Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/11/2009-14:17:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2009
1. Tình hình chung:
Tháng 11 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 64.411 tỷ đồng tăng 3,6% so với tháng 10/2009 và tăng 13% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 17,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 3,3%, các ngành khác tăng 16,1%).
Tính chung mười một tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 631.871 tỷ đồng tăng 7,3% so với cùng kỳ (thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,6%, chiếm trọng 24,2% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,4% chiếm tỷ trọng 35,1% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,7% (trong đó dầu khí tăng 9,6%, các ngành khác tăng 7,5%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 5,4%, công nghiệp địa phương tăng 7,7%.[1]
Mười một tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá (cao hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: dầu thô khai thác tăng 13,5%, thuốc lá điếu tăng 12,1%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 17%, xà phòng giặt tăng 19,6%, xi măng tăng 18,5%, thép tròn các loại tăng 18,9%, điều hoà nhiệt độ tăng 46,1%, tủ lạnh, tủ đá tăng 31,4%, điện sản xuất tăng 13%, nước máy thương phẩm tăng 9,7% so cùng kỳ năm trước.
Một số sản phẩm có tăng trưởng ở mức thấp (thấp hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: than sạch tăng 5,6%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,6%, đường kính tăng 0,3%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2%, lốp ô tô, máy kéo tăng 2,5%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,9%, máy giặt tăng 0,7%, xe máy tăng 7,2%.
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có khí đốt thiên nhiên đạt 99,4 %, khí hóa lỏng (LPG) đạt 88,2%, thuỷ hải sản chế biến đạt 92,8%, sữa bột đạt 89,3%, bia đạt 99,6%, vải dệt từ sợi bông đạt 86,7%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,2%, giày thể thao đạt 94,4%; giấy, bìa các loại đạt 85,9%, phân hóa học đạt 94,8%, sơn hoá học đạt 99,9%, kính thuỷ tinh đạt 93,6%, gạch lát ceramic đạt 93,7%, bình đun nước nóng đạt 84,1%, tivi đạt 93,7%, ô tô đạt 93,4% (trong đó xe tải đạt 93%, xe chở khách đạt 93,8%) so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ mười một tháng đầu năm 2009 một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao hơn bình quân toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 8,6%; Quảng Ninh tăng 12,8%; Thanh Hóa tăng 13%; Khánh Hoà tăng 8%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 7,4%; Bình Dương tăng 9,2%; Đồng Nai tăng 9,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,2%. Một số tỉnh thành phố có mức tăng trưởng thấp hơn trung bình toàn ngành gồm: Hải Phòng tăng 7%; Vĩnh Phúc tăng 2,6%; Hải Dương tăng 4,8%; Phú Thọ tăng 3,4%; Đà Nẵng tăng 5%;
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Mười một tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp (một phần do việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nên tỷ trọng của khối doanh nghiệp này giảm xuống so với toàn ngành); trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng khá cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và xuất khẩu, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng cao đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt tăng trưởng cao thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: trong tháng 11 giá dầu thô tăng so với các tháng trước (hiện ở mức 77-81 USD/thùng) tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước (ngày 20/11/2009 xăng A92 tiếp tục tăng lên 16.300 đ/lít, sau khi đã tăng giá lên 15.500 đ/lít vào ngày 24/10/2009), tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam tăng đáng kể (lên mức gần 18.000 đ/USD theo tỷ giá ngân hàng ngày 24/11/2009, trong khi tỷ giá ngoài thị trường tự do lên mức 19.750 đ/USD) tạo áp lực cho các doanh nghiệp cần ngoại tệ để nhập khẩu và trực tiếp ảnh hưởng tăng giá hàng hoá (nhập khẩu hoặc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu) trên thị trường, giá thép xây dựng do nhà sản xuất tăng lên mức 12 triệu đồng/tấn (thép tại thị trường đã tăng lên mức 12,5-13 triệu đồng/tấn so với mức 11,5-12 triệu đồng/tấn vào tháng trước); giá phân bón đạm urê và phân DAP tăng 500-700 nghìn đồng/tấn (phân urê 6 triệu đồng/tấn, phân DAP 7,2 triệu đồng/tấn) do giá quốc tế tăng nhưng lượng tồn kho trong nước vẫn ở mức cao; giá thức ăn gia súc cũng tăng cao (hiện ở mức 200 nghìn đồng/bao 25 kg, tăng 10.000 đồng so với đầu tháng). Như vậy việc tăng giá hầu hết các mặt hàng sẽ tạo áp lực lên các nhà sản xuất và người tiêu dùng, tăng chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát vào các tháng cuối năm 2009.
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước mười một tháng đầu năm 2009 ước đạt 51,4 tỷ USD giảm 11,4% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 27 tỷ USD giảm 15,5% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu tăng gồm: dầu thô đạt 12,67 triệu tấn tăng 3,1% (nhưng về kim ngạch chỉ đạt 5,77 tỷ USD giảm 41,7%) ; than đá đạt 22,2 triệu tấn tăng 19,8% (nhưng về kim ngạch chỉ đạt 1,17 tỷ USD giảm 11,3%); hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 2,5 tỷ USD tăng 1%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 1,76 tỷ USD tăng 2,3%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,7 tỷ USD tăng 163,9%; hoá chất và sản phẩm hoá chất đạt 318 triệu USD tăng 0,6%.
