1. Tình hình chung:
Tháng 10 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 63.772 tỷ đồng tăng 3,2% so với tháng 9/2009 và tăng 11,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,8%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 15,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 12,1% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí tăng 2,1%, các ngành khác tăng 13,3%).
Tính chung mười tháng đầu năm 2010 GTSXCN ước đạt 568.960 tỷ đồng tăng 7% so với cùng kỳ (thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,6%, chiếm trọng 24,1% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 8,9% chiếm tỷ trọng 35,2% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,4% (trong đó dầu khí tăng 10,7%, các ngành khác tăng 6,9%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 5,7%, công nghiệp địa phương tăng 7,2%.[1]
Mười tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá (cao hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: dầu thô khai thác tăng 15,8%, thuốc lá điếu tăng 12,1%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 16,2%, xà phòng giặt tăng 19,5%, xi măng tăng 19,3%, thép tròn các loại tăng 18,7%, điều hoà nhiệt độ tăng 48,5%, tủ lạnh, tủ đá tăng 30,4%, điện sản xuất tăng 12,3%, nước máy thương phẩm tăng 9,1% so cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm có tăng trưởng ở mức thấp (thấp hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: than sạch tăng 4,2%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,9%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 0,4%, lốp ô tô, máy kéo tăng 2,4%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,6%, máy giặt tăng 0,2%, xe máy tăng 5%.
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có khí đốt thiên nhiên đạt 97,5%, khí hóa lỏng (LPG) đạt 99,1%, thuỷ hải sản chế biến đạt 92,3%, sữa bột đạt 87,8%, đường kính đạt 78%, bia đạt 98,2%, vải dệt từ sợi bông đạt 84,5%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,1%, giày thể thao đạt 95,5%, giấy, bìa các loại đạt 86,6%, phân hóa học đạt 93,2%, sơn hoá học đạt 99,2%, kính thuỷ tinh đạt 93,1%, gạch lát ceramic đạt 93,1%, bình đun nước nóng đạt 84,8%, tivi đạt 94,1%, ô tô đạt 91,9% (trong đó xe tải đạt 94,8%, xe chở khách tăng 5% so cùng kỳ).
Theo vùng lãnh thổ mười tháng đầu năm 2009 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng gồm: Tp. Hà Nội tăng 8,1%; Hải Phòng tăng 6,2%; Hải Dương tăng 4,3%; Quảng Ninh tăng 13,5%; Phú Thọ tăng 0,3%; Thanh Hóa tăng 12,1%; Đà Nẵng tăng 2,5%; Khánh Hoà tăng 8%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 7,2%; Bình Dương tăng 8,5%; Đồng Nai tăng 8,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,1%.
Riêng Vĩnh Phúc chỉ đạt 98,2% so cùng kỳ một phần do sản phẩm ôtô giảm so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Mười tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp; trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng khá phục vụ nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và xuất khẩu, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng cao đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt tăng trưởng cao thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
Phân tích chỉ số tồn kho các ngành công nghiệp chế biến (thời điểm ngày 01/10/2009) cho thấy toàn ngành công nghiệp có mức tồn kho tăng 6,3% (so với ngày 01/9/2009) thể hiện mức tiêu thụ của thị trường (kể cả trong nước và xuất khẩu) chưa được cải thiện nhiều và các nhà sản xuất cần có biện pháp tăng kích cầu cũng như điều chỉnh lượng sản xuất phùhợp nhu cầu thị trường. Một số ngành có mức tồn kho cao (hơn mức trung bình toàn ngành) so với ngày 01/9/2009 như: ngành xay xát, sản xuất bột thô tăng 9,3%, sản xuất bia và mạch nha tăng 14,4%, sản xuất đồ uống không cồn tăng 58,3%, sản xuất giày dép tăng 15,1%, sản xuất giấy nhăn và bao bì tăng 17,6%; sản xuất ximăng, vôi, vữa tăng 7,2%; sản xuất sắt, thép tăng 16,8%, sản xuất môtô, xe máy tăng 116%.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: trong tháng 10 giá dầu thô tăng so với các tháng trước (hiện ở mức 75-80 USD/thùng) tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước (trong tháng 10/2009 xăng A92 đã được điều chỉnh giảm xuống 15.200 đ/lít, tuy nhiên hiện các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đang kiến nghị tăng giá), giá sắt thép và ximăng vẫn giữ ở mức ổn định.
