Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/12/2009-14:40:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp, xây dựng tháng 12 và ước cả năm 2009
1. Tình hình chung:
Tháng 12 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 66.045 tỷ đồng tăng 4,6% so với tháng 11/2009 và tăng 13,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,5%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 17%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,9% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 8,6%, các ngành khác tăng 18,2%).
Tính chung cả năm 2009 GTSXCN ước đạt 696.577 tỷ đồng tăng 7,6% so với cùng kỳ (thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,7%, chiếm tỷ trọng 24,3% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,9% chiếm tỷ trọng 35,1% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,1% (trong đó dầu khí tăng 9,2%, các ngành khác tăng 8%) chiếm tỷ trọng 40,6% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 5,5%, công nghiệp địa phương tăng 8,2%.[1] Phân theo ngành kinh tế cấp I, công nghiệp khai thác tăng 9,3% chiếm tỷ trọng 5,62%, công nghiệp chế biến tăng 7,3% chiếm tỷ trọng 88,84%, công nghiệp điện, ga, nước tăng 11,8% chiếm tỷ trọng 5,54% toàn ngành.
Năm 2009, các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá (cao hơn mức trung bình toàn ngành) so với năm 2008 gồm: dầu thô khai thác tăng 9,8%, than sạch tăng 9,9%, khí hóa lỏng (LPG) tăng 39,3%, bia các loại tăng 8,5%, thuốc lá điếu tăng 10,5%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 9,6%, xà phòng giặt các loại tăng 20,2%, xi măng tăng 19,2%, thép tròn các loại tăng 19,1%, điều hoà nhiệt độ tăng 41,8%, tủ lạnh, tủ đá tăng 29,5%, điện sản xuất tăng 11,9%, nước máy thương phẩm tăng 9,7%.
Một số sản phẩm có tăng trưởng ở mức thấp (thấp hơn mức trung bình toàn ngành) so với năm 2008 gồm: khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 0,8%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,1%, đường kính tăng 0,6%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2,9%, lốp ô tô, máy kéo tăng 7,5%, sơn hoá học các loại tăng 0,5%, kính thuỷ tinh tăng 1,8%, gạch xây bằng đất nung tăng 5,2%, gạch lát ceramic tăng 5%, xe máy tăng 6%.
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với năm 2008 có thuỷ hải sản chế biến đạt 93,7%, sữa bột đạt 94,1%, vải dệt từ sợi bông đạt 87,2%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,8%, giày thể thao đạt 95,5%; giấy, bìa các loại đạt 86%, phân hóa học đạt 97%, máy giặt đạt 98,2%, bình đun nước nóng đạt 84,8%, tivi đạt 93,8%, ô tô đạt 95,1% (trong đó xe tải đạt 96,8%, xe chở khách đạt 93%).
Theo vùng lãnh thổ cả năm 2009 một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao hơn bình quân toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 9,4%; Hải Phòng tăng 7,7%; Quảng Ninh tăng 15,8%; Thanh Hóa tăng 13,9%; Đà Nẵng tăng 8,3%; Khánh Hoà tăng 10%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Bình Dương tăng 10,3%; Đồng Nai tăng 10,6%; Cần Thơ tăng 9,1%. Một số tỉnh thành phố có mức tăng trưởng thấp hơn trung bình toàn ngành gồm: Vĩnh Phúc tăng 5%; Hải Dương tăng 6,2%; Phú Thọ tăng 5,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 3,1%.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Tháng 12 năm 2009 ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên (tăng 13,4% so cùng kỳ) góp phần vào tăng trưởng chung của cả năm đạt 7,6% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%, mười một tháng tăng 7,3%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp (một phần do việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nên tỷ trọng của khối doanh nghiệp này giảm xuống so với toàn ngành, một phần do hiệu quả sản xuất của khu vực này vẫn thấp hơn so với hai khu vực còn lại của nền kinh tế); trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng khá cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất (khoảng trên 2 triệu tấn) và xuất khẩu, than đá, khí hoá lỏng (bao gồm sản phẩm của Nhà máy lọc dầu Dung Quất), điện sản xuất, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng cao đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá, bia, thuốc lá) cũng đạt tăng trưởng cao thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư.[2]
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: trong tháng 12 giá dầu thô giao động ở mức 72-80 USD/thùng (cao hơn các tháng trước) tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách. Về giá xăng dầu từ ngày 15/12/2009 Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu đã chính thức đi được áp dụng, theo đó giá bán lẻ xăng dầu trong nước được thực hiện theo cơ chế thị trường, sau khi áp dụng theo cơ chế mới, giá xăng trong nước đã giảm chút ít so với mức cũ (cụ thể giá xăng A92 tại Vùng 1 (các tỉnh, thành phố nằm gần cảng đầu nguồn) còn 15.950 đồng/lít so với mức 16.300 đồng/lít mới tăng vào ngày 20/11/2009). Tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam tiếp tục ở mức cao (theo tỷ giá ngân hàng ngày 24/12/2009 là 18.475 đ/USD) tạo áp lực cho các doanh nghiệp cần ngoại tệ để nhập khẩu và trực tiếp ảnh hưởng tăng giá hàng hoá (nhập khẩu hoặc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu) trên thị trường. Giá thép xây dựng do nhà sản xuất tăng lên mức 12 triệu đồng/tấn (chưa tính thuế GTGT); giá xi măng ổn định ở mức 875.000 đ/tấn; giá phân bón đạm urê và phân DAP tăng 500-700 nghìn đồng/tấn (phân urê 6 triệu đồng/tấn, phân DAP 7,2 triệu đồng/tấn) do giá quốc tế tăng nhưng lượng tồn kho trong nước vẫn ở mức cao; giá thức ăn gia súc cũng tăng cao (hiện ở mức 200 nghìn đồng/bao 25 kg, tăng 10.000 đồng so với đầu tháng).
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 2009 ước đạt 56,7 tỷ USD giảm 9,5% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 29,9 tỷ USD giảm 13,4% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu tăng gồm: than đá đạt 25,1 triệu tấn tăng 30% (về kim ngạch đạt 1,32 tỷ USD giảm 4,5%); hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 2,77 tỷ USD tăng 5,1%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt trên 2 tỷ USD tăng 9%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,72 tỷ USD tăng 243,4%; hoá chất và sản phẩm hoá chất đạt 358 triệu USD tăng 4,1%.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm gồm: dầu thô đạt 13,4 triệu tấn giảm 2,4% do cung cấp cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất khoảng 2 triệu tấn (về kim ngạch đạt 6,2 tỷ USD giảm 40%); hàng dệt may đạt gần 9,1 tỷ USD giảm 0,4%; hàng giày dép đạt 4 tỷ USD giảm 15,8%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 721 triệu USD giảm 13,4%; dây và cáp điện đạt 879 triệu USD giảm 12,2%; sản phẩm nhựa đạt 802 triệu USD giảm 12,9%; sắt thép và sản phẩm đạt 916 triệu USD giảm 63% (chủ yếu do năm 2008 các doanh nghiệp nhập sắt thép về sau đó tái xuất khi nhu cầu trong nước không tăng nhiều vì khủng hoảng).
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2009 ước đạt 68,7 tỷ USD giảm 14,9% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu 24,87 tỷ USD giảm 10,8% so cùng kỳ. Cả năm nhập siêu ước gần 12 tỷ USD chiếm 21,1% kim ngạch xuất khẩu.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng gồm: phân bón 4,3 triệu tấn tăng gần 42% (trong đó phân urê 1,38 triệu tấn tăng 96,3%); dược phẩm trên 1 tỷ USD tăng 27%; nguyên liệu dược phẩm 173 triệu USD tăng 9,5%; chất dẻo nguyên liệu 2,2 triệu tấn tăng 25,8%; sợi các loại 495 nghìn tấn tăng 19,5%; sắt thép các loại 9,6 triệu tấn tăng 13,8% (trong đó phôi thép 2,4 triệu tấn bằng mức năm 2008);máy vi tính và linh kiện điện tử 3,9 tỷ USD tăng 5,8%; cao su 306 nghìn tấn tăng 64,5%; giấy các loại trên 1 triệu tấn tăng 1,5%; ôtô nguyên chiếc 76,3 nghìn chiếc tăng 49%.
Một số mặt hàng công nghiệp chủ yếu giảm gồm: xăng dầu các loại đạt 12,5 triệu tấn giảm 3,5% (về kim ngạch đạt 6,1 tỷ USD giảm 44% do giá giảm); hoá chất đạt 1,6 tỷ USD giảm 10%; sản phẩm hoá chất đạt 1,55 tỷ USD giảm 3%; bông các loại đạt 298 nghìn tấn giảm 0,7%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,93 tỷ USD giảm 18%; linh kiện, phụ tùng ôtô đạt 1,77 tỷ USD giảm 3,3%; xe máy nguyên chiếc đạt 110,6 nghìn chiếc giảm 14,3%; linh kiện xe máy đạt 610 triệu USD giảm 1,3%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 12,4 tỷ USD giảm 5,6% so cùng kỳ.
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên liệu sản xuất (hoá chất, linh kiện phụ tùng ôtô, xe máy; nguyên liệu dệt, may, da), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (sản phẩm hoá chất, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước.
Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất tăng như sợi, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, phân bón các loại, cao su,... cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
Riêng sản phẩm phân bón (đặc biệt là phân urê) có lượng nhập khẩu tăng cao do nhu cầu thị trường tăng cao và một phần do giá giảm (giá trung bình năm 2009 là 291 USD/tấn, trong khi năm 2008 là 404 USD/tấn). Về mặt hàng ôtô nhập khẩu nguyên chiếc cũng tăng cao cho thấy thị trường trong nước tiếp tục tăng, trong khi khả năng đáp ứng của các liên doanh lắp ráp xe có hạn.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 12/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,14 triệu tấn giảm 6,4% so với tháng 11/2009 và giảm 22% so với cùng kỳ (nguyên nhân do sụt giảm sản lượng tại mỏ Rồng và Bạch Hổ của Liên doanh Vietsovpetro), lũy kế cả năm dầu thô khai thác ước đạt 16,36 triệu tấn tăng 9,8% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất cả năm ước đạt 43,7 triệu tấn tăng 8,7% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu 25,1 triệu tấn tăng 30% so cùng kỳ.
- Điện sản xuất cả năm đạt 80,7 tỷ kwh tăng 11,9% so với cùng kỳ, đây là mức tăng khá cao so với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp (7,6%), nguyên nhân do nhu cầu điện sinh hoạt vẫn ở mức cao.
- Phân hóa học (không tính phân NPK) cả năm sản xuất ước đạt 2,38 triệu tấn giảm 3% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại cả năm sản xuất đạt 4,56 triệu tấn tăng 18,9% so cùng kỳ.
- Xi măng cả năm ước đạt 47,7 triệu tấn tăng 19,2% so cùng kỳ.
4. Về ngành xây dựng:
Ngành xây dựng năm 2009 tăng trưởng cao do chính sách kích cầu của Chính phủ, đồng thời giá vật liệu xây dựng (thép xây dựng, gạch) giảm so với năm 2008 và lượng sản xuất trong nước tăng cao (xi măng, thép xây dựng) tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá thực tế ước thực hiện năm 2009 đạt 440.333 tỷ đồng tăng 22,6% so với năm 2008, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 13% chiếm tỷ trọng 23%, khu vực ngoài nhà nước tăng 25,4% chiếm tỷ trọng 74%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 11,2% chiếm tỷ trọng 3%../.


[1] Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IIP (căn cứ vào tổng sản lượng các sản phẩm công nghiệp và sử dụng quyền số là tỷ trọng giá trị tăng thêm trong công nghiệp để so sánh) thì toàn ngành công nghiệp năm 2009 ước tăng 7,1% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 10,2% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 30,7%; công nghiệp chế biến tăng 5,6% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 60,2%; sản xuất, phân phối điện, nước, gas tăng 8,1% chiếm tỷ trọng trong giá trị tăng thêm là 9,1%.
[2]Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) cũng cho thấy xu hướng tương tự: chỉ số phát triển ngành khai thác than và dầu khí đều tăng trên 10%, sản xuất bia tăng 12%, thuốc lá tăng 11%, giấy nhăn và bao bì tăng 19%, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 9,6%.

File đính kèm:
BCCongnghiepT12.09.pdf

Vụ Kinh tế công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1309
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)