Báo cáo của Vụ Kinh tế công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 29/3/2011
1. Tình hình chung:
Tháng 3 năm 2011 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 68.418 tỷ đồng tăng 15,9% so với tháng 02 năm 2011 và tăng 14,2% so cùng kỳ. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 13.288 tỷ đồng tăng 3,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng ước đạt 26.221 tỷ đồng tăng 17,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 28.909 tỷ đồng tăng 16,8% so với cùng kỳ.
Cộng dồn 3 tháng năm 2011 GTSXCN ước đạt 198.719 tỷ đồng tăng 14,1% so với cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 5,5%, khu vực ngoài nhà nước tăng 16,6%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,3%.
Nếu chia theo ngành công nghiệp cấp I thì trong quý I năm 2011 GTSXCN của ngành công nghiệp khai thác ước đạt 9.384 tỷ đồng tăng 1,9%, công nghiệp chế biến ước đạt 179.092 tỷ đồng tăng 15,1%; sản xuất, phân phối điện, nước ước đạt 10.243 tỷ đồng tăng 9,2% so với cùng kỳ.
Trong quý I năm 2011 nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ, cụ thể: khí hoá lỏng (LPG) tăng 38,8%; thuỷ hải sản chế biến tăng 14,4%; sữa bột tăng 19,5%; đường kính tăng 18,2%; vải dệt từ sợi tổng hợp hoặc sợi nhân tạo tăng 16,8%; quần áo mặc thường cho người lớn tăng 17,3%; giày thể thao tăng 17,5%; bình đun nước nóng tăng 81,9%; máy giặt tăng 17,7%; xe chở khách tăng 19,2%.
Một số sản phẩm tăng trưởng thấp hơn kế hoạch ngành gồm: khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 1,3%; dầu mỏ thô khai thác tăng 2,2%; điện sản xuất tăng 9,%; thép tròn các loại tăng 3,9%; giấy bìa các loại tăng 8,3%; vải dệt từ sợi bông tăng 0,2%; than đá tăng 0,1%; phân hoá học tăng 11,1%; sơn hoá học các loại tăng 12,3%; thuốc lá điếu tăng 6,8%;
Bên cạnh đó, một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm 2010 như: gạch bằng đất nung giảm 1,6%; điều hoà nhiệt độ giảm 55,3%; tủ lạnh, tủ đá giảm 16,9%; tivi các loại giảm 7,7%; sản xuất xe ô tô tải giảm 21,9%.
Một số nhận xét:
- Về tăng trưởng công nghiệp 3 tháng đầu năm 2011: về tốc độ tăng trưởng đạt cao hơn mức kế hoạch năm 2011, trong đó khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao trong GTSXCN, trong khi khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Các sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao bao gồm cả năng lượng (chủ yếu là khí hoả lỏng ), các sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu (thuỷ hải sản chế biến; sữa bột; đường kính; giày thể thao; bình đun nước nóng; xe chở khách).
- Trong tháng 2, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 05/2011/TT-BCT ngày 25/02/2011 quy định về giá bán điện năm 2011 và hướng dẫn thực hiện quy định này thay thế Thông tư số 08/2010/TT-BCT ngày 24 tháng 02 năm 2010 của Bộ Công Thương quy định về giá bán điện năm 2010 và hướng dẫn thực hiện. Với việc điều chỉnh giá điện năm 2011 sẽ làm tăng giá thành sản xuất của các ngành sản xuất và tác động tới mức tiêu thụ điện của các hộ sử dụng điện.
- Bên cạnh việc tăng giá điện bắt đầu từ 01/3/2011, từ ngày 24/02/2011 các mặt hàng xăng, dầu diesel, dầu ma-zút đều được điều chỉnh tăng. Giá bán lẻ các loại xăng tăng 2.900 đồng/lít; dầu diesel tăng 3.550 đồng/lít, dầu hỏa tăng 3.100 đồng/lít; dầu ma-zút tăng 2.110 đồng/lít. Do đó làm tăng giá thành sản phẩm và ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
- Tình hình giá thép xây dựng của một số nhà cung cấp trong nước đã tăng trong tháng 3, mức tăng từ 400 nghìn đồng/tấn tới 600 nghìn đồng/tấn. Nguyên nhân của việc tăng giá bán là do giá nguyên liệu phục vụ cho ngành thép như than, quặng và dầu mỏ tăng nên giá phôi và thép phế nhập khẩu tăng, cùng với việc điều chỉnh giá bán điện và xăng dầu cũng làm tăng giá thành sản phẩm.
2. Tình hình cụ thể một số ngành sản xuất 3 tháng đầu năm 2011:
- Điện sản xuất ước thực hiện 3 tháng năm 2011 đạt 22,7 tỷ Kwh tăng 9,3% so cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác ước đạt 3,67 triệu tấn, tăng 2,2% so với cùng kỳ; khí đốt thiên nhiên dạng khí khai thác ước đạt 2,36 tỷ m3 tăng 1,3%; khí hoá lỏng (LPG) ước đạt 157,4 nghìn tấn tăng 38,8% so cùng kỳ năm 2010.
- Than khai thác ước đạt 10,82 triệu tấn tăng0,1% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại ước đạt 1,1 triệu tấn, tăng 3,9% so cùng kỳ.
- Xi măng ước đạt 13,1 triệu tấn, tăng 9,4% so cùng kỳ.
- Lắp ráp ôtô ước đạt 20,1 nghìn xe tăng 3,4% so cùng kỳ; xe máy ước đạt 946,9 nghìn chiếc xe tăng 9,8% so cùng kỳ.
- Bia các loại ước đạt 534 triệu lít tăng 9,5% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính NPK) ước đạt 713,3 nghìn tấn tăng 11,1%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 3 tháng đầu năm 2011 ước đạt 19,24 tỷ USD tăng 33,7% so cùng kỳ năm 2010.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô ước đạt 1,96 triệu tấn giảm 12,3% (về kim ngạch xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD; than đá ước đạt 1,88 triệu tấn giảm 60,6% (kim ngạch xuất khẩu đạt 210 triệu USD giảm 38,4% so cùng kỳ); hàng dệt may ước đạt 2,8 tỷ USD tăng 27,9% so với cùng kỳ; hàng giày dép ước đạt 1,3 tỷ USD tăng 29,6%; máy vi tính, sp điện tử và linh kiện ước đạt 791 triệu USD tăng 13%; túi xách, vali, mũ và ô dù ước đạt 255 triệu USD tăng 38,6%; dây và cáp điện đạt 354 triệu USD tăng 20,8%; sắt thép ước đạt 443 nghìn tấn tăng 87,9% (kim ngạch xuất khẩu ước đạt 387 triệu USD tăng 87,8% so với cùng kỳ);sản phẩm sắt thép ước đạt 210 triệu USD tăng 16,7%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng ước đạt 782 triệu USD tăng 20,1% so cùng kỳ năm 2010.
Như vậy, trong 3 tháng đầu năm 2010 giá trị xuất khẩu tăng khá là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho kim ngạch xuất khẩu tăng trong khi khối lượng kim ngạch nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực (dầu thô; than đá) giảm so với cùng kỳ năm 2010. Đáng lưu ý là các mặt hàng công nghiệp nặng, cơ khí chế tạo tham gia xuất khẩu đạt cao hơn so với cùng kỳ gồm sắt thép, các sản phẩm sắt thép và máy móc, thiết bị và phụ tùng.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong tháng 3 năm 2011 ước đạt 8,2 tỷ USD; ước thực hiện 3 tháng đầu năm 2011 đạt 22,2 tỷ USD tăng 23,8% so cùng kỳ năm 2010.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu trong 3 tháng năm 2011 gồm: xăng dầu các loại ước đạt 2,88 triệu tấn tăng 12,7% về lượng; khí đốt hóa lỏng ước đạt 140 nghìn tấn giảm 10,3% về lượng; các sản phẩm khác từ dầu mỏ ước đạt 199 triệu USD tăng 23,6% về giá trị; hóa chất ước đạt 551 triệu USD tăng 22,7%; sản phẩm hóa chất ước đạt 528 triệu USD tăng 26,3%; giấy các loại ước đạt 261 nghìn tấn tăng 25,5%; bông các loại ước đạt 110 nghìn tấn tăng 19,6%; sợi các loại ước đạt 156 nghìn tấn tăng 27,9%; vải các loại ước đạt 1,4 tỷ USD tăng 42%; nguyên phụ liệu dệt may da ước đạt 623 triệu USD tăng 22,4%; sắt thép các loại ước đạt trên 1,63 triệu tấn giảm 7,2% (trong đó phôi thép ước đạt 55 nghìn tấn giảm 89,1%); kim loại thường ước đạt 160 nghìn tấn tăng 11,1%; máy tính và linh kiện điện tử ước đạt 1,28 tỷ USD tăng 29,8%; máy móc thiết bị phụ tùng ước đạt hơn 3,4 tỷ USD tăng 14,8%; ôtô nguyên chiếc các loại ước đạt 14.750 chiếc tăng 54,8%; linh kiện phụ tùng ôtô ước đạt 472 triệu USD tăng 5,1%; xe máy nguyên chiếc ước đạt 24.160 chiếc giảm 1%; linh kiện xe máy ước đạt 212 triệu USD tăng 17,8% so với cùng kỳ năm 2010./.
Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạc và Đầu tư