Một số mặt hàng xuất khẩu giảm gồm: hàng dệt may đạt8,17 tỷ USD giảm 1,3%; hàng giày dép đạt 3,57 tỷ USD giảm 16%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 661 triệu USD giảm 11,4%; dây và cáp điện đạt 773 triệu USD giảm 17,8%; sản phẩm nhựa đạt 732 triệu USD giảm 13,4%; sắt thép và sản phẩm đạt 829 triệu USD giảm 52,1% (chủ yếu do năm 2008 các doanh nghiệp nhập sắt thép về sau đó tái xuất do nhu cầu trong nước không tăng nhiều vì khủng hoảng).
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước mười một tháng đầu năm 2009 ước đạt 61,6 tỷ USD giảm 18% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu 22,4 tỷ USD giảm 13,2% so cùng kỳ. Mười tháng đầu năm nhập siêu ước đạt 10,2 tỷ USD chiếm 19,8% kim ngạch xuất khẩu.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng gồm: xăng dầu các loại đạt 11,86 triệu tấn tăng 0,62%; phân bón đạt 3,92 triệu tấn tăng 35% (trong đó phân urê 1,27 triệu tấn tăng 80,8%); dược phẩm đạt 969 triệu USD tăng 25,7%; nguyên liệu dược phẩm đạt 161 triệu USD tăng 9,5%; chất dẻo nguyên liệu đạt 2 triệu tấn tăng 27,6%; bông các loại đạt 278 nghìn tấn tăng 4,5%; sợi các loại đạt 453 nghìn tấn tăng 19,5%; sắt thép các loại đạt 9 triệu tấn tăng 16,2% (trong đó phôi thép 2,2 triệu tấn tăng 5,8%);máy vi tính và linh kiện điện tử đạt 3,5 tỷ USD tăng 3,2%; cao su 279 nghìn tấn tăng 58,5%; giấy các loại đạt 936 nghìn tấn tăng 12%; ôtô nguyên chiếc đạt 66,3 nghìn chiếc tăng 37%.
Một số mặt hàng công nghiệp chủ yếu giảm gồm: hoá chất đạt 1,45 tỷ USD giảm 12%; sản phẩm hoá chất đạt 1,39 tỷ USD giảm 7%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,74 tỷ USD giảm 21%; linh kiện, phụ tùng ôtô đạt 1,6 tỷ USD giảm 9%; xe máy nguyên chiếc đạt 102 nghìn chiếc giảm 13%; linh kiện xe máy đạt 541 triệu USD giảm 5,3%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 10,6 tỷ USD giảm 10,3% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong mười một tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên liệu sản xuất (hoá chất, linh kiện phụ tùng ôtô, xe máy; nguyên liệu dệt, may, da), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (sản phẩm hoá chất, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước.
Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất tăng như sợi, bông các loại, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, phân bón các loại, cao su,... cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
Riêng sản phẩm phân bón (đặc biệt là phân urê) có lượng nhập khẩu tăng cao trong khi sản phẩm sản xuất trong nước đang tồn kho cho thấy nhu cầu thị trường tăng cao, đồng thời khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước còn thấp và cần thiết xem xét về hàng rào bảo hộ đối với mặt hàng này. Về mặt hàng ôtô nhập khẩu nguyên chiếc cũng tăng cao cho thấy thị trường trong nước vẫn có nhu cầu lớn trong khi khả năng đáp ứng của các liên doanh lắp ráp xe có hạn.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 11/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,25 triệu tấn giảm 4,3% so với tháng 10/2009 và giảm 5,6% so với cùng kỳ (nguyên nhân do sụt giảm sản lượng ở một số mỏ mới đi vào khai thác), lũy kế mười một tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 15,25 triệu tấn tăng 13,5% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất mười một tháng đầu năm ước đạt 38,77 triệu tấn tăng 5,6% so với cùng kỳ, trong đó riêng Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt nam xuất khẩu 21,6 triệu tấn tăng 29,1% so cùng kỳ.
- Điện sản xuất mười một tháng đầu năm đạt 73,4 tỷ kwh tăng 13% so với cùng kỳ, đây là mức tăng khá cao so với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp (7,3%), nguyên nhân do nhu cầu điện sinh hoạt vẫn ở mức cao.
- Phân hóa học (không tính phân NPK) mười một tháng đầu năm sản xuất ước đạt 2,2 triệu tấn giảm 5,2% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại mười một tháng đầu năm sản xuất đạt 4,2 triệu tấn tăng 18,9% so cùng kỳ.
- Xi măng mười tháng đầu năm ước đạt 43,5 triệu tấn tăng 18,5% so cùng kỳ./.


[1] Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IIP (căn cứ vào tổng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và sử dụng quyền số là tỷ trọng giá trị tăng thêm trong công nghiệp để so sánh) thì toàn ngành công nghiệp 11 tháng tăng 7% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 11,4% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 30,7%; công nghiệp chế biến tăng 4,8% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 60,2%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 8,2% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 9,1%.

File đính kèm:
BCCongnghiepT11.09.pdf

Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1324
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)