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước mười tháng đầu năm 2009 ước đạt 46,3 tỷ USD giảm 13,8% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 24,1 tỷ USD giảm 18% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 12,1 triệu tấn tăng 8%; than đá đạt 19,6 triệu tấn tăng 7,1%; hàng dệt may đạt7,5 tỷ USD giảm 1,5%; hàng giày dép đạt 3,2 tỷ USD giảm 16,1%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 2,2 tỷ USD tăng 0,1%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 592 triệu USD giảm 12,3%; dây và cáp điện đạt 651 triệu USD giảm 25%; sản phẩm nhựa đạt 671 triệu USD giảm 12,6%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 1,5 tỷ USD giảm 0,4%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,68 tỷ USD tăng 269%.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước mười tháng đầu năm 2009 ước đạt 55,1 tỷ USD giảm 22,7% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu gần 20 tỷ USD giảm 16,2% so cùng kỳ. Mười tháng đầu năm nhập siêu ước đạt 8,8 tỷ USD chiếm 19% kim ngạch xuất khẩu.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 11 triệu tấn tăng 0,6%; phân bón đạt 3,67 triệu tấn tăng 30% (trong đó phân urê 1,2 triệu tấn tăng 73%); hoá chất đạt 1,3 tỷ USD giảm 15%; sản phẩm hoá chất đạt 1,25 tỷ USD giảm 9,5%; thép các loại đạt 8,1 triệu tấn tăng 8,2% (trong đó phôi thép 2 triệu tấn giảm 3%); bông các loại đạt 253 nghìn tấn tăng 4,5%; sợi các loại đạt 406 nghìn tấn tăng 16%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,55 tỷ USD giảm 23%; ôtô nguyên chiếc đạt 56,5 nghìn chiếc tăng 20,7%; linh kiện, phụ tùng ôtô đạt 1,35 tỷ USD giảm 17%; xe máy nguyên chiếc đạt 94,6 nghìn chiếc giảm 15%; linh kiện xe máy đạt 467 triệu USD giảm 9%; chất dẻo nguyên liệu đạt 1,8 triệu tấn tăng 26,5%; giấy các loại đạt 848 nghìn tấn giảm 4%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 9,5 tỷ USD giảm 13% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong mười tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên sản xuất (hoá chất, giấy các loại, linh kiện phụ tùng ôtô, xe máy, nguyên liệu dệt, may, da), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (sản phẩm hoá chất, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước. Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất có dấu hiệu tăng như nhập khẩu sợi, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, bông các loại, phân bón các loại, cao su,... cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt. Riêng sản phẩm phân bón (đặc biệt là phân urê) có lượng nhập khẩu tăng cao trong khi sản phẩm sản xuất trong nước có dấu hiệu tăng tồn kho (tăng 2% so với 01/9/2009) cho thấy nhu cầu thị trường tăng cao, đồng thời khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước còn thấp và cần thiết xem xét về hàng rào bảo hộ đối với mặt hàng này.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 10/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,32 triệu tấn tăng 1,5% so với tháng 9/2009 và tăng 10,2% so với cùng kỳ (nguyên nhân tăng trưởng cao do một số mỏ mới đi vào khai thác trong năm 2009 như mỏ 09.2, mỏ 46.2), lũy kế mười tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 14 triệu tấn tăng 15,8% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất mười tháng đầu năm ước đạt 34,9 triệu tấn tăng 4,2% so với cùng kỳ.
- Điện sản xuất mười tháng đầu năm đạt 69,7 tỷ kwh tăng 12,3% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp so với các năm trước (thường ở mức 14-15%) tuy nhiên so với các sản phẩm công nghiệp khác thì mức tăng này là khá cao chủ yếu do nhu cầu không tăng nhiều vì ảnh hưởng của việc cắt giảm sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện như: luyện thép, hóa chất, dệt may, cơ khí.
- Phân hóa học (không tính phân NPK) mười tháng đầu năm sản xuất ước đạt 1,95 triệu tấn giảm 6,8% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại mười tháng đầu năm sản xuất đạt 3,78 triệu tấn tăng 18,7% so cùng kỳ.
- Xi măng sản xuất trong nước tăng cao, mười tháng đầu năm ước đạt 39,8 triệu tấn tăng 19,3% so cùng kỳ./.
[1] Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IIP (căn cứ vào tổng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và sử dụng quyền số là tỷ trọng giá trị tăng thêm trong công nghiệp để so sánh) thì toàn ngành công nghiệp 10 tháng tăng 6,5% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 10,5% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 30,7%; công nghiệp chế biến tăng 4,3% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 60,2%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 9,8% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 9,1%.
File đính kèm: CongnghiepT10.09.pdf
Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư