Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 22/04/2010-15:57:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp 4 tháng đầu năm 2010
1/ Tình hình chung:
Tháng 4 năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 62.666 tỷ đồng tăng 3,8% so với tháng 3 năm 2010 và tăng 13% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8,7%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,9%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,6% so với cùng kỳ (trong đó dầu khí giảm 10,3%, các ngành khác tăng 21,6%).
Tính chung bốn tháng đầu năm 2010 GTSXCN ước đạt 236.704 tỷ đồng tăng 13,5% so với cùng kỳ (cao hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 12%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,3%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 12,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,1% (trong đó dầu khí giảm 10,4%, các ngành khác tăng 20,1%). Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 14,2%, công nghiệp địa phương tăng 10,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,1%.
Bốn tháng đầu năm 2010 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành (12%) gồm: khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 15,4%, khí hóa lỏng (LPG) tăng 82,3%, sữa bột tăng 31,2%, quần áo mặc thường cho người lớn tăng 13,8%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 12,2%, giấy, bìa các loại tăng 14,5%, sơn hoá học tăng 14,4%, xà phòng giặt tăng 23,5%, lốp ô tô, máy kéo tăng 61,9%, kính thủy tinh tăng 37,5%, gạch xây bằng đất nung tăng 15,3%, gạch lát ceramic tăng 24,3%, xi măng tăng 15,7%, điều hoà nhiệt độ tăng 45,4%, tủ lạnh, tủ đá tăng 28,9%, ô tô tăng 35,1% (riêng xe tải tăng 31%), xe máy tăng 34%, điện sản xuất tăng 19,8%, nước máy thương phẩm tăng 12%.
Một số sản phẩm có tăng trưởng nhưng thấp hơn kế hoạch toàn ngành gồm: than đá (than sạch) tăng 5,4%, thuỷ hải sản chế biến tăng 11,8%, bia tăng 11,7%, thuốc lá điếu tăng 8,9%, vải dệt từ sợi bông tăng 6%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 7,2%, giày thể thao tăng 10,7%, phân hóa học tăng 7,8%, thép tròn các loại tăng 5,8%,máy giặt tăng 2,5%, bình đun nước nóng tăng 5,3%, tivi tăng 9,9%, so cùng kỳ năm trước.
Các sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu mỏ thô khai thác đạt 81,2%, dầu thực vật tinh luyện đạt 99,6%, đường kính đạt 96,4% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ bốn tháng đầu năm 2010 nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao gồm: Tp. Hà Nội tăng 12,3%; Hải Phòng tăng 15,4%; Vĩnh Phúc tăng 45,3%; Hải Dương tăng 19,6%; Phú Thọ tăng 30%; Quảng Ninh tăng 12,6%; Thanh Hóa tăng 16,5%; Đà Nẵng tăng 21,8%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 14,5%; Bình Dương tăng 18,5%; Đồng Nai tăng 13,2%; Cần Thơ tăng 12,1%. Một số tỉnh thành phố có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành gồm Khánh Hoà tăng 8,2%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 9,7%.
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
Bốn tháng đầu năm tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp đạt khá, vượt kế hoạch đề ra (12%), trong đó cả 3 khu vực kinh tế đều có mức tăng trưởng (khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục duy trì tăng trưởng cao hơn so với kế hoạch toàn ngành). Về các sản phẩm công nghiệp hầu hết đều có tăng trưởng bao gồm cả khai khoáng (trừ dầu thô), công nghiệp chế biến (dệt may, giầy dép, thực phẩm), công nghiệp vật liệu xây dựng cho thấy thị trường trong nước và xuất khẩu đều đã phục hồi và phát triển. Về các tỉnh thành phố hầu hết đều có mức tăng trưởng cao so với kết hoạch đề ra.
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp quan trọng như xăng dầu, than, điện giữ ổn định như tháng 3/2010 (riêng thuế nhập khẩu xăng dầu đã được Bộ Tài chính điều chỉnh giảm để giảm áp lực tăng giá do giá nhập khẩu mặt hàng này vẫn ở mức cao), giá thép xây dựng trên thị trường tiếp tục ở mức cao (17 triệu đ/tấn) do giá nguyên liệu đầu vào tăng (phôi thép, thép phế) – hiện nay Bộ Tài chính đang chủ trì kiểm tra, rà soát các doanh nghiệp ngành thép để tránh tình trạng tăng giá do đầu cơ gây mất ổn định thị trường. Về tỷ giá ngoại tệ duy trì ổn định ở mức 19 nghìn VND/USD, lãi suất vay vốn có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao (15-15,5%/năm).
2. Về xuất nhập khẩu:
- Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước bốn tháng đầu năm 2010 ước đạt 20,1 tỷ USD tăng 8,9% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 9,4 tỷ USD tăng 44,2% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt gần 2,9 triệu tấn giảm 47,2%; than đá đạt 6,8 triệu tấn giảm 11,7%; hàng dệt may đạt 3 tỷ USD tăng 19%; hàng giày dép đạt 1,3 tỷ USD tăng 5,7%; hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 985 triệu USD tăng 39,1%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 265 triệu USD tăng 9,1%; dây điện và dây cáp điện đạt 413 triệu USD tăng 123,2%; sản phẩm nhựa đạt 305 triệu USD tăng 27,6%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 910 triệu USD tăng 74,7%; sắt thép và sản phẩm thép đạt 549 triệu USD tăng 84,2 so với cùng kỳ.
- Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 4 tháng đầu năm 2010 ước đạt 24,8 tỷ USD tăng 35,6% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu đạt 10,2 tỷ USD tăng 55,6% so cùng kỳ.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm: xăng dầu các loại đạt gần 3,5 triệu tấn giảm 23,2%; phân bón đạt 1,12 triệu tấn giảm 30,8%; thép các loại đạt 2,55 triệu tấn tăng 18,1%; bông các loại đạt 199 nghìn tấn tăng 105,1%; sợi các loại đạt 167 nghìn tấn tăng 17,6%; ôtô nguyên chiếc đạt 12,6 nghìn chiếc tăng 2,1%; linh kiện ôtô đạt 598 triệu USD tăng 100,7%; xe máy nguyên chiếc đạt 30,4 nghìn chiếc giảm 28,7%; linh kiện xe máy đạt 249 triệu USD tăng 81,8%; chất dẻo nguyên liệu đạt 693 nghìn tấn tăng 7,6%; giấy các loại đạt 287 nghìn tấn tăng 8,7%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 4 tỷ USD tăng 14,8% so cùng kỳ.
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
- Tháng 4/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,15 triệu tấn giảm 6,1% so với tháng 3/2010 và giảm 18,8% so với cùng kỳ, tích lũy bốn tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 4,74 triệu tấn giảm 18,8% so với cùng kỳ, nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ đang khai thác trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng thấp. Lượng dầu thô xuất khẩu 4 tháng đạt 2,9 triệu tấn giảm 47,2% so cùng kỳ (một phần dầu khai thác được sử dụng để cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Về khí đốt thiên nhiên khai thác 4 tháng ước đạt 810 triệu m3 tăng 15,4% so với cùng kỳ.
- Than đá sản xuất 4 tháng đầu năm ước đạt 3,8 triệu tấn tăng 5,4% so với cùng kỳ, lượng than xuất khẩu 4 tháng đạt 6,7 triệu tấn giảm 11,7% so với cùng kỳ cầu (do lượng than sử dụng trong nước tăng để cung cấp cho các nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện, xi măng, phân bón) về kim ngạch xuất khẩu đạt 485 triệu USD.
- Điện sản xuất và phân phối tháng 4 năm 2010 ước thực hiện như sau: điện sản xuất và mua ngoài đạt 7,93 tỷ kWh tăng 16,5%, điện thương phẩm đạt 7,03 tỷ kWh tăng 14,95% so cùng kỳ. Điện thương phẩm bốn tháng đầu năm 2010 ước đạt 25,8 tỷ kWh tăng 18,34% so với cùng kỳ. Trong tháng 4, phụ tải tăng trưởng cao, lượng nước đổ về các hồ thủy điện phía Bắc ít nên các nhà máy thủy điện khai thác thấp. Nhiệt điện than, dầu, khí khai thác cao. Các NMNĐ Hải Phòng, Quảng Ninh bị sự cố và NMNĐ Sơn Động, Cẩm Phả vận hành không ổn định, ảnh hưởng đến việc cung cấp điện. Sản lượng điện mua của Trung Quốc thấp do miền Nam Trung Quốc bị hạn hán và thiếu điện.
- Phân hóa học bốn tháng đầu năm sản xuất ước đạt 223 nghìn tấn tăng 7,8% so cùng kỳ. Lượng phân bón nhập khẩu đạt 1,1 triệu tấn giảm 30,8% so với cùng kỳ, về kim ngạch nhập khẩu ước đạt 348 triệu USD.
- Thép tròn các loại bốn tháng đầu năm sản xuất đạt 1,45 triệu tấn tăng 5,8% so cùng kỳ.
- Xi măng sản xuất trong nước tăng khá, bốn tháng đầu năm ước đạt 17,2 triệu tấn tăng 15,7% so cùng kỳ.
4. Về các giải pháp, kiến nghị:
- Về phía cơ quan quản lý nhà nước:
+ có chính sách phù hợp để giữ ổn định giá các mặt hàng quan trọng như điện, than, xăng dầu để tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Đối với các mặt hàng tăng giá đột biến như thép xây dựng cần tiếp tục kiểm tra (trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh thuế nhập khẩu) để tránh tình trạng đầu cơ tăng giá bất hợp lý.
+ tiếp tục duy trì tỷ giá ngoại tệ và đảm bảo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị cho sản xuất; về lãi suất cần linh hoạt đối với lãi suất cơ bản và điều chỉnh phù hợp để giảm lãi suất cho vay vốn của các ngân hàng thương mại tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn sản xuất, kinh doanh.
+ tiếp tục thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển hạ tầng (đường sắt, đường bộ, cảng biển) vừa kích cầu tiêu thụ xi măng, thép xây dựng, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh.
- Về phía các doanh nghiệp:
+ Cần chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm (trong và ngoài nước) để duy trì và phát triển sản xuất, áp dụng các biện pháp cải tiến kỹ thuật để tăng năng suất lao động và giảm giá thành sản phẩm.
+ Về đầu tư cần đẩy nhanh tiến độ các dự án lớn về nguồn điện, khai thác và chế biến khoáng sản, luyện kim, xi măng, hoá chất, cơ khí chế tạo để tạo động lực cho nền kinh tế./.

File đính kèm:
BaocaoCongnghiepT4.10.pdf

Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1447
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)