Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 25/07/2005-17:01:00 PM
Tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2005

1. Tình hình chung:
Tháng 7 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 39.631 tỷ đồng tăng 17,4% so với cùng kỳ và tăng 1,7% so với tháng 6/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8% so cùng kỳ.
Cộng dồn 7 tháng đầu năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 245.326 tỷ đồng tăng 16% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10% (chiếm 32,2%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,4% (chiếm 30,6%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,9% (chiếm 37,1%) (trong đó Tcty dầu khí giảm 10,3%, các ngành khác tăng 25,2%).
Bảy tháng đầu năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 24%; các sản phẩm chế biến là thuỷ sản chế biến tăng 17,5%, bột ngọt 17,4%; các sản phẩm hoá chất là phân hoá học tăng 51,9%, thuốc trừ sâu 16,6%, xút NaOH 31,3%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là thép cán 16,6%, sứ vệ sinh 30,4%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như máy công cụ tăng 39,8%, động cơ điện 19%, ôtô các loại tăng 45,5%, xe máy 16,5% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành gồm: điện sản xuất tăng 14,8%, xi măng tăng 14,4%, gạch xây 6,2%, gạch lát 10,9%, khí đốt thiên nhiên 9,6%, sữa hộp 12,7%, bia 9,7%, thuốc lá bao 10,4%, xà phòng các loại 10,6%, thuốc viên các loại 13%, ắc quy 6,6%, giấy bìa các loại 7,5%, quần áo may sẵn 9,4%, quần áo dệt kim 0,2%, xe đạp hoàn chỉnh tăng 8,9%, quạt điện dân dụng tăng 12,5% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 88%, ga hoá lỏng 98,3%, đường mật các loại 76,5%, thuốc ống đạt 92,1%, vải lụa thành phẩm 92,6%, động cơ diezen 78,7%, máy biến thế 90%, tivi các loại đạt 93,2% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ bảy tháng đầu năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hà Nội tăng 18,3% (chiếm tỷ trọng 7,6%), Hải phòng tăng 17,1%, Vĩnh Phúc tăng 41,2%, Hà Tây tăng 19,7%, Hải Dương tăng 27,1%, Quảng Ninh tăng 16,1%, Đà Nẵng tăng 17,5%, Khánh Hoà tăng 16,1%, Bình Dương tăng 33,7% (chiếm 8,4%), Đồng Nai tăng 21,5% (chiếm 8,3%), Cần Thơ tăng 28,4%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn vẫn tiếp tục đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,1% (chiếm tỷ trọng 25%), Phú Thọ tăng 15,2%, Thanh Hoá tăng 8,5%, Bà rịa – Vũng Tàu tăng 12,9%.


Một số nhận xét chung:
Tình hình 7 tháng đầu năm đã có tăng trưởng khá hơn so với các tháng trước đây do một số sản phẩm chính đã có tăng trưởng khả quan như điện, phân bón, thép xây dựng, xi măng, lắp ráp xe máy trong khi các sản phẩm khác như than sạch, lắp ráp ôtô, vật liệu xây dựng, chế biến thuỷ sản, một số sản phẩm cơ khí tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao. Về tình hình các địa phương đã có thêm nhiều tỉnh thành phố đạt tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành như Vĩnh phúc, Hà Tây, Hải dương, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Khánh hoà trong khi một số tỉnh, thành phố như Hà nội, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ vẫn duy trì mức tăng trưởng cao.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2005 đã đạt kế hoạch đề ra cho cả năm (16%), tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại sau:
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ (10% so với mức tăng 7 tháng năm 2004 là 11,6%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có mức tăng trưởng khá hơn nhưng khai thác dầu thô vẫn giảm 10,3% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí cũng tăng thấp so cùng kỳ và sản xuất gas hoá lỏng giảm so cùng kỳ.
- Về tình hình sản xuất các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 16/36 sản phẩm thống kê chính như điện, xi măng, bia, ...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 8/36 sản phẩm như dầu thô, lắp ráp tivi,vải lụa thành phẩm...). Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may, da giầy, xe đạp và phụ tùng, thuỷ sản chế biến có mức tăng chậm hoặc giảm so cùng kỳ. Đặc biệt là hàng dệt may tăng thấp do vướng quota nhập khẩu vào thị trường Mỹ và khả năng cạnh tranh kém so với hàng Trung Quốc tại thị trường EU. Theo kiến nghị của các doanh nghiệp thì Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân bổ quota hàng dệt may để giúp các doanh nghiệp tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu.
- Theo vùng lãnh thổ: trong khi một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 11/15 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội, thì một số tỉnh và thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa-Vũng Tàu,... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước có mức tăng trưởng thấp (13,1%).
- Trong các tháng đầu năm 2005 tình hình giá cả nguyên vật liệu có nhiều biến động, giá dầu thô tăng cao trên 50 USD/thùng và có lúc đạt gần 60 USD/thùng làm giá xăng dầu tăng lên tương ứng nên Bộ Tài chính đã quyết định giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% để giảm ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu trên thị trường thế giới lên chi phí nhiên liệu trong nước và ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước do phải bù lỗ cho các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, giá phôi thép sau thời kỳ tăng cao trên 400 USD/tấn nay đã giảm xuống 330-340 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước đã giảm xuống còn 7,5-7,8 triệu đ/tấn.
- Trong các tháng cuối năm cần tích cực triển khai hoàn thành một số dự án lớn như xi măng Sông Gianh, Hải phòng mới, thép cán nguội Phú Mỹ, Nhà máy sản xuất phôi và cán thép Phú Mỹ, kẽm điện phân Thái nguyên, điện Cao ngạn,...Tiếp tục triển khai theo tiến độ các dự án lớn khác như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Khí - điện - đạm Cà Mau, thuỷ điện Sơn La, thuỷ điện Tuyên Quang, Tổ hợp đồng Sin Quyền,...
- Về tăng trưởng công nghiệp toàn ngành cả năm 2005 có thể đạt 15,5-16% (trong đó khu vực nhà nước tăng 10-11%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 22-25%, khu vực ĐTNN tăng 14-15%).


2. Tình hình cụ thể các ngành:
Bảy tháng đầu năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt gần 30 tỷ kwh tăng 14,8% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 23 tỷ Kwh tăng 0,8%, điện mua ngoài chiếm 23,1% sản lượng toàn ngành và đạt trên 6,9 tỷ Kwh tăng 111,9% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia, ngoài ra một phần điện được mua từ Vân Nam (Trung Quốc) để cung cấp cho tỉnh Lào Cai và Hà Giang.
Trong tháng 5/2005 do lượng nước ở các hồ thuỷ điện thấp, đặc biệt là hồ Hoà bình mức nước đã thấp hơn mực nước “chết” nên nhà máy thuỷ điện không phát huy được công suất, xảy ra tình trạng thiếu điện ở một số khu vực ở phía Bắc. Hiện nay mực nước hồ đã trở lại bình thường và cung cấp ổn định cho hệ thống.
- Dầu thô khai thác đạt 10,5 triệu tấn giảm 12% so cùng kỳ (nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ hiện có không thể tăng được sản lượng, trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng thấp). Khí thiên nhiên đạt trên 3,9 tỷ m3 tăng 9,6% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 206,6 nghìn tấn giảm 1,7%.
- Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt trên 18 triệu tấn tăng 24% cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 17,3 triệu tấn tăng 24,7% với cùng kỳ do có thị trường xuất khẩu tốt.
- Vào thời điểm giữa năm các công trình xây dựng bắt đầu đẩy nhanh tiến độ nên các sản phẩm vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao như:
+ Thép cán đạt 1,96 triệu tấn tăng 16,6% cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 669 ngàn tấn tăng 12,2%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 773 nghìn tấn tăng 32,7%, khu vực ĐTNN đạt 521 nghìn tấn tăng 3,4% so cùng kỳ.
+ Xi măng đạt 15,8 triệu tấn tăng 14,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất đạt 10,1 triệu tấn tăng 11,2%, khu vực ĐTNN đạt 4,7 triệu tấn tăng 15,6%.
- Giấy các loại đạt 481 nghìn tấn tăng 7,5%, trong đó 2 khu vực chiếm tỷ trọng cao là quốc doanh đạt 158 nghìn tấn tăng 10,8%, ngoài quốc doanh đạt 305 nghìn tấn tăng 4,9%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 270 triệu m giảm 7,4% so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 533 triệu cái tăng 9,4%, quần áo dệt kim đạt 70,8 triệu cái tăng 0,2%. Hàng dệt may tiếp tục gặp khó khăn trong xuất khẩu nên có tốc độ tăng trưởng chậm.
- Phân hoá học đạt gần 1,3 triệu tấn (chưa tính phân NPK) tăng 51,9% do có nhà máy đạm Phú Mỹ đi vào sản xuất cung cấp phân urê cho thị trường trong nước. Cả năm phân các loại dự kiến đạt: 1,4 triệu tấn phân lân tăng 10%, 850 nghìn tấn phân urê tăng 87%, 2,1 triệu tấn phân NPK tăng 13,5% so với thực hiện năm 2004.


Vụ Kinh tế công nghiệp

    Tổng số lượt xem: 1041
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)