảm 13,68%.
- Doanh thu dịch vụ khác được 310,60 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 149,67% và so với cùng kỳ năm trước bằng 100,51%. Trong tháng 11/2021, các ngành dịch vụ đều tăng so với tháng trước. Nguyên nhân là do dịch bệnh trên địa bàn dần được kiểm soát tốt, các cơ sở kinh doanh dịch vụ được phép hoạt động trở lại, đặc biệt là hoạt động xổ số chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng 70% tổng doanh thu các ngành dịch vụ khác) được phép phát mở thưởng bình thường vào thứ bảy hàng tuần.
Tính chung 11 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng được 38.260,57 tỷ đồng (Trong đó, doanh thu chi nhánh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh là 3.147,15 tỷ đồng), so với cùng kỳ năm trước bằng 103,91%. Chia ra:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa được 30.002,77 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 105,94%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành được 5.459,17 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 100,94%.
- Doanh thu dịch vụ khác được 2.798,63 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 90,52%.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 11/2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 77,10 triệu USD so với tháng trước bằng 98,78% và so với cùng kỳ năm trước bằng 80,04%. Trong đó:
- Xuất khẩu thực hiện được 51,54 triệu USD, so với tháng trước bằng 93,66% và so với cùng kỳ năm trước bằng 96,55%. Dịch bệnh diễn biến phức tạp trở lại đã có các ca nhiễm bệnh tại các phân xưởng nhà máy sản xuất của công ty sản xuất giày thể thao xuất khẩu Lạc Tỷ II và doanh nghiệp chế biến thủy sản Minh Phú - Hậu Giang. Đây là những doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu (Lạc Tỷ II chiếm hơn 28%, Minh Phú chiếm hơn 40%). Do đó, dưới sự tác động của dịch bệnh dự ước trong tháng 11 quy mô cũng như công suất sản xuất, chế biến của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị sụt giảm.
- Nhập khẩu thực hiện được 25,56 triệu USD, so với tháng trước bằng 111% và so với cùng kỳ năm trước bằng 59,51%.
Ước thực hiện 11 tháng năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 864,54 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 92,90% và so với kế hoạch năm đạt 79,96%. Trong đó:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 513,17 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 94,05% và so với kế hoạch năm đạt 69,78%. Do trong quý III, các doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng nhiều từ dịch bệnh trọn trong quý nên giá trị xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực (thủy sản, giày thể thao, giấy) của tỉnh hầu hết có sự sụt giảm. Trong đó, sản phẩm giày thể thao xuất khẩu (chiếm tỷ trọng gần 29%) có giá trị giảm nhiều nhất khoảng 39 triệu USD tương đương giảm hơn 20%, thủy sản (chiếm gần 46%) giảm nhẹ hơn 5%, mặc dù mặt hàng giấy tăng hơn 53% nhưng lại chiếm tỷ trọng nhỏ khoảng 14% trong tổng kim ngạch. Vì vậy, tính chung 11 tháng giá trị xuất khẩu vẫn giảm so với cùng kỳ.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 310,47 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 93,60% và so với kế hoạch năm vượt 10,25%. Nguyên nhân giảm là do giá trị nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất của các doanh nghiệp trong quý III giảm mạnh (ảnh hưởng dịch bệnh). Trong đó, nguyên vật liệu đầu vào sản xuất giày thể thao xuất khẩu giảm mạnh hơn 24 triệu USD tương đương giảm gần 55%, nguyên liệu giấy giảm 30 triệu USD tương đương hơn 28% so với cùng kỳ. Mặc dù một số mặt hàng khác (chủ yếu là mật gỉ, đường) có giá trị nhập khẩu tăng, tăng khoảng 30 triệu USD so với cùng kỳ nhưng vẫn không đủ bù đắp phần giá trị giảm đi. Do đó, kim ngạch nhập khẩu tính chung vẫn giảm.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,59 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 30,75% và so với kế hoạch năm đạt 48,92%. Nguyên nhân giá trị ủy thác đạt thấp là do dịch bệnh bùng phát mạnh trong quý III, doanh nghiệp có giá trị ủy thác phải tạm ngưng hoạt động để phòng chống dịch, giá trị các hợp đồng xuất khẩu ủy thác không phát sinh. Vì vậy, giá trị sụt giảm nhiều so với cùng kỳ. Hiện nay, trên địa bàn chỉ còn duy nhất Công ty Cổ phần Thủy sản Cafatex có giá trị ủy thác xuất khẩu.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 40,31 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 78,37% và so với kế hoạch năm đạt 63,98%.
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Ước tháng 11/2021, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 75,16 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 125,99% và so với cùng kỳ năm trước bằng 71,47%. Nguyên nhân giảm so với cùng kỳ là do dịch Covid-19 hiện đang bùng phát, người dân hạn chế đi lại trong và ngoài tỉnh, các cơ sở vận chuyển hàng hóa và hành khách ở các khu vực Ngã Bảy, Phụng Hiệp, Châu Thành A, Châu Thành, Thị xã Long Mỹ, Vị Thủy (các vùng đang có dịch bùng phát mạnh) phải tạm thời ngưng hoạt động hoàn toàn hoặc một phần. Vì vậy, giá trị vận tải có phần bị sụt giảm hơn so với cùng kỳ (giảm 28,53%). Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 22,71 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 161,71% và so với cùng kỳ năm trước bằng 68,73%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 23,17 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 122,35% và so với cùng kỳ năm trước bằng 67,15%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 29,28 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 109,76% và so với cùng kỳ năm trước bằng 77,86%.
Ước 11 tháng năm 2021, tổng doanh thu vận tải, kho bãi thực hiện được 855,63 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 81,53%. Dịch bệnh bùng phát mạnh từ tháng 7 đến nay làm hầu hết các cơ sở vận tải trên địa bàn hoạt động không ổn định. Trong quý III, tất cả các cơ sở phải tạm ngưng hoạt động để chung tay phòng chống dịch sớm đưa cuộc sống trở lại trạng thái bình thường mới. Kết quả, tổng giá trị hoạt động vận tải quý III giảm hơn 50% so với cùng kỳ, do đó gián tiếp làm giảm giá trị chung 11 tháng của ngành vận tải trên địa bàn, giảm khoảng 18% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 293,38 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 87,14%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 272,22 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 75,52%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 290,03 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 82,31%.
Tình hình dịch bệnh bùng phát mạnh trong toàn thời gian của quý III năm nay đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các hoạt động vận chuyển hàng hóa và hành khách trên địa bàn ở cả đường bộ lẫn đường thủy. Vì vậy, tính chung đến tháng 11 năm 2021 hầu hết các chỉ tiêu vận tải về vận chuyển và luân chuyển đều có sự sụt giảm so với cùng kỳ, trong đó hoạt động hành khách đường bộ chịu ảnh hưởng nặng và có mức sụt giảm nhiều nhất.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 11/2021, toàn tỉnh vận chuyển được 400,89 nghìn tấn hàng hóa các loại (37.933,29 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 122,46% (116,70%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 68,74% (79,20%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 82,21 nghìn tấn (9.130,27 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 111,74% (110,66%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 105,34% (100,92%).
- Đường sông thực hiện được 318,68 nghìn tấn (28.803,02 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 125,57% (118,76%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 63,08% (74,14%).
Ước thực hiện 11 tháng năm 2021, toàn tỉnh vận chuyển được 4.598,15 nghìn tấn hàng hóa các loại (392.198,37 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 76,95% (81,65%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 929,35 nghìn tấn (94.693,99 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 120,73% (106,66%).
- Đường sông thực hiện được 3.668,80 nghìn tấn (297.504,38 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 70,47% (75,98%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 11/2021, toàn tỉnh thực hiện được 1.861,97 nghìn lượt hành khách (18.768,83 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 120,48% (221,79%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 71,23% (45,89%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 133,76 nghìn lượt hành khách (11.098,36 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước khối lượng vận chuyển, luân chuyển tăng rất cao do một số cơ sở lớn hoạt động trở lại tăng số chuyến vận chuyển và so với cùng kỳ năm trước bằng 44,93% (38,97%).
- Đường sông vận chuyển được 1.728,21 nghìn lượt hành khách (7.670,48 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 118,41% (118,82%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 74,61% (61,75%).
Ước thực hiện 11 tháng năm 2021, toàn tỉnh vận chuyển được 23.543,86 nghìn lượt hành khách (283.998,16 nghìn HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 83,31% (67,81%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 3.511,95 nghìn lượt hành khách (187.584,47 nghìn HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 74,52% (63,72%).
- Đường sông thực hiện được 20.031,92 nghìn lượt hành khách (96.413,69 nghìn HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 85,07% (77,48%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo tập trung vào hoạt động chuyên môn của các ngành học, cấp học như sau:
- Giáo dục tiểu học - mầm non: Triển khai thực hiện kế hoạch thực hiện Chương trình phòng ngừa, giảm thiểu trẻ em lao động trái quy định của pháp luật giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 tỉnh Hậu Giang. Hướng dẫn tổ chức triển khai chương trình “An toàn giao thông cho nụ cười trẻ thơ” cấp tiểu học năm học 2021-2022.
- Giáo dục trung học - Giáo dục thường xuyên: Tham dự Hội nghị giao ban trực tuyến với Bộ Giáo dục và Đào tạo về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm học 2021-2022; Hướng dẫn thực hiện kiểm tra, đánh giá định kỳ cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông và giáo dục thường xuyên năm học 2021-2022; triển khai Cuộc thi trắc nghiệm “Chung tay phòng, chống dịch Covid-19” trên mạng xã hội VCNet; tham mưu cho phép Công ty Manabie giới thiệu phần mềm Manabie và tài nguyên học tập đến với học sinh và giáo viên các trường trung học phổ thông.
7.2. Văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống Trung tâm Văn hóa tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ của đất nước, các nhiệm vụ chính trị, các công tác trọng tâm của địa phương theo chỉ đạo như: Thực hiện chuyên đề toàn khóa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; Tuyên truyền kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất - Ngày Truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930-18/11/2021) và kỷ niệm 80 năm ngày Nam Kỳ khởi nghĩa (23/11/1940 - 23/11/2021). Kết quả: In, treo và lắp mới được 690 m2 pano, 56 băng rol, 1.250 cờ các loại. Tổ chức tốt hoạt động phóng thanh cổ động về phòng, chống dịch Covid-19, kết quả được 394 buổi.
Hoạt động thư viện: Trong tháng phục vụ bạn đọc thông qua website Thư viện có 16.561 lượt người truy cập tra cứu và đọc sách thông qua website Thư viện (nâng tổng số lên 132.009 lượt) với 33.122 lượt sách (nâng tổng số lên 264.018 lượt). Cấp 371 thẻ Thư viện cho bạn đọc (nâng tổng số lên 1.764 thẻ). Tổ chức triển lãm sách online gồm 50 quyển về Phụ nữ Việt Nam 20/10; 50 quyển kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Trao giải cho các tập thể và cá nhân đạt giải trong cuộc thi “Đại sứ Văn hóa đọc” năm 2021.
Hoạt động bảo tồn - bảo tàng và phát huy giá trị di sản văn hóa: Triển lãm thường xuyên tại Trung tâm Hội Nghị tỉnh, di tích Chiến thắng Chương Thiện với các chuyên đề: Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng an ninh tỉnh Hậu Giang; Chiến thắng lịch sử 30/4/1975 và xây dựng bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam; Hậu Giang học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Sưu tầm và viết lý lịch 49 hiện vật bổ sung vào kho lưu trữ; Lập hồ sơ Di tích lịch sử - văn hóa “Trận Chiến Pháo Binh Vịnh Chèo năm 1974” toạ lạc tại ấp 6, xã Vĩnh Thuận Tây, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang trình Ủy ban nhân dân tỉnh xin xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp Tỉnh; Sưu tầm tài liệu, hiện vật, hình ảnh hoàn chỉnh hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích lịch sử: Khu tưởng niệm liệt sĩ Lữ đoàn Pháo binh 6, Căn cứ Khu ủy, Quân khu ủy khu 9 và nơi ở thời niên thiếu của cố luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Hậu Giang. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 1.540 lượt người.
Sự nghiệp thể dục thể thao: Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ môn Quần vợt. Tham dự có 30 học viên đến từ các đơn vị Phòng Văn hoá và Thông tin, Trung tâm Văn hoá Thông tin – Thể thao các huyện, thị xã, thành phố; giáo viên các Trường trên địa bàn tỉnh. Vận động viên Judo Nguyễn Tường Vy được triệu tập đội tuyển Việt Nam tham dự Giải vô địch võ thuật thế giới trực tuyến “Online World Martial Arts Masterships 2021” và đã xuất sắc giành 01 Huy chương vàng.
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Từ ngày 01/10/2021 đến nay, đã có trên 29.000 người dân từ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận trở về địa phương, thách thức lớn đặt ra đối với ngành trong công tác hỗ trợ tuyển dụng, đào tạo, cung ứng lao động cho doanh nghiệp và hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề ra nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường lao động và tạo việc làm cho người lao động, cụ thể như tổ chức tuyên truyền, phổ biến thông tin thị trường lao động để người lao động biết thông tin chính xác làm cơ sở quyết định quay trở lại thị trường lao động; nắm thông tin, nhu cầu về lao động - việc làm trên địa bàn tỉnh. Với nhiều nỗ lực, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 3.996 (15.748)/15.000 lao động, đạt 105% kế hoạch năm. Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt danh sách 43(241) chuyên gia nước ngoài đủ điều kiện hỗ trợ thủ tục nhập cảnh vào làm việc tại Hậu Giang. Tổ chức khai giảng 37(66) lớp đào tạo nghề lao động nông thôn lĩnh vực phi nông nghiệp với 925 (1.650) học viên.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 127 (1.722) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 91 (1.686) hồ sơ. Trong đó, đạt 86 (1.462) hồ sơ; không đạt 05 (224) hồ sơ, còn 36 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Thực hiện hoàn thành công trình Điều chỉnh thông tin trên bia mộ liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh với kinh phí 296,52 triệu đồng; đồng thời khởi công 02 công trình: Sửa chữa, cải tạo, nâng cấp Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Hậu Giang với kinh phí 5.854 triệu đồng và Nâng cấp vỏ mộ và xây dựng bia ghi tên liệt sĩ Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Ngã Bảy với kinh phí 1.849,37 triệu đồng.
Lĩnh vực Bảo trợ xã hội và Giảm nghèo: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 34.395 (375.154 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 17.864,91 (163.500,44) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 181 trường hợp với số tiền 1.303,2 triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp 03 trường hợp với kinh phí 85 triệu đồng; Trước tình hình số lượng lớn người dân của tỉnh Hậu Giang từ Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh lân cận trở về địa phương, trong đó có người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ mang thai. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp tham mưu ban hành chính sách hỗ trợ kịp thời chi phí cách ly, hơn 600 phần quà tăng cường sức khỏe cho người già, trẻ em, phụ nữ mang thai; Phối hợp với Ban đại diện Hội người cao tuổi tỉnh tham mưu thành lập 04 Đoàn công tác của Lãnh đạo tỉnh đến thăm, tặng quà người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp Tháng hành động Vì Người cao tuổi Việt Nam năm 2021; nhân dịp này, ngành cũng đã phối hợp đơn vị liên quan tổ chức thăm, tặng 129 phần quà cho người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn với số tiền 72,5 triệu đồng.
Lĩnh vực Bảo vệ, chăm sóc trẻ em và Bình đẳng giới: Xây dựng 08 chuyên đề tuyên truyền về công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em; hỗ trợ gạo tháng 9, 10 cho các em mồ côi do Tổ chức Seaof tài trợ với số tiền 17,81 (81,43) triệu đồng; Tổ chức Tọa đàm “Nâng cao năng lực tham gia các hoạt động chính trị cho phụ nữ tri thức” với 70 đại biểu tham dự.
Lĩnh vực Phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 32 (471) cuộc với 629 (13.208) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 26 (840) cuộc với 180 (2.258) phút tuyên truyền; Tổ chức 01 cuộc đối thoại, tuyên truyền chính sách cai nghiện và hỗ trợ sau cai nghiện cho hơn 30 người nghiện và gia đình người nghiện trên địa bàn xã Nhơn Nghĩa A. Tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 1.975 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 187 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 00 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, tương đương với tháng trước, cộng dồn là 55 ca, giảm 85 ca so với cùng kỳ; Bệnh tay chân miệng không có ca mắc mới, tương đương với tháng trước, cộng dồn là 386 ca, tăng 143 ca (tăng 119%) so với cùng kỳ; Bệnh sởi, bệnh dịch lạ, bệnh quai bị, bệnh viêm gan do virut và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc.
Về tình hình dịch Covid-19:
- Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7/2021) đến 18 giờ ngày 22/11/2021 tỉnh Hậu Giang có 3.942 ca mắc, điều trị khỏi 1.992 ca, hiện đang điều trị là 1.940 người.
- Tính đến cuối ngày 22/11/2021, tổng số liều vắc xin đã được tiêm là 915.269 liều (trong đó có 333.900 người đã tiêm đủ 2 mũi; 247.469 người mới tiêm mũi 1), đạt tỷ lệ 95,84% trên tổng dân số tỉnh Hậu Giang từ 12 tuổi trở lên.
Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch trong tháng là 934 trẻ, cộng dồn là 10.234 trẻ, đạt 91,2%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 1.029 trẻ, cộng dồn là 10.157 trẻ, đạt 88,4%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 834 thai phụ, cộng dồn là 9.432 thai phụ, đạt 83,3%.
Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 62 ca (giảm 10 ca với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.882 ca (người còn sống 1.267 người); số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 08 ca (giảm 07 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.051 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng là 00 ca, cộng dồn là 10 ca (giảm 09 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 55 người, tổng số bệnh nhân điều trị ARV là 1.021 người (trong tỉnh: 929, ngoài tỉnh: 92).
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 11/2021: Tổng số lần khám là 113.662 lượt, cộng dồn là 1.424.290 lượt, đạt 75,28% kế hoạch, giảm 22,42% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 5.575 lượt, cộng dồn là 78.741 lượt, đạt 58,28% kế hoạch, giảm 18,23% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 5,97 ngày, tăng 0,15 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 4.871 trường hợp, giảm 4.408 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 11/2021, trên địa bàn tỉnh xảy ra 09 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 08 người, bị thương 03 người (tập trung ở đường bộ). So với tháng trước số vụ tai nạn giao thông tăng 04 vụ, số người chết tăng 06 người và số người bị thương giảm 03 người (tập trung ở đường bộ). So với cùng kỳ năm 2020 số vụ giảm 02 (đường bộ giảm 01 vụ, đường thủy giảm 01 vụ), số người chết giảm 03 người (đường bộ giảm 02 người, đường thủy giảm 01 người) và số người bị thương tăng 03 người (tập trung đường bộ).
Trong 11 tháng năm 2021 (từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/11/2021), toàn tỉnh xảy ra 52 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 51 vụ, đường thủy 01 vụ), làm chết 44 người (đường bộ 43 người, đường thủy 01 người), bị thương 18 người (tập trung ở đường bộ). So với cùng kỳ năm 2020, số vụ giảm 11 (đường bộ giảm 10 vụ, đường thủy giảm 01 vụ), số người chết giảm 05 người (đường bộ giảm 04 người, đường thủy giảm 01 người), số người bị thương giảm 02 người (tập trung ở đường bộ).
7.6. Thiệt hại do thiên tai, môi trường và phòng chống cháy, nổ
Tình hình thiên tai:
- Sạt lở: Từ đầu năm đến nay xảy ra 30 điểm sạt lở (huyện Châu Thành 27 điểm, thành phố Ngã Bảy 03 điểm). Chiều dài sạt lở là 737 m, diện tích mất đất 4.457 m2, ước thiệt hại 2.454 triệu đồng.
- Dông lốc: Lũy kế đến nay nhà sập 15 căn, tốc mái 65 căn, tốc mái 02 phòng học, 01 xưởng sản xuất, hư 01 trạm biến điện, ước thiệt hại khoảng 2.944,5 triệu đồng và thiệt hại công trình công cộng khoảng 100 triệu đồng.
Ngành chức năng tiếp tục giám sát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, các cơ sở có thông tin phản ánh để kịp thời xử lý theo quy định. Tính từ đầu năm đến nay, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 51 vụ, xử lý 47 vụ với số tiền xử phạt là 718 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về an toàn thực phẩm, xả nước thải, khí thải vượt chuẩn cho phép. Trong đó, có 01 vụ bị xử phạt vi phạm xả khí thải, nước thải vượt chuẩn cho phép với số tiền 260 triệu đồng và 01 vụ vi phạm về lĩnh vực hành chính, không có báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi đi vào hoạt động sản xuất với số tiền là 300 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2020, số vụ vi phạm tăng 02 vụ (năm 2020, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 49 vụ, xử lý 50 vụ, có 01 vụ xử lý tồn của năm 2019).g tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Vì vậy, trong tháng, không xảy ra cháy, nổ trên địa bàn tỉnh. Tính từ đầu năm đến nay, đã xảy ra 2 vụ cháy, may mắn không thiệt hại về người, ước tổng tài sản thiệt hại khoảng 1.160 triệu đồng./.
File đính kèm: Bao_cao_KTXH_T11.2021.docxSo_lieu_KTXH_T11.2021.xlsx
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang