Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/02/2011-14:56:00 PM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp tháng 2 và 2 tháng đầu năm 2011
Báo cáo của Vụ Kinh tế công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 24/2/2011
1. Tình hình chung:
Tháng 02 năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 59.650 tỷ đồng giảm 16,3% so với tháng 1 năm 2011 và tăng 17,7% so cùng kỳ. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 20% so với cùng kỳ.
Cộng dồn 2 tháng năm 2011 GTSXCN ước đạt 130.926 tỷ đồng tăng 14,6% so với cùng kỳ (cao hơn kế hoạch cả năm là 14%), trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 7,0%, khu vực ngoài nhà nước tăng 17%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,6% so với cùng kỳ.
Phân theo cấp quản lý, ước tính 2 tháng đầu năm 2011, công nghiệp trung ương đạt 21.730 tỷ đồng tăng 7,4% so với cùng kỳ; công nghiệp địa phương đạt 53.707 tỷ đồng tăng 15,8% (trong đó công nghiệp quốc doanh địa phương tăng 5,2%, ngoài quốc doanh tăng 17%); kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 55.489 tỷ đồng tăng 16,6% so với cùng kỳ.
Hai tháng đầu năm 2011 nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch ngành (14%) gồm: Khí hoá lỏng (LPG) tăng 26,2%; thuỷ hải sản chế biến tăng 15,9%; đường kính tăng 17,9%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợinhân tạo tăng 22,3%; giày dép, ủng bằng da giả cho người lớn tăng 14,9%; giày thể thao tăng 30,9%; giấy bìa các loại tăng 18,1%; sơn hoá học các loại tăng 25,2%; kính thuỷ tinh tăng 15,8%; gạch lát ceramic tăng 17,2%; xi măng tăng 19,4%; bình đun nước nóng tăng 234,7%; xe chở khách tăng 14,7%; xe máy tăng 19,2% so với cùng kỳ năm 2011.
Một số sản phẩm tăng trưởng thấp hơn kế hoạch ngành gồm: than đá tăng 8,5%; dầu thực vật tinh luyện tăng 2,8%; sữa bột tăng 13,8%; bia các loại tăng 5,8%; thuốc lá điếu tăng 4,3%; vải dệt từ sợi bông tăng 1,9%; quần áo mặc thường cho người lớn tăng 9,7%; xà phòng giặt các loại tăng 3,1%; lốp ô tô, máy kéo tăng 5,5%; phân hoá học tăng 12,1%; thép tròn các loại tăng 7,3%; máy giặt tăng 11,7%; điện sản xuất tăng 13,3%; nước máy thương phẩm tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2011.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm 2011 như: dầu mỏ thô khai thác giảm 4%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 8,2%; gạch xây bằng đất nung giảm 4,7%; điều hoà nhiệt độ giảm 54,4%; tủ lạnh, tủ đá giảm 10,7%; ti vi các loại giảm 3,1%; xe tải giảm 20,1% so với cùng kỳ.
Một số nhận xét về tăng trưởng công nghiệp 2 tháng đầu năm 2011:
- Về tốc độ tăng trưởng: đạt cao hơn mức kế hoạch năm 2011, trong đó khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao về GTSXCN, trong khi khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao bao gồm cả năng lượng (chủ yếu là điện, khí hoả lỏng), các sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu (thuỷ hải sản chế biến; sữa bột; giày thể thao; đường kính), vật liệu xây dựng và cơ khí ôtô (xi măng; kính thuỷ tinh; xe máy và xe chở khách). Tuy nhiên đáng lưu ý là sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp lại giảm so với cùng kỳ là dầu thô khai thác nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ.
- Về giá cả
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 2/2011 tăng cao tại Hà Nội và Tp.HCM, khi lần lượt đạt mức tăng 1,98% và 1,61%.
Theo Hiệp hội xi măng VN, từ đầu tháng 2 đến nay giá xi măng tăng 60.000 đồng/tấn tăng khoảng 5-6%, hiện giá xi măng đang được bán ra phổ biến từ 900.000 đồng- 1,36 triệu đồng/tấn, tuỳ theo chủng loại và khu vực. Giá thép đó tăng giá từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng mỗi tấn. Dự kiến tới đâygiá than, giá điện và giá xăng dầu tiếp tục được điều chỉnh tăngthỡ giỏ các mặt hàng công nghiệp cũng sẽ phải điều chỉnh tăng theo mới có thể đảm bảo được việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong tháng này, giá tăng mạnh nhất là nhóm đồ uống và thuốc lá (+3,45%), xếp thứ hai là nhóm văn hóa giải trí và du lịch (+2,58%), kế đến là nhóm hàng ăn (+2,48%) và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác (+2,41%), cũn lại cỏc nhúm khỏc đều tăng nhẹ: nhóm may mặc-mũ nón-giày dép tăng 1,73%, nhóm giao thông tăng 1,59%, nhóm thiết bị và đồ dùng gia đỡnh tăng 0,63%, nhóm nhà ở - điện nước và vật liệu xây dựng tăng 0,14%, nhóm giáo dục tăng 0,09%, nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%, nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,01%.
Cũng trong tháng 2, chỉ số giá vàng giảm 0,7% so tháng trước nhưng lại tăng tới 34,67% so cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá USD tăng nhẹ ở mức 0,74% so với tháng 1 và tăng 9,63% so với cùng kỳ năm trước
2. Tình hình cụ thể một số ngành sản xuất 2 tháng đầu năm 2011:
- Điện sản xuất ước thực hiện 2 tháng năm 2011 đạt 15,4 tỷ Kwh tăng 13,3% so cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác ước đạt 2,42 triệu tấn, giảm 4,0%; khí đốt thiên nhiên dạng khí khai thác ước đạt 1,45 tỷ m3 giảm 8,2%; khí hoá lỏng (LPG) ước đạt 102,2 nghìn tấn tăng 26,2% so cùng kỳ năm 2010.
- Than khai thác ước đạt 6,98 triệu tấn tăng 8,5% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại ước đạt 0,73 triệu tấn, tăng 7,3% so cùng kỳ.
- Xi măng ước đạt 8,7 triệu tấn, tăng 19,4% so cùng kỳ.
- Lắp ráp ôtô ước đạt 13,1 nghìn xe tăng 1,2% so cùng kỳ; xe máy ước đạt 6,64 triệu xe tăng 19,2% so cùng kỳ.
- Bia các loại ước đạt 341,4 triệu lít tăng 5,8% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính NPK) ước đạt 472,9 ngàn tấn tăng 12,1%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 2 tháng đầu năm 2011 ước đạt 12,3 tỷ USD tăng 40,3% so cùng kỳ năm 2011.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô ước đạt 1,3 triệu tấn giảm 3,4% so với cùng kỳ;than đá ước đạt 807 ngàn tấn giảm 71,2% (theo số liệu của Vụ Kinh tế Dịch vụ, theo báo cáo của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam thì lượng than xuất khẩu 2 tháng đạt 1,28 triệu tấn bằng 49,5% so cùng kỳ nguyên nhân là do lượng than sử dụng trong nước tăng); hàng dệt may ước đạt 2,16 tỷ USD tăng 54,4% so với cùng kỳ; hàng giày dép ước đạt 925 triệu USD tăng 37,9%; máy vi tính, sp điện tử và linh kiện ước đạt 529 triệu USD tăng 24,8%; túi xách, vali, mũ và ô dù ước đạt 176 triệu USD tăng 47,9%; dây và cáp điện đạt 214 triệu USD tăng 18,9%; sản phẩm nhựa ước đạt 172 triệu USD tăng 36,5%; sắt thép và sản phẩm ước đạt 357 triệu USD tăng 63%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng ước đạt 495 triệu USD tăng 26,9% so cùng kỳ năm 2010.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong tháng 2 năm 2011 ước đạt 6,2 tỷ USD, ước thực hiện 2 tháng năm 2011 đạt 14,17 tỷ USD tăng 26,8% so cùng kỳ năm 2010. Về nhập siêu trong 2 tháng ước đạt 1,827 tỷ USD bằng 14,8% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu trong 2 tháng năm 2011 gồm: xăng dầu các loại ước đạt 2,02 triệu tấn tăng 22,8% (do nhu cầu trong nước tăng, trong khi nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động chưa ổn định); khí đốt hóa lỏng ước đạt 89 nghìn tấn giảm 6,0%; các sản phẩm khác từ dầu mỏ ước đạt 127 triệu USD tăng 22,1%; hóa chất ước đạt 330 triệu USD tăng 24,1%; sản phẩm hóa chất ước đạt 330 triệu USD tăng 24,1%; giấy các loại ước đạt 162 nghìn tấn tăng 32,8%; bông các loại ước đạt 65 nghìn tấn tăng 14%; sợi các loại ước đạt 89 nghìn tấn tăng 18,7%; vải các loại ước đạt 859 triệu USD tăng 47,8%; nguyên phụ liệu dệt may da ước đạt 358 triệu USD tăng 26,1%; sắt thép các loại ước đạt 763 ngàn tấn giảm 13% (trong đó phôi thép ước đạt 111 ngàn tấn giảm 44,6% do một số nhà máy luyện phôi trong nước đi vào hoạt động ổn định như thép Hòa Phát, thép Việt); kim loại thường ước đạt 87 nghìn tấn tăng 2,4%; máy tính và linh kiện điện tử ước đạt hơn 874 triệu USD tăng 38,5%; máy móc thiết bị phụ tùng ước đạt hơn 2,2 tỷ USD tăng 18,9%; ôtô nguyên chiếc các loại ước đạt 179 chiếc tăng 80,2%; linh kiện phụ tùng ôtô ước đạt 295 triệu USD tăng 6,1%; xe máy nguyên chiếc ước đạt 36 chiếc tăng 21,2%; linh kiện xe máy ước đạt 134 triệu USD tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2010./.

File đính kèm:
BCCongnghiepT2.11.pdf

Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1447
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)