1. Tình hình chung:
Tháng 02 năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 53.043 tỷ đồng giảm 16,6% so với tháng 01 năm 2010 (do thời gian nghỉ Tết kéo dài gần 10 ngày và rơi vào tháng 02, trong khi Tết Nguyên đán năm 2009 rơi vào tháng 01) và tăng 2.8% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,4%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 3,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,4% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí giảm 13,8%, các ngành khác tăng 8,3%).
Cộng dồn 2 tháng đầu năm 2010 GTSXCN ước đạt 116.675 tỷ đồng tăng 16,2% so với cùng kỳ (cao hơn kế hoạch cả năm là 12%), trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 9,9% chiếm tỷ trọng 22,1% toàn ngành, khu vực ngoài nhà nước tăng 18,5% chiếm tỷ trọng 36,5% toàn ngành., khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,8% chiếm tỷ trọng 41,4% toàn ngành.
Tính theo chỉ số phát triển công nghiệp 2 tháng đầu năm sản lượng công nghiệp tăng 12,9%, trong đó công nghiệp khai thác mỏ giảm 1,7%, công nghiệp chế biến 18,8%, sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 17,8%.
Hai tháng đầu năm nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch ngành (12%) gồm: các sản phẩm năng lượng như điện sản xuất tăng 19%, khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 12,3%, khí hoá lỏng tăng 65,3% (do có thêm sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung Quất); các sản phẩm tiêu dùng như sữa bột tăng 13,2%, bia tăng 18,8%, điều hoà nhiệt độ tăng 85,7%, tủ lạnh tủ đá tăng 49,6%, máy giặt tăng 18,4%, bình đun nước nóng tăng 41,6%, tivi các loại tăng 19,4%, vải dệt từ sợi bông tăng 31,8%, giày thể thao tăng 17,1%, giấy bìa các loại tăng 57,1%, sơn hoá học tăng 32,1%, xà phòng tăng 27,7%, lốp ôtô máy kéo tăng 86,2%, nước máy thương phẩm tăng 15,1%; vật liệu xây dựng như kính thuỷ tinh tăng 74,1%, gạch xây bằng đất nung tăng 18,8%, gạch lát ceramic tăng 70,5%, xi măng tăng 35,9%; một số sản phẩm cơ khí như ôtô tăng 35,3%, xe máy tăng 35,9%.
Một số sản phẩm tăng trưởng thấp hơn kế hoạch ngành gồm: than đá tăng 7,6%; thủy hải sản chế biến tăng 2,7%; thuốc lá điếu tăng 8,1%; vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 6,8%; quần áo mặc thường cho người lớn tăng 1,2%, giày dép ủng da cho người lớn tăng 9,7%.
Một số sản phẩm giảm so cùng kỳ gồm: dầu mỏ thô khai thác đạt 80,1%; dầu thực vật tinh luyện đạt 95,5%; đường kính đạt 98.8%; phân hóa học đạt 96%.
Theo vùng lãnh thổ hai tháng đầu năm tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch toàn ngành (12%) có Hải Phòng tăng 14,8%; Vĩnh Phúc tăng 53,2%; Hải Dương tăng 26,4%; Phú Thọ tăng 61%; Quảng Ninh tăng 15,6%; Thanh Hoá tăng 14,9%; Đà Nẵng tăng 44,1% ; Tp. Hồ Chí Minh tăng 17,9%; Bình Dương tăng 35,1%; Đồng Nai tăng 19,3% so cùng kỳ.
Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp so với kế hoạch toàn ngành hoặc giảm so cùng kỳ gồm Tp. Hà Nội tăng 5,1%; Khánh Hoà tăng 6%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 0,2%; Cần Thơ tăng 5,4% so cùng kỳ.
Một số nhận xét về tăng trưởng công nghiệp 2 tháng đầu năm 2010: về tốc độ tăng trưởng đạt cao hơn mức kế hoạch năm 2010, trong đó khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng cao và có tốc độ tăng cao, trong khi khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Về các sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao bao gồm cả năng lượng, các sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước (tăng cao do nhu cầu dịp Tết Nguyên đán) và xuất khẩu; vật liệu xây dựng và cơ khí ôtô.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng (thực phẩm, công nghiệp chế biến) tăng trong dịp Tết và khả năng sẽ giảm dần sau Tết khi nguồn cung dồi dào trở lại; giá xi măng trong năm 2010 tăng so với cuối năm 2009 do thuế VAT trở lại mức 10% (sau khi hết áp dụng biện pháp kích cầu của Chính phủ vào cuối năm 2009) nên giá bán khoảng 0,9-1,1 triệu đồng/tấn ở miền Bắc và 1,1-1,4 triệu đồng/tấn ở miền Nam; giá thép cũng tăng so với cuối năm 2009 hiện ở mức 11,7-12,5 triệu đồng/tấn do giá phôi thép, thép phế liệu nhập khẩu tăng cùng với việc tăng giá xăng dầu (làm tăng chi phí nhiên liệu và vận tải); giá xăng dầu tiếp tục tăng (đợt mới nhất ngày 21/2/2010) và hiện ở mức 17-17,5 nghìn đồng/lít sẽ tác động làm tăng chi phí vận tải và nhiên liệu cho ngành sản xuất. Trong thời gian tới tiếp tục có sự điều chỉnh tăng giá điện (bình quân tăng khoảng 6,8%), giá than (giá bán cho các hộ tiêu thụ lớn trong nước như điện, xi măng, phân bón sẽ tiệm cận với giá xuất khẩu) nên tiếp tục ảnh hưởng tăng giá các mặt hàng tiêu dùng và công nghiệp. Như vậy với xu hướng tăng giá nhiều mặt hàng công nghiệp trong thời gian tới sẽ ảnh hưởng đến mặt bằng chung về giá trong năm 2010.
2. Tình hình cụ thể một số ngành:
- Điện sản xuất 2 tháng đạt 12,9 tỷ Kwh tăng 19% so cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác tháng 2/2010 đạt 1,14 triệu tấn, 2 tháng đạt 2,36 triệu tấn giảm gần 20% so với cùng kỳ do giới hạn kỹ thuật của các mỏ (một số mỏ mới đưa vào khai thác chưa phát huy được công suất); khí đốt thiên nhiên dạng khí khai thác tháng 02 đạt 640 triệu m3, 2 tháng đạt 1,42 tỷ m3 tăng 12,3% so cùng kỳ.
- Than khai thác tháng 02/2010 đạt 2,65 triệu tấn, 2 tháng đạt 6,25 triệu tấn tăng 7,6% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại tháng 02/2010 đạt 265 nghìn tấn, 2 tháng đạt 630 nghìn tấn tăng 12,5% so cùng kỳ.
- Xi măng tháng 02/2010 đạt 3,6 triệu tấn, 2 tháng đạt 8 triệu tấn đạt mức tăng cao 36% so cùng kỳ.
- Lắp ráp ôtô 2 tháng đạt 12,5 nghìn xe tăng 35,2% so cùng kỳ; xe máy 2 tháng đạt 548,6 nghìn xe tăng 35,9% so cùng kỳ.
- Bia các loại đạt 305 triệu lít tăng 18,8% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính NPK) đạt 364,4 nghìn tấn giảm 4%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong hai tháng đầu năm 2010 ước đạt 8,7 tỷ USD giảm 2,2% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 1,36 triệu tấn giảm 51,3%; than đá đạt 2,2 triệu tấn giảm 34,7%; hàng dệt may đạt 1,46 tỷ USD tăng 13%; hàng giày dép đạt 682 triệu USD tăng 4,1%; máy vi tính, sp điện tử và linh kiện đạt 410 triệu USD tăng 30,6%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 119 triệu USD tăng 7,2%; dây và cáp điện đạt 168 triệu USD tăng 100%; sản phẩm nhựa đạt 127 triệu USD tăng 16,5%; sắt thép và sản phẩm đạt 184 triệu USD tăng 291,5% so cùng kỳ; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 367 triệu USD tăng 66,1%
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong hai tháng đầu năm 2010 ước đạt 10,36 triệu USD tăng 35,7% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt 1,54 triệu tấn giảm 21.5%; khí đốt hóa lỏng đạt 109 nghìn tấn giảm 21%; sản phẩm khác từ dầu mỏ đạt 103 triệu USD tăng 66,1%; hóa chất đạt 237 triệu USD tăng 25,4%; sản phẩm hóa chất đạt 242 triệu USD tăng 48,5%; giấy các loại đạt 115 nghìn tấn tăng 5.5%; bông các loại đạt 51 nghìn tấn tăng 121,7%; sợi các loại đạt 72 nghìn tấn tăng 24,1%; vải các loại đạt 523 triệu USD tăng 9,4%; nguyên phụ liệu dệt may da đạt 250 triệu USD tăng 12,6%; sắt thép các loại đạt trên 1 triệu tấn tăng 39,8% (trong đó phôi thép đạt 289 nghìn tấn tăng 78,4%); kim loại thường đạt 81 nghìn tấn tăng 39,7%; máy tính và linh kiện điện tử đạt 620 triệu USD tăng 59,4%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 1,8 tỷ USD tăng 11,4%; ôtô nguyên chiếc đạt 5917 chiếc tăng 66,4%; linh kiện phụ tùng ôtô đạt 275 triệu USD tăng 154,6%; xe máy nguyên chiếc đạt 17.581 chiếc tăng 11%; linh kiện xe máy đạt 97 triệu USD tăng 51,6%.
4. Một số nhận xét và kiến nghị:
- Do giá nhiều mặt hàng công nghiệp sẽ tăng trong năm 2010 (bao gồm cả chủ quan và khách quan) như điện, than, xăng dầu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và vận tải của hầu hết mặt hàng khác (nguy cơ lạm phát tăng) nên các cơ quan quản lý nhà nước cần có sự theo dõi chặt chẽ và áp dụng các biện pháp phù hợp để quản lý giá cả tránh tăng đột biến ảnh hưởng đến tình hình ổn định về kinh tế – xã hội.
- Đề xuất xem xét tiếp tục áp dụng biện pháp kích cầu (ở quy mô và với các ngành hàng phù hợp) để tiêu thụ các sản phẩm trong nước và khuyến khích xuất khẩu (bao gồm sắt thép, xi măng, các mặt hàng tiêu dùng khác).
- Về tỷ giá USD/VND xu hướng tăng so với năm 2009 một mặt có tác động khuyến khích xuất khẩu, mặt khác làm tăng chi phí đầu tư và sản xuất (do máy móc thiết bị và nguyên liệu sản xuất nhập khẩu) nên cần có biện pháp điều hành phù hợp; về lãi suất ngân hàng cũng tăng cao gây khó khăn cho các doanh nghiệp cần huy động vốn để sản xuất và đầu tư./.
File đính kèm: BCCNT2.10.pdf
Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư