Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 25/05/2010-16:00:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2010
1. Tình hình chung:
Tháng 05 năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 64.741 tỷ đồng tăng 3,3% so với tháng 04 năm 2010 và tăng 13,8% so cùng kỳ. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8,2%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 11,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,2% so với cùng kỳ (tuy nhiên trong đó dầu khí giảm 4,1%, các ngành khác tăng 22,4%).[1]
Cộng dồn 5 tháng đầu năm 2010 GTSXCN ước đạt 301.759 tỷ đồng tăng 13,6% so với cùng kỳ (cao hơn kế hoạch cả năm là 12%), trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 9,8% chiếm tỷ trọng 22,7% toàn ngành, khu vực ngoài nhà nước tăng 12,4% chiếm tỷ trọng 35,8% toàn ngành, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,7% chiếm tỷ trọng 41,5% toàn ngành.
Tính theo ngành kinh tế cấp 1, ước thực hiện hết quý II năm 2010 ngành công nghiệp khai thác tăng 2,2% so với cùng kỳ 2009 và chiếm tỷ trọng 5,4% so với toàn ngành, công nghiệp chế biến tăng 14,2% chiếm tỷ trọng 89,2%, công nghiệp điện, gas, nước tăng 18,9% chiếm tỷ trọng 5,4%.
Năm tháng đầu năm 2010 nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch ngành (12%) gồm: các sản phẩm năng lượng như điện sản xuất tăng 17,3%, khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 16,7%, khí hoá lỏng tăng 93,3% (do có thêm sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung Quất); các sản phẩm tiêu dùng như sữa bột tăng 35,6%, bia tăng 15,3%, thủy hải sản chế biến tăng 13,7%; điều hoà nhiệt độ tăng 45,7%, tủ lạnh tủ đá tăng 29,1%, quần áo mặc thường cho người lớn tăng 14,4%, giày dép, ủng bằng giả da tăng 13,2%; giấy bìa các loại tăng 14,8%, xà phòng giặt các loại tăng 25,3%, lốp ôtô máy kéo tăng 43,2%, nước máy thương phẩm tăng 12,4%; vật liệu xây dựng như kính thuỷ tinh tăng 32,7%, gạch xây bằng đất nung tăng 15,6%, gạch lát ceramic tăng 25,1%, xi măng tăng 16,2%; một số sản phẩm cơ khí như ôtô tăng 35,3% (xe chở khách tăng 38%, xe tải tăng 31,3%), xe máy tăng 35,7%, so với 5 tháng cùng kỳ năm 2009.
Một số sản phẩm tăng trưởng thấp hơn kế hoạch ngành gồm: than đá tăng 6,1%, thép tròn các loại tăng 6%, máy giặt tăng 3%, bình đun nước nóng tăng 5,5%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 8,7%, vải dệt từ sợi bông tăng 6,6%, tivi các loại tăng 10,7%; giày thể thao tăng 11,4%, thuốc lá điếu tăng 9,4%. Về sản phẩm giảm so cùng kỳ có dầu mỏ thô khai thác giảm 17,9%.
Theo vùng lãnh thổ 5 tháng đầu năm 2010 các tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch toàn ngành (12%) có Hà Nội tăng 12,1%, Hải Phòng tăng 14,1%; Vĩnh Phúc tăng 41,9%; Hải Dương tăng 18,9%; Phú Thọ tăng 24,1%; Quảng Ninh tăng 17,2%; Thanh Hoá tăng 18,5%; Đà Nẵng tăng 20,1% ; Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,8%; Bình Dương tăng 17,1%; Đồng Nai tăng 17,3% so cùng kỳ năm 2009.
Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp so với kế hoạch toàn ngành hoặc giảm so cùng kỳ gồm Khánh Hoà tăng 8,3%; Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 10,7% so cùng kỳ (do dầu thô khai thác giảm).
Một số nhận xét về tăng trưởng công nghiệp 5 tháng đầu năm 2010: về tốc độ tăng trưởng đạt cao hơn mức kế hoạch năm 2010, trong đó khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng cao và có tốc độ tăng cao, trong khi khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Về các sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao bao gồm cả năng lượng, các sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; vật liệu xây dựng và cơ khí ôtô. Về giá cả các mặt hàng công nghiệp trong tháng 5 có xu hướng ổn định, trong đó giá thép xây dựng đã giảm so với các tháng trước.
2. Tình hình cụ thể một số ngành sản xuất 5 tháng đầu năm 2010:
- Điện sản xuất ước thực hiện 5 tháng năm 2010 đạt 36,9 tỷ Kwh tăng 17,3% so cùng kỳ. Trong tháng 5 bắt đầu mùa mưa nên các hồ thủy điện chuyển sang tích nước và phát điện ổn định hơn các tháng đầu năm, tình trạng thiếu điện sẽ giảm tuy nhiên thời tiết nắng nóng đầu mùa hè sẽ làm tăng nhu cầu điện sinh hoạt (điều hòa, quạt điện) nên vẫn gây áp lực lên ngành điện.
- Dầu thô khai thác 5 tháng đầu năm 2010 đạt 5,96 triệu tấn, giảm 17,9% so với cùng kỳ (nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ đã đi vào sản xuất từ nhiều năm, trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng huy động chưa cao); khí đốt thiên nhiên dạng khí khai thác đạt 3,98 tỷ m3 tăng 16,7% so cùng kỳ.
- Than khai thác đạt 18,1 triệu tấn tăng 6,1% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại đạt 1,89 triệu tấn, tăng 6% so cùng kỳ.
- Xi măng năm 2010 đạt 22,4 triệu tấn, tăng 16,2% so cùng kỳ.
- Lắp ráp ôtô đạt 36,4 nghìn xe tăng 35,3% so cùng kỳ; xe máy đạt 1,48 triệu xe tăng 35,7% so cùng kỳ.
- Bia các loại đạt 850,1 triệu lít tăng 15,3% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính NPK) đạt 1,1 triệu tấn tăng 7,6%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 5 tháng đầu năm 2010 ước đạt 25,84 tỷ USD tăng 12,6% so cùng kỳ năm 2009; đạt 42,4% kế hoạch năm.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 3,42 triệu tấn giảm 49,8%, đạt 37,6% kế hoạch năm 2010 (về giá trị đạt 2,1 tỷ USD giảm 18% so cùng kỳ); than đá đạt 8,6 triệu tấn giảm 12,3% (về giá trị đạt 647 triệu USD tăng 34,5% so cùng kỳ); hàng dệt may đạt 3,8 tỷ USD tăng 17,1% so với cùng kỳ, đạt 36,3% kế hoạch năm; hàng giày dép đạt 1,78 tỷ USD tăng 7,7%; máy vi tính, sp điện tử và linh kiện đạt 1,21 tỷ USD tăng 30,4%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 356 triệu USD tăng 11,6%; dây và cáp điện đạt 487 triệu USD tăng 100,4%; sản phẩm nhựa đạt 388 triệu USD tăng 27,6%; sắt thép và sản phẩm đạt 733 triệu USD tăng 100,8% (đối với mặt hàng sắt thép có giá trị xuất khẩu tăng cao do nhu cầu trong nước không tăng nhiều nêu các doanh nghiệp nhập khẩu tái xuất các lô hàng đã nhập khẩu trước đây); máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 1,12 tỷ USD tăng 72,9% so cùng kỳ năm 2009.
Như vậy, trong 5 tháng đầu năm 2010 tuy sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng khoáng sản như dầu thô, than đá giảm so cùng kỳ, nhưng giá xuất khẩu tăng khá là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này không bị giảm nhiều; đối với các mặt hàng công nghiệp chế biến đều có mức tăng khá.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong tháng 5 năm 2010 ước đạt 6,85 tỷ USD, ước thực hiện 5 tháng năm 2010 đạt 31,2 tỷ USD tăng 29,8% so cùng kỳ năm 2009. Như vậy nhập siêu trong 5 tháng ước đạt 5,4 tỷ USD chiếm 20,9% kim ngạch nhập khẩu, về mức nhập siêu đã giảm so với các tháng trước.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu trong 5 tháng năm 2010 gồm: ước thực hiện nhập khẩu xăng dầu các loại ước đạt 4,38 triệu tấn giảm 23,5%; khí đốt hóa lỏng đạt 246 nghìn tấn giảm 25,7% nguyên nhân là do nhà máy Lọc dầu Dung Quất dần đi vào ổn định sản xuất nên các sản phẩm từ nhà máy đã đáp ứng được một phần nhu cầu sử dụng của thị truờng tiêu dùng; các sản phẩm khác từ dầu mỏ đạt 301 triệu USD tăng 58,4%; hóa chất đạt 797 triệu USD tăng 34,9%; sản phẩm hóa chất đạt 749 triệu USD tăng 41,9%; giấy các loại đạt 361 nghìn tấn giảm 1,9%; bông các loại đạt 164 nghìn tấn tăng 97,6%; sợi các loại đạt 219 nghìn tấn tăng 15,9%; vải các loại đạt 2 tỷ USD tăng 23,9%; nguyên phụ liệu dệt may da đạt 1 tỷ USD tăng 31,6%; sắt thép các loại đạt trên 3,31 triệu tấn tăng 6,7% (trong đó phôi thép đạt 784 nghìn tấn giảm 6,9%); kim loại thường đạt 238 nghìn tấn tăng 33%; máy tính và linh kiện điện tử đạt hơn 1,74 tỷ USD tăng 39,1%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt hơn 4,96 tỷ USD tăng 11,3%; ôtô nguyên chiếc các loại đạt 17.605 chiếc tăng 2,1%; linh kiện phụ tùng ôtô đạt 742 triệu USD tăng 69%; xe máy nguyên chiếc đạt 37.086 chiếc giảm 27,3%; linh kiện xe máy đạt 310 triệu USD tăng 73,2% so với cùng kỳ năm 2009.
4. Một số nhận xét và kiến nghị:
Hiện nay, một số các Hiệp hội, Tập đoàn, Tổng công ty và doanh nghiệp gặp một số khó khăn liên quan đến giá cả nguyên liệu đầu vào do giá điện, than và giá nguyên liệu nhập khẩu tăng; việc thiếu lao động phổ thông cho một số lĩnh vực sản xuất như thủy sản, dệt may, da giày, đồ gỗ tiếp tục gây khó khăn cho việc ổn định và phát triển sản xuất; khả năng tiếp cận nguồn vốn vay bị hạn chế, lãi suất cho vay của các ngân hàng mặc dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao, khoảng 13-14%/năm. Đây là những khó khăn cần phải được giải quyết kịp thời, giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh, tạo sự bình ổn về giá cả, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu và giảm nhập siêu./.


[1] Tính theo chỉ số phát triểncông nghiệp (IIP) tháng 5/2010 tăng 4% so với tháng 4/2010 và tăng 7,2% so cùng kỳ năm 2009, tính chung 5 tháng 2010 tăng 8,7% so với cùng kỳ 2009, trong đó công nghiệp khai thác mỏ giảm 0,1%, công nghiệp chế biến tăng 11,5%, công nghiệp điện, nước, gas tăng 17,2%.

File đính kèm:
BCCongnghiepT5.10.pdf

Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1238
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)