1. Tình hình chung:
Tháng 9 năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 70.758 tỷ đồng tăng 2,3% so với tháng 8 năm 2010 và tăng 15,1% so cùng kỳ. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,7%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 14,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,7% so với cùng kỳ (trong đó Tập đoàn dầu khí giảm 5,9%, các ngành khác tăng 21,7%).
Cộng dồn 9 tháng năm 2010 GTSXCN ước đạt 574.463 tỷ đồng tăng 13,8% so với cùng kỳ (cao hơn kế hoạch cả năm là 12%), trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 9,1%, khu vực ngoài nhà nước tăng 12,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,4%.[1]
Chín tháng đầu năm 2010 nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch ngành (12%) gồm: các sản phẩm năng lượng như điện sản xuất tăng 14,5%, khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 19,1%, khí hoá lỏng tăng 221,2% (do có thêm sản phẩm của nhà máy lọc dầu Dung Quất); các sản phẩm tiêu dùng như sữa bột tăng 26,8%, bia tăng 21,6%, tủ lạnh tủ đá tăng 19,9%, quần áo mặc thường cho người lớn tăng 20,2%, giày thể thao tăng 25,2%, nước máy thương phẩm tăng 17,5%; vật liệu xây dựng như kính thuỷ tinh tăng 22,8%, gạch xây bằng đất nung tăng 12,2%, gạch lát ceramic tăng 12,3%, xi măng tăng 16,8%; một số sản phẩm cơ khí như ôtô tăng 16,1%, xe máy tăng 16,4%, xe tải tăng 21,1% so với cùng kỳ năm 2009.
Một số sản phẩm tăng trưởng thấp hơn kế hoạch ngành gồm: thép tròn các loại tăng 1,0%; thủy hải sản chế biến tăng 10,3%; điều hoà nhiệt độ tăng 11,5%, giấy bìa các loại tăng 10,9%, xà phòng giặt các loại tăng 10,6%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 8,4%, vải dệt từ sợi bông tăng 4,0%; than đá tăng 1,4%; máy giặt tăng 0,6%; thuốc lá điếu tăng 0,5%; Giày, dép ủng giả da cho người lớn tăng 4,8%; phân hoá học tăng 8,6%; sơn hoá học các loại tăng 20,5%
Bên cạnh đó, một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm 2009 như: dầu mỏ thô khai thác giảm 13,8%; bình đun nước nóng giảm 2,0%, tivi các loại giảm 4,9%; dầu thực vật tinh luyện giảm 4,7%; đường kính giảm 10,7%; lốp ôtô máy kéo tăng 1,7%
Một số nhận xét về tăng trưởng công nghiệp 9 tháng đầu năm 2010:
- Về tốc độ tăng trưởng: đạt cao hơn mức kế hoạch năm 2010, trong đó khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao trong GTSXCN, trong khi khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Về các sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao bao gồm cả năng lượng (chủ yếu là điện, khí đốt thiên nhiên dạng khí; khí hoả lỏng), các sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu (sữa bột; giày thể thao; tủ lạnh, tủ đá), vật liệu xây dựng và cơ khí ôtô (xi măng; kính thuỷ tinh; xe tải và xe chở khách). Tuy nhiên đáng lưu ý là sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp lại giảm so với cùng kỳ là dầu thô khai thác nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ.
- Về giá cả
Giá dầu thô trên thế giới tương đối ổn định từ 74,86 - 75 USD/thùng, dự báo lượng cung trên thị trường dầu thô thế giới sẽ khá ổn định trong thời gian tới do mùa bão năm nay đã qua thời kỳ đỉnh điểm, hoạt động của các giếng dầu ngoài khơi sẽ không còn chịu tác động mạnh của mưa bão.
Theo Tổng công ty xăng dầu Việt Nam ngày 23/9/2010 thì giá bán hiện hành đối với xăng RON 92 là 16.400 đồng/lít, dầu diezel 0,05Scó giá 14.750 đồng/lít, dầu hoả có giá 15.100 đồng/lít.
Do việc điều chỉnh giá xăng dầu, tỷ giá VND/USD đã được điều chỉnh trong tháng 8, dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng tới 1,31% so với tháng 8 (tác động chủ yếu tới chỉ số giá các nhóm giáo dục, văn hoá, du lịch, giải trí, giao thông vận tải do dịp nghỉ lễ 2/9, khai giảng năm học 2010-2011 và Tết Trung thu) , cho thấy sự đột biến của giá cả thị trường, đồng thời cũng khiến nỗ lực kiềm chế lạm phát các tháng cuối năm trở nên khó khăn hơn.
Giá thép xây dựng trong nước đang giữ ở mức trung bình từ 13,3-13,9 triệu đồng/tấn (chưa bao gồm thuế VAT), giá phôi thép trên thị trường thế giới trong 2 tuần đầu tháng 9/2010 chỉ ở mức 600 USD/tấn, thép phế vào khoảng 400 USD/tấn, đã giảm khoảng 20- 30 USD/tấn so với mức giá hồi tháng 8/2010.
Đầu tháng 9/2010, giá bông nhập khẩu (nguyên liệu chính đầu vào của ngành dệt may) đã ở mức 1,9 - 2 USD/kg (1.900 – 2.000 USD/tấn), tăng 9% so với tháng 8/2010 và tăng tới 45% so với cùng thời điểm này năm ngoái, nguyên nhân là do Ấn Độ hạn chế xuất khẩu bông, trong khi nhiều nước sản xuất bông lớn khác như Pakistan, Trung Quốc... bị thiên tai như lũ lụt, hạn hán. Điều này làm ảnh hưởng tới nguồn nguyên liệu nhập khẩu của các doanh nghiệp dệt vải trong nước, đồng thời về lâu dài sẽ làm giảm kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam.
2. Tình hình cụ thể một số ngành sản xuất 9 tháng đầu năm 2010:[2]
- Điện sản xuất ước thực hiện 9 tháng năm 2010 đạt 67,9 tỷ Kwh tăng 14,5% so cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác ước đạt 11,064 triệu tấn, giảm 13,8% so với cùng kỳ; khí đốt thiên nhiên dạng khí khai thác ước đạt 7,05 tỷ m3 tăng 19,1%; khí hoá lỏng (LPG) ước đạt 435,7 nghìn tấn tăng 221,2% so cùng kỳ năm 2009.
- Than khai thác ước đạt 32,364 triệu tấn tăng 1,4% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại ước đạt 3,34 triệu tấn, tăng 1,0% so cùng kỳ.
- Xi măng ước đạt 41,3 triệu tấn, tăng 16,8% so cùng kỳ.
- Lắp ráp ôtô ước đạt 77,4 nghìn xe tăng 16,1% so cùng kỳ; xe máy ước đạt 2,52 triệu xe tăng 16,4% so cùng kỳ.
- Bia các loại ước đạt 1,79 tỷ lít tăng 21,6% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính NPK) ước đạt 1,91 triệu tấn tăng 8,6%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 9 tháng đầu năm 2010 ước đạt 51,5 tỷ USD tăng 23,2% so cùng kỳ năm 2009; đạt 84,4% kế hoạch năm.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô ước đạt 6,07 triệu tấn tăng 4,9%, đạt 66,8% kế hoạch năm 2010, (về kim ngạch xuất khẩu đạt 4,73 tỷ USD giảm 44,3% so cùng kỳ); than đá ước đạt 14,67 triệu tấn giảm 1,5% (kim ngạch đạt chỉ 1,16tỷ USD giảm 17% so cùng kỳ); hàng dệt may ước đạt 8,04 tỷ USD tăng 20,7% so với cùng kỳ, đạt 76,6% kế hoạch năm; hàng giày dép ước đạt 3,6 tỷ USD tăng 23,1%; máy vi tính, sp điện tử và linh kiện ước đạt 2,49 tỷ USD tăng 28,2%; túi xách, vali, mũ và ô dù ước đạt 686 triệu USD tăng 26,6%; dây và cáp điện đạt 948 triệu USD tăng 67,8%; sản phẩm nhựa ước đạt 747 triệu USD tăng 28,4%; sắt thép và sản phẩm ước đạt 1,29 tỷ USD tăng 89,6%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng ước đạt 2,15 tỷ USD tăng 55,2% so cùng kỳ năm 2009
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2010 giá cả xuất khẩu tăng khá là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho kim ngạch xuất khẩu không bị giảm nhiều trong khi khối lượng nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực (dầu thô; than đá) giảm so với cùng kỳ năm 2009. Đáng lưu ý là các mặt hàng công nghiệp nặng, cơ khí chế tạo tham gia xuất khẩu đạt cao trên 1tỷ USD gồm sắt thép các loại và máy móc, thiết bị và phụ tùng.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong tháng 9 năm 2010 ước đạt 7,15 tỷ USD, ước thực hiện 9 tháng năm 2010 đạt 60,08 tỷ USD tăng 22,7% so cùng kỳ năm 2009, đạt 81,2% kế hoạch năm. Về nhập siêu trong 9 tháng ước đạt 8,58 tỷ USD bằng 16,6% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa (giảm so với các tháng trước).
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu trong 9 tháng năm 2010 gồm: xăng dầu các loại ước đạt 7,84 triệu tấn giảm 21,2% (do có sản phẩm của Nhà máy lọc dầu Dung Quất đáp ứng một phần nhu cầu thị trường), đạt 67,6% kế hoạch; khí đốt hóa lỏng ước đạt 452 nghìn tấn giảm 22,7% (do có thêm sản phẩm của nhà máy Lọc dầu Dung Quất); các sản phẩm khác từ dầu mỏ ước đạt 564 triệu USD tăng 50,8%; hóa chất ước đạt 1,47 tỷ USD tăng 24,7%; sản phẩm hóa chất ước đạt 1,45 tỷ USD tăng 32,2%; giấy các loại ước đạt 685 nghìn tấn giảm 9,2%, đạt 75,3% kế hoạch; bông các loại ước đạt 279 nghìn tấn tăng 28%, đạt 87,2% kế hoạch; sợi các loại ước đạt 409 nghìn tấn tăng 13%, đạt 74,4% kế hoạch; vải các loại ước đạt 3,84 tỷ USD tăng 26%, đạt 85,3% kế hoạch; nguyên phụ liệu dệt may da ước đạt 1,89 tỷ USD tăng 38,3%, đạt 79,1% kế hoạch; sắt thép các loại ước đạt trên 6,09 triệu tấn giảm 14,5% (trong đó phôi thép ước đạt 1,49 triệu tấn giảm 17,7%); kim loại thường ước đạt 475 nghìn tấn tăng 23,4%; máy tính và linh kiện điện tử ước đạt hơn 3,5 tỷ USD tăng 30,6%; máy móc thiết bị phụ tùng ước đạt hơn 9,6 tỷ USD tăng 11,6%, đạt 64,6% kế hoạch; ôtô nguyên chiếc các loại ước đạt 36.128 chiếc giảm 24,9%, đạt 84,8% kế hoạch; linh kiện phụ tùng ôtô ước đạt 1,4 tỷ USD tăng 22,1%; xe máy nguyên chiếc ước đạt 73.624 chiếc giảm 14,1%; linh kiện xe máy ước đạt 564 triệu USD tăng 37,6% so với cùng kỳ năm 2009./.
[1] Tính theo chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp IPP 9 tháng tăng 8,8% so cùng kỳ, trong đó công nghiệp khai thác mỏ tăng 0,6%, công nghiệp chế biến tăng 11,7%, công nghiệp điện nước gas tăng 15%.
[2] Về chỉ số tiêu thụ sản phẩm công nghiệp 9 tháng 2010 ước tăng 10,7% so với cùng kỳ, về chỉ số tồn kho tháng 9 so với tháng 8/2010 tăng 2,5% và so với cùng kỳ năm 2009 tăng 37,5% cho thấy việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp gặp khó khăn so cùng kỳ.
File đính kèm: BCCongnghiepT9.10.pdf
Